[Trang chu] [Kinh sach]

KINH KIM CANG

[mucluc][loidausach][p1][p2]

[d1-d5][d6-d10][d11-15][d16-d20][d21-d25][d26-d32]


ĐOẠN 21

ÂM:

PHI THUYẾT SỞ THUYẾT.

Tu-bồ-đề! Nhữ vật vị Như lai tác thị niệm: Ngă đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng Phật, bất năng giải ngă sở thuyết cố. Tu-bồ-đề! Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp. Nhĩ thời Tuệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh ư vị lai thế, văn thuyết thị pháp, sanh tín tâm phủ?

Phật ngôn: Tu-bồ-đề! Bỉ phi chúng sanh, phi bất chúng sanh. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Chúng sanh, chúng sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh.

DỊCH:

KHÔNG NĂNG THUYẾT VÀ SỞ THUYẾT.

Này Tu-bồ-đề, ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế này, ta sẽ có nói pháp, chớ khởi cái nghĩ ấy. V́ cớ sao? Nếu người nói Như Lai có nói pháp tức là phỉ báng Phật, không thể hiểu nghĩa ta đă nói. Này Tu-bồ-đề, nói pháp đó không có pháp có thể nói ấy gọi là nói pháp. Khi ấy ngài Tuệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này sanh ḷng tin chăng? Phật bảo: Tu-bồ-đề, kia chẳng phải chúng sanh, chẳng phải chẳng chúng sanh. V́ cớ sao? Này Tu-bồ-đề, chúng sanh, chúng sanh ấy Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, ấy gọi làchúng sanh.

GIẢNG:

Đây là ĺa năng thuyết và sở thuyết. Năng thuyết là người hay nói, sở thuyết là pháp bị nói. Người hay nói và pháp bị nói đều ĺa, tại sao? Phật bảo ngài Tu-bồ-đề: Ông chớ nói Như Lai khởi nghĩ sẽ có nói pháp, chớ nghĩ như vậy. V́ sao? V́ nếu người nói Như Lai có nói pháp tức là chê bai Phật, không hiểu nghĩa Phật nói. Như vậy chúng ta có chê bai Phật không, v́ chúng ta luôn luôn nói Phật thuyết pháp. Kinh là Phật nói, nếu nói Phật nói là chê bai Phật. Quí vị làm sao hiểu được đoạn này? Đức Phật bảo ngài Tu-bồ-đề: Nói pháp tức là không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp. Đó là chỗ thật là khó hiểu phải không? Tại sao đức Phật nói pháp bốn mươi chín năm trong lịch sử ghi rơ ràng, nhưng nếu nói Phật thuyết pháp là phỉ báng Phật? Nếu chúng ta thấy thật có Phật, thân tứ đại của Ngài là thật và pháp Ngài nói ra là thật, chúng ta không hiểu nghĩa Ngài nói rồi. Ngài bảo tứ đại là duyên hợp không thật mà chúng ta nói là thật, tức chúng ta phản bội Phật. Nếu Phật không thật th́ pháp Phật nói có thật không? Vậy nếu cho là có pháp thật Phật nói th́ không phải chê bai Phật là ǵ? Chúng ta phải hiểu rơ Phật nóipháp là nói các pháp ở thế gian không có tự thể, do duyên hợp giả có nên không có một pháp thật; nay chúng ta chấp Phật nói pháp thật th́ đó là phỉ báng Phật chớ ǵ. Pháp Phật nói chẳng qua là tướng tùy duyên, không có thật thể, cũng như thân Phật cũng là tướng tùy duyên không có thật thể, nếu chúng ta thấy là thật là phản bội lời Phật, v́ vậy nói là phỉ báng Phật. Trái lại chúng ta biết Phật thuyết pháp đó là tướng tùy duyên th́ không có lỗi ǵ cả, hiểu như thế là chúng ta không phỉ báng Phật.

Tỉ dụ từ trước đến giờ quí vị đă nghe tôi nói, bao nhiêu ngôn từ, quí vị t́m lại xem có không? Lời lẽ phát ra là tướng duyên hợp, do nó hợp với nhĩ căn của quí vị, nên có chủng tử gieo vào tàng thức cũng là tướng duyên hợp. Từ duyên này phát ra rồi duyên kia thâu vào, đó đều là tướng duyên hợp, không có một pháp thật. Nếu có pháp thật th́ những lời tôi nói ra sẽ thành khối chớ không mất, nhưng khi tôi nói ra rồi quí vị thử t́m xem nó c̣n không? Nhưng duyên đó lại gắn vào trong tàng thức của quí vị, quí vị có thể ôn lại những ngôn từ đó được, đó là tướng của duyên chớ đâu có một pháp thật. Hiểu như thế, người nghe pháp cũng như người nói pháp đều là tướng duyên hợp chớ không phải thật. Thế nên đức Phật bảo: Nói pháp là không pháp có thể nói, tức là không có pháp thật nào để nói cả, chỉ tùy duyên để đánh thức chúng ta biết các pháp là hư giả, không thật thể. Như thế khi biết các pháp hư giả không thật thể th́ nói pháp là phương tiện nói, cho nên không pháp có thể nói ấy gọi là nói pháp. Nếu nói rằng tôi nói cái này một là một, hai là hai, cố định như vậy đời đời kiếp kiếp, đó mới là pháp thật để nói phải không? Như vậy chúng ta phải hiểu rằng tất cả ngôn từ Phật nói ra cũng chỉ là giả danh, tùy duyên. Bởi giả danh nên nó không có thật thể, do đó không có pháp có thể nói mà tùy duyên phát ra nên gọi là nói pháp. Đó là Ngài chỉ thẳng không có pháp để nói.

Đến đây nói về người. Khi ấy ngài Tuệ Mạng Tu-bồ-đề bạch rằng: Vả lại có chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này, họ sanh ḷng tin chăng? Tại sao đoạn trước nói tôn giả Tu-bồ-đề hay ngài Tu-bồ-đề mà đoạn này lại thêm chữ Tuệ Mạng? Chữ Tuệ Mạng là chỉ cho hàng Thanh văn đă ngộ đạo, các Ngài thấy mạng sống của các Ngài là trí tuệ chớ không phải là tứ đại, các Ngài lấy trí tuệ làm mạng sống nên gọi là Tuệ Mạng. Lẽ ra đức Phật trả lời hoặc họ tin hoặc không tin, tại sao đức Phật bảo: Này Tu-bồ-đề, kia chẳng phải chúng sanh, chẳng phải chẳng chúng sanh. V́ cớ sao? Này Tu-bồ-đề, chúng sanh, chúng sanh ấy Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh. Như thế Phật có trả lời ngài Tu-bồ-đề không? Quí vị nghe thật lạ phải không? Tại sao chẳng phải chúng sanh? V́ không có tự thể. Chúng sanh ấy chẳng qua là tướng duyên hợp không có tự thể, nên nói chẳng phải chúng sanh, nhưng trên tướng duyên hợp th́ có, nên nói "Chẳng phải chẳng chúng sanh" tức là chúng sanh. Như vậy câu đầu chẳng phải chúng sanh là để chỉ rơ nó không có tự thể, câu thứ hai chẳng phải chẳng chúng sanh chỉ rằng ấy là tướng duyên hợp giả có. Trên tướng duyên hợp th́ giả có chúng sanh, trên tự thể thật của nó th́ không có. Kế đến Ngài kết thúc: V́ cớ sao? Tu-bồ-đề, chúng sanh, chúng sanh đó Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh. V́ chúng sanh chỉ là tướng duyên hợp cho nên Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, do duyên hợp giả danh gọi là chúng sanh nên nói ấy gọi là chúng sanh. Quí vị thấy cái nh́n của đức Phật với cái nh́n của chúng ta khác nhau chỗ nào? Chúng ta thấy chúng sanh là chúng sanh; đức Phật thấy chúng sanh không phải chúng sanh, ấy mới gọi là chúng sanh.

Nếu chúng ta bắt chước nh́n đúng như đức Phật th́ chúng ta cũng giống Phật. Trái lại nếu chúng ta cứ nh́n như từ trước đến nay th́ chúng ta không giống Phật chút nào cả. Tôi nhắc lại đức Phật thấy chúng sanh là tướng duyên hợp không có tự thể cho nên không phải chúng sanh, nhưng do duyên hợp nên tạm gọi là chúng sanh. Nếu chúng ta thấy ḿnh và người đều là tướng duyên hợp không có tự thể, không tự thể th́ không có ngă. Không có ngă nhưng do duyên hợp nên tạm gọi là ta, là người. Như thế ta và người chỉ là tạm theo duyên mà nói. Nếu nh́n rơ ràng thấu đáo như vậy th́ chúng ta đă có trí tuệ gần với đức Phật. Chúng ta muốn làm Phật th́ phải chịu khó nh́n như Phật, tại sao ḿnh không chịu nh́n như Phật mà cứ nh́n theo ḿnh măi? Nếu chúng ta nh́n đúng trí tuệ Phật dạy th́ tự nhiên mọi cố chấp đều tan, như thế việc tu hành rất dễ. Trái lại nếu chúng ta cứ nh́n theo cái mê lầm của ḿnh th́ tu nhiều công mà kết quả ít. Tỷ dụ như chúng ta thấy ḿnh là thật, người là thật, nghe tiếng nói cũng là thật… Bất chợt có ai nói một câu nghe hơi nặng tai một chút th́ chúng ta dễ dằn ḷng hay khó? Nếu thấy ḿnh là giả, người giả, ngôn từ cũng giả th́ dù họ có nói câu hơi nặng tai, chúng ta cũng bỏ qua v́ đó là giả, tức nhiên ḿnh không đè nén ǵ hết, mà tâm ḿnh tự an, sự tu hành cũng nhẹ nhàng thảnh thơi. Do trí tuệ đi đầu nên chúng ta nh́n đúng với chiều đức Phật nh́n, tức là ḿnh đă tỉnh giác và đă khác hơn phàm phu. Phàm phu nghe câu nói nặng nhịn không nổi, chúng ta nghe mà nhịn nổi v́ chúng ta xem nó là hư giả. Đó là thấy đúng lẽ thật, đó là sống bằng trí tuệ, chúng ta buông xả các chấp, đó là tu bằng cách buông nhẹ nhẹ. C̣n thấy không đúng lẽ thật th́ cố gắng nhẫn nhịn, rốt cuộc càng khổ tâm v́ chỉ đè nén đến một mức nào thôi.. .

Thế nên ở đây đức Phật muốn chỉ cho chúng ta thấy rơ không có người năng thuyết thật, và không có pháp sở thuyết thật, hay nói một cách khác là không có thật người và cũng không có thật pháp. Pháp và người chẳng qua là tướng duyên hợp thôi, đă là tướng duyên hợp th́ có ǵ mà chấp. Chấp người là chấp ngă, nói ra là chấp pháp mà chấp ngă chấp pháp là phải trầm luân ngàn đời. Nay chúng ta thấy rơ chúng sanh không phải là chúng sanh, duyên hợp tạm gọi là chúng sanh, nhớ rơ như vậy th́ khi nào ai xúc chạm đến ta, chúng ta cứ nhớ câu trên, tự nhiên ḿnh sẽ nhẹ nhàng. Tất cả pháp c̣n không thật huống là những lời nói sai quấy. Khi con người sân hận, họ hay thốt ra những lời sai quấy, những lời đó đâu có thật mà chấp. Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp! Pháp của Phật là pháp cao siêu mà c̣n phải xả huống là những lời nói phi pháp th́ chấp làm ǵ. Hiểu như thế chúng ta thấy việc tu hành dễ hay khó? Hiện nay chúng ta tu không nổi v́ chúng ta chấp những cái phi pháp hoài, nên buồn người này, giận người kia v. v… lỡ ai có một lời nói không tế nhị th́ ḿnh tức giận, mất ăn mất ngủ, đó là cái khổ do ḿnh chấp ngôn ngữ, chấp những cái phi pháp. Vậy chúng ta học một đoạn kinh Phật là chúng ta có một kinh nghiệm để tu chớ không phải học suông.

Tóm lại qua lời Phật dạy, chúng ta thấy rơ người hay nói và pháp bị nói đều không thật, khi chúng ta không chấp là thật th́ chúng ta phá được chấp ngă và chấp pháp. Ngă và pháp đều phá th́ đó là vào hàng Sơ địa Bồ-tát. Thanh văn chỉ phá được chấp ngă chớ chưa phá được chấp pháp. Như hàng Thanh văn th́ nói ngă là không nhưng Niết-bàn là có tức là c̣n kẹt vào pháp, nói bồ-đề là có tức là c̣n kẹt vào pháp. Chỉ phá được chấp ngă đă gọi là chứng Tứ quả Thanh văn, nếu phá luôn được chấp pháp th́ đó là Đăng địa Bồ-tát. Vậy nếu chúng ta chịu khó thực hành th́ chắc được phải không? Tôi thấy nếu ḿnh cố gắng th́ nhất định phải được, không được là v́ ḿnh không cố gắng.

? 

ĐOẠN 22

ÂM:

VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC.

Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vi vô sở đắc da?

Phật ngôn: Như thị, như thị! Tu-bồ-đề! Ngă ư A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, năi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

DỊCH:

KHÔNG PHÁP CÓ THỂ ĐƯỢC.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay là không được ư? Phật bảo: Đúng như thế, như thế! Này Tu-bồ-đề, ta đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhẫn đến không có một chút pháp có thể được, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

GIẢNG:

Quí vị thấy bệnh chấp của chúng ta, từ những cái chấp có ḿnh thật, pháp thật, kế đến là chấp có cái này để được, cái kia để chứng… Trong đoạn này đức Phật phá đến có chứng, có đắc. Ngài Tu-bồ-đề hỏi đức Phật: Thế Tôn có được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay là không được? Nếu không được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ đâu gọi là Phật. Tại sao ngài Tu-bồ-đề lại hỏi như thế? Hỏi có được, không được là để xác nhận lại xem có năng đắc và sở đắc hay không? Khi đó đức Phật liền trả lời: Đúng thế, đúng thế! Tu-bồ-đề! Ta đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không có một ít pháp có thể được, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như thế quí vị mới thấy bệnh của chúng ta hiện nay, hoặc là phật tử, hoặc là tăng, ni có tu được chút công phu khi gặp nhau liền hỏi: Lúc này anh chứng được ǵ rồi? Lúc này huynh được cái ǵ rồi, thầy được cái ǵ rồi? Như thế chúng ta cứ mắc kẹt trong cái chứng cái đắc. Nếu có chứng có đắùc nghĩa là có được, một là có người hay được, hai là có pháp bị được. Đoạn trước có nói, không có người nói pháp và không có pháp bị nói th́ làm sao có người hay được và pháp bị được. Nếu c̣n thấy có cái để cho ḿnh được th́ không phải là Phật. Thế nên nếu nói có được tức là nói Phật chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đó là phỉ báng Phật. Tại sao? Nếu Ngài c̣n thấy có sở đắc th́ Ngài c̣n ngă, c̣n pháp.

Đức Phật nói: Ta đối Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đến không có một chút pháp có thể được, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là chỗ giác ngộ cứu kính không c̣n thấy có một chút ngă pháp. Do không c̣n một chút ngă pháp nào cho nên chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Được mà không được! Chỗ này thật khó nói. Đến đây tôi nhớ ngài Hoàng Bá nói rằng: Nếu một hạt bụi chúng ta đập nát ra thành một trăm hạt bụi nhỏ, trong một trăm hạt bụi nhỏ đó, chín mươi chín hạt chúng ta thấy là không, c̣n một hạt nhỏ xíu, nếu thấy có th́ cũng là chưa thấy đạo! C̣n một chút xíu mà thấy có là chưa thấy đạo! Một chút xíu mà c̣n thấy được cũng chưa phải là Phật! Chúng ta hiện nay cái ǵ cũng muốn được hết, được cái này, được cái kia v. v… Cho nên cứ mải làm chúng sanh! V́ lúc nào chúng ta cũng ôm cái bản ngă to tướng nên thấy các pháp đều là thật, v́ vậy muốn được cái này, được cái kia… Do đó khi vào đạo tu hành cũng vẫn nghĩ đến cái được măi, nghe nói không được th́ sanh chán nản v́ không hợp với bản ngă. Nhưng quí vị thấy nếu c̣n mang bản ngă, cho bản ngă là thật làm sao giác ngộ, v́ đó là tướng si mê mà! Ở đây Phật chỉ thấu đáo rằng nếu không c̣n thấy có một chút pháp để được, mới thật giác ngộ đến chỗ vô thượng, không c̣n ǵ hơn. Trái lại c̣n có một chút được là không được, là chưa giác ngộ. Như thế người nào nói tu ba tháng hay bốn tháng hay sáu tháng được cái này, cái kia v. v… th́ chúng ta liền biết người đó làm to thêm cái bản ngă. Vậy mà hiện nay thiên hạ hay gạt nhau như thế, vào đạo bằng cách tô điểm cho bản ngă lớn thêm, đó chỉ là chồng chất thêm si mê chớ không phải là dạy đạo. Giác ngộ là phải thấy tận lẽ thật, mà thấy đến lẽ thật th́ bao giờ c̣n một chút mê lầm, dù là một chút xíu thôi, về ngă về pháp cũng là chưa viên măn giác ngộ. Như vậy chúng ta thấy tu theo đức Phật có vẻ buồn phải không? Tại sao? Bởi v́ ở thế gian, sở dĩ chúng ta vui là khi nào chúng ta được nhiều người hoan nghinh, nghĩa là khi được người ta tô điểm, vuốt ve bản ngă. Trái lại lúc bị d́m bản ngă xuống, lúc đó chúng ta buồn, mà ở đây Phật phá không c̣n một chút nào hết th́ không buồn sao được! Nhưng đó là cái buồn của kẻ si mê chớ khi giác ngộ ḿnh sẽ thấy rơ phải mất cái giả đó mới đạt được cái thật. Thiên hạ cứ chết ch́m trong cái giả th́ đời nào thấy được cái thật! Thế nên đức Phật đập tan cái giả, không cho chúng ta chấp cái giả một chút nào cả để rồi Ngài chỉ chúng ta cái chân thật. Như vậy vào đạo trước hết phải buồn, v́ không có những cái tô điểm bản ngă th́ dường như buồn, nhưng thật ra phải biết chính đó là niềm vui. Tại sao? Vui v́ ḿnh thấy được lẽ thật, vui v́ thấy ḿnh qua được cơn si mê mà thế gian đă chôn vùi ḿnh không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Nay ḿnh nhảy vọt qua khỏi hầm si mê th́ đó là điều đáng mừng, người không biết th́ buồn v́ mất bản ngă. Như thế chúng ta học đạo là cốt làm sao tự ḿnh thoát ra khỏi cái khổ ch́m trong đen tối si mê, và cái vui thoát khỏi cơn si mê là cái vui lớn lao. Người nào biết hưởng cái vui đó là người gần với đạo, c̣n người nào nghe phá bản ngă sanh ra sợ, buồn th́ người đó khó gần được đạo. Thế nên trong nhà Phật thường ví dụ người si mê như con tằm nhả tơ kết thành kén, càng nhả tơ càng kết kén nhốt ḿnh ở trong, rốt cuộc bị bỏ vào chảo nước sôi để người ta kéo chỉ… Người thế gian cũng thế, tự ḿnh chấp ngă, rồi muốn mọi người tô điểm bản ngă của ḿnh, tạo điều này, điều kia đưa bản ngă ḿnh lên… Đó là ḿnh nhả tơ kết kén để chôn ḿnh, cuối cùng bị chôn vùi không thể nào thoát được. V́ thế người học đạo phải là người tỉnh giác. Như tôi thường nói quí vị đến với chúng tôi là chúng ta cùng t́m lẽ thật, mà lẽ thật ngay nơi con người mới là thiết yếu và khi ḿnh thấy được lẽ thật rồi, đó là cái vui cao cả, cái vui của trí tuệ. Người nào vui được như thế, tôi tin rằng có ngày họ sẽ thoát khỏi mê lầm, nếu không được cái vui đó chỉ là học để mà chơi chớ không đi tới đâu cả. Hiểu cho thật rơ như vậy th́ khi vào đạo chúng ta phải hiểu bằng trí tuệ, chớ đừng đ̣i hỏi được sự nuông chiều bản ngă, đừng đ̣i hỏi những sở đắc, sở chứng, đó là những cái mê muội…

Tuy nói như thế mà Phật có chứng hay không? Bởi v́ khi đập tan được cái bản ngă hư giả này th́ chừng đó mới sống với cái thể chân thật, đó là chứng, là đắc; nhưng không phải chứng đắc trên cái giả dối tạm bợ mà lâu nay chúng ta mê lầm, chính khi sống được với cái chân thật th́ gọi là Phật. Ở đây nói cho đến không có một chút pháp để được ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩa là không có một chút pháp có thể được nên mới gọi là Phật. Nếu c̣n có được th́ chưa phải là Phật. Qua lời Phật dạy ở đây, chúng ta liền nh́n ra những ai dạy đạo mà đặt nặng sự chứng đắc th́ chúng ta biết đó là khó thoát sanh tử. Hiểu như thế th́ giả sử có ai nói tôi đă đắc đạo, tôi thành Phật v. v… chúng ta tin được chưa? Đó là trái với đức Phật rồi. Thế nên chúng ta phải dùng kinh của Phật dạy để khỏi lầm, những người đi trong con đường lầm lại chỉ cho chúng ta lầm theo.

? 

ĐOẠN 23

ÂM:

TỊNH TÂM HÀNH THIỆN.

Phục thứ Tu-bồ-đề! Thị pháp b́nh đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Dĩ vô ngă, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả tu nhất thiết thiện pháp tắc đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp.

DỊCH:

TÂM TRONG SẠCH LÀM VIỆC THIỆN.

Lại nữa Tu-bồ-đề, pháp này b́nh đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do không ngă, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả tu tất cả pháp lành tức được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề, nói rằng pháp lành đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp lành, ấy gọi là pháp lành.

GIẢNG:

Tịnh tâm là tâm trong sạch tức là không c̣n chấp ngă, chấp pháp, lúc đó lại làm lành nữa mới gọi là Phật. Đây đức Phật nói: Pháp này b́nh đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. B́nh đẳng không có cao thấp gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hay nói ngược lại là pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là tâm b́nh đẳng không có cao thấp. B́nh đẳng là thế nào? Quí vị thử hiểu xem. Như hiện giờ trong giảng đường có một trăm người nhưng tŕnh độ học thức hiểu biết có b́nh đẳng không? Nếu đem ra đo lường tŕnh độ th́ một trăm người này có thể sai biệt nhau vô cùng, kẻ hơn cái này, người thua cái kia… luôn luôn có sai biệt. Như thế trên tâm lượng hiểu biết do học tập được th́ tất cả chúng ta có b́nh đẳng không? Nay tất cả những kiến thức do học được và những kiến thức do kinh nghiệm trong cuộc sống, chúng ta dẹp qua một bên, lặng hết mọi vọng tưởng th́ lúc đó chúng ta có nghe, có thấy, có biết, nhưng những cái đó có b́nh đẳng không? Thế nên pháp này b́nh đẳng không cao thấp là thế, nghĩa là người nào đến chỗ đó, tức là được b́nh đẳng, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng ta học đạo muốn được đạo là chỗ đó. V́ thế đức Phật bảo: Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. Nhưng hiện nay sở dĩ chúng ta có thiên sai vạn biệt là do huân tập, chứa chấp không đồng. Cái thiên sai vạn biệt đó là tướng huân tập bên ngoài đem lại, là những chủng tử sanh diệt, chúng ta bám vào đó cho là ḿnh nên bị dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Huân tập cái ǵ nhiều th́ sức mạnh của cái đó dẫn đi, gọi là theo nghiệp thọ sanh. Nếu những cái đó chúng ta cho lặng hết, chỉ c̣n cái tri giác b́nh đẳng, lúc đó không c̣n nghiệp nào dẫn chúng ta đi, là giải thoát, là Phật. Thành Phật ngay ở chỗ đó. Như thế quí vị nghĩ ở đây có người nào không có khả năng thành Phật không? Ai cũng có mà chỉ ưng hay không ưng làm thôi. Ai không ưng làm th́ cứ làm chúng sanh, c̣n ai ưng làm th́ người đó có ngày sẽ thành Phật. Thế nên đừng trách ai mà phải tự trách ḿnh tại sao không ưng làm Phật, do không ưng làm Phật nên cứ lạy Phật hoài. Nay tất cả những ǵ Phật đă làm, chúng ta làm theo đúng như vậy th́ chúng ta sẽ là Phật. Như thế pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đă sẵn nơi ḿnh, không người nào thiếu. Người nào c̣n thấy, c̣n nghe, c̣n biết th́ người đó có khả năng thành Phật. Nếu tất cả chúng ta buông hết những cái do bên ngoài huân vào th́ chỉ c̣n cái ta chân thật, khi ấy sẽ không c̣n luân hồi sanh tử, đó là giác ngộ thành Phật, đó là căn bản. Như thế th́ không ngă, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả, v́ đến chỗ b́nh đẳng th́ không c̣n thấy có ḿnh, có người, không thấy ngă nhân th́ không thấy chúng sanh, thọ giả. Tại sao? V́ khi quí vị buông tất cả, vọng tưởng lặng xuống chỉ c̣n cái chân thật hằng giác hằng tri, cái đó không có niệm dấy lên phân biệt đây là ḿnh, kia là người, cũng không dấy niệm ta là chúng sanh… Chúng sanh là tướng duyên hợp, do các duyên hợp lại mà thành, mà sanh nên gọi là chúng sanh. Cái chân thật đó không phải là tướng duyên hợp nên không phải là chúng sanh, không có chúng sanh th́ không có thọ giả tức thọ mạng, không bao giờ sanh th́ làm ǵ có tử mà nói có thọ mạng. Quí vị thấy đến đó là mất hết bốn tướng. Nhưng không phải đến đó rồi không làm ǵ hết, đến đó lại phải làm tất cả pháp lành, mới là điều đặc biệt. Điều này quí vị nghe cũng khó hiểu. Tại sao đến khi không thấy bốn tướng ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả lại làm lành chi vậy? Tôi ví dụ như một hôm quí vị đi đường, bỗng dưng thấy một người té, người đó không phải là thân, cũng không phải là thù, quí vị liền đỡ họ. Khi quí vị hành động như vậy là do niệm thân thù hay do cái ǵ? Không có niệm ǵ hết, thấy họ khổ th́ ta giúp. Đó là một ví dụ nhỏ khi ḿnh chưa sạch bốn tướng, huống là khi tất cả chấp ngă, chấp nhân lặng rồi th́ các hành động phát ra đều lành hết, cái lành đó là Vô duyên từ, nghĩa là ḷng từ không có duyên cớ. Chúng ta hiện nay ḷng từ sanh ra đều có duyên cớ. Tỉ dụ hôm nay có một huynh đệ thấy ḿnh thiếu thức ăn, họ đem qua cho ḿnh một đĩa thức ăn, ngày mai ḿnh thấy huynh đệ đó thiếu thức ăn, nếu ḿnh có th́ ḿnh đem cho lại, như vậy ḷng từ giúp đỡ nhau đó có duyên cớ chớ đâu phải không duyên cớ. Cả khi những người tật nguyền đến xin ḿnh, có khi ḿnh cũng giúp với ḷng không có niệm ǵ hết, nhưng nhiều khi giúp họ mà ḿnh nghĩ là bố thí cho có phước. Nói có phước tức là một lối bỏ ống chớ ǵ, như vậy cũng là có duyên cớ. Không c̣n ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả th́ ḷng từ không có duyên cớ, thấy người khổ là giúp, v́ đâu c̣n thấy có ḿnh có người mà c̣n có duyên cớ. Chúng ta v́ thấy có người có ḿnh nên làm ǵ cũng qui về bản ngă, hoặc là bản ngă hưởng ngay bây giờ hoặc mai sau hưởng, nên việc làm có duyên cớ, ḷng từ có duyên cớ. Đó là để thấy rơ khi tu hành đến đó rồi làm tất cả pháp lành chớ không phải tâm như như rồi không làm ǵ hết. Nếu không làm chi cả th́ Phật đâu có đi thuyết pháp bốn mươi chín năm, Bồ-tát đạt đến đó rồi cũng đem lục độ giáo hóa chúng sanh. Hiểu như thế mới thấy rằng khi đến đó mới có ḷng từ không duyên cớ và đó mới là ḷng từ chân thật. C̣n chúng ta hiện nay ḷng từ tuy có, nhưng cũng c̣n mưu toan tính toán hoặc ít hoặc nhiều. Người đời thường nói: Thấy phơi lúa mới cho mượn gạo, nếu như không thấy họ phơi lúa th́ không muốn cho mượn gạo… Chúng ta giúp nhau phần nhiều là thấy người kia có thể giúp lại ḿnh việc ǵ mai sau, như thế đều là những việc có tính toán cả, tâm đó chưa phải b́nh đẳng, chưa phải là cứu kính. Phải đến chỗ không c̣n bốn tướng mà vẫn làm pháp lành đó mới gọi là được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Không c̣n ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả, tức là những cái giả đó đă phá sạch rồi, đến chỗ như như lại c̣n hiện thân làm tất cả việc lợi ích cho chúng sanh, như thế mới là Phật.

Nói pháp lành nhưng e chúng ta chấp pháp lành là thật, nên Phật bảo ngài Tu-bồ-đề: Pháp lành đó Như Lai nói tức không phải pháp lành, ấy gọi là pháp lành. Ở thế gian nói thiện nói ác chẳng qua là tướng duyên thôi. Như thế th́ nói pháp lành chẳng qua là cái tướng của duyên khởi, không có thật cho nên nói không phải pháp lành, nhưng giả danh tạm gọi là pháp lành. Làm đau khổ chúng sanh gọi là ác, làm an vui chúng sanh gọi là lành. Khi đạt đạo rồi, sống được b́nh đẳng th́ thấy tất cả chúng sanh nào khổ ḿnh giúp, giúp họ được vui tạm gọi là lành, chớ đâu phải thật có một pháp lành. Đó là Tịnh tâm hành thiện, tâm hoàn toàn không c̣n ngă pháp mà làm lành.

? 

ĐOẠN 24

ÂM:

PHƯỚC TRÍ VÔ TỈ.

Tu-bồ-đề! Nhược tam thiên đại thiên thế giới trung sở hữu chư Tu-di sơn vương, như thị đẳng thất bảo tụ, hữu nhân tŕ dụng bố thí. Nhược nhân dĩ thử Bát-nhă ba-la-mật kinh, năi chí tứ cú kệ đẳng, thọ tŕ độc tụng, vị tha nhân thuyết, ư tiền phước đức bách phần bất cập nhất, bách thiên vạn ức phần năi chí toán số thí dụ sở bất năng cập.

DỊCH:

PHƯỚC TRÍ KHÔNG G̀ SÁNH BẰNG.

Này Tu-bồ-đề, nếu trong tam thiên đại thiên thế giới có các ngọn núi Tu-di chúa, như thế dùng bảy báu nhóm họp bằng những ngọn núi Tu-di ấy có người mang ra bố thí. Hoặc có người đem kinh Bát-nhă ba-la-mật này cho đến bốn câu kệ v. v… thọ tŕ đọc tụng, v́ người khác nói th́ phước đức của người này đối với người trước, người này trăm phần, người kia không bằng một, trăm ngàn muôn ức phần cho đến toán số thí dụ cũng không thể bằng.

GIẢNG:

Lại một lần nữa đức Phật so sánh phước đức của người tŕ kinh Kim Cang. Ngài bảo: Giả sử như trong tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu ngọn núi lớn Tu-di, có người đem bảy báu như vàng, bạc, lưu ly, pha lê v. v… chất bằng những quả núi Tu-di đó ra bố thí, lại có người ngay trong kinh Bát-nhă ba-la-mật này, cho đến bốn câu kệ, thọ tŕ, đọc tụng v́ người nói th́ phước của người này được một trăm phần, c̣n phước của người bố thí bảy báu đó không được một phần, cho đến người này được trăm ngàn muôn ức phần, người kia cũng không được một phần. Như thế để nói phước của người thọ tŕ đọc tụng và v́ người nói kinh Kim Cang hơn phước của người kia không thể tính kể. Tại sao thế? Quí vị thấy thọ tŕ bốn câu kệ kinh Kim Cang có khó không? Đọc tụng rồi v́ người nói th́ đâu có ǵ cực nhọc lắm. Tôi xin hỏi: Giả sử gom hết những ngọn núi trên nước Việt Nam ḿnh th́ khối lượng đó bao lớn? Chúng ta có vàng, bạc, lưu ly, pha lê v. v… bằng khối lượng đó đem ra bố thí th́ quí vị nghĩ xem có nhiều không? Độ chừng bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, chúng ta tích tụ được vàng bạc, của báu bằng những ngọn núi đó? Thật không biết đời kiếp nào mà kể. Giả sử như ngay ngọn núi lớn Vũng Tàu, chúng ta phải làm trong bao nhiêu đời để có vàng đầy ngọn núi này, huống nữa là vàng bạc bằng bao nhiêu ngọn Tu-di để đem ra bố thí. Thế mà phước không bằng người thọ tŕ đọc tụng và v́ người nói kinh Kim Cang. Đối với kinh này, thọ tŕ đọc tụng v́ người khác nói chỉ bốn câu kệ thôi, mà phước của người này một trăm phần, người kia không được một phần. Như thế quí vị chọn việc nào? Thọ tŕ bốn câu kinh Kim Cang ngay đời này chúng ta làm được không? C̣n đem của báu bằng ngọn núi lớn, núi nhỏ Vũng Tàu ra bố thí th́ bao nhiêu đời chúng ta làm được? Việc nào dễ làm? Việc thọ tŕ đọc tụng bốn câu kệ kinh Kim Cang xem ra không khó phải không? Thế tại sao chúng ta không ưng làm việc đó? Muốn thọ tŕ, đọc tụng bốn câu kệ kinh Kim Cang, quí vị nhớ xem phải làm sao?

Nếu nói kệ, trong kinh Kim Cang có hai bài, một bài nói:

Nhược dĩ sắc kiến ngă, Dĩ âm thanh cầu ngă, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai.

Hoặc bài cuối:

Nhất thiết hữu vi pháp, Như, mộng, huyễn, bào, ảnh, Như lộ diệc như điện, Ưng tác như thị quán.

Hai bài đó quí vị đọc trong bao lâu th́ thuộc? Một lát thôi. Tŕ chừng bao lâu? Nhẹ thật là nhẹ phải không? Vừa nhẹ lại vừa dễ mà tại sao chúng ta không làm? Nhưng tôi xin nhắc lại: Thọ là nhận, tŕ là giữ, nhận giữ măi trong ḷng gọi là thọ tŕ, và lâu lâu đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe… Nhưng nhận giữ như thế nào? Như tôi đă nói: Phật thấy tất cả chúng sanh không phải chúng sanh, do duyên hợp nên gọi là chúng sanh. Nếu chúng ta luôn luôn thấy như vậy, thấy ḿnh, thấy người đều biết rơ là tướng duyên hợp không thật, do duyên hợp nên tạm gọi là ta, luôn biết như thế là tŕ kinh Kim Cang. Như vậy có khó không? Quí vị thấy khó ư? Lúc nào, đi đâu cũng cứ như thế mà thọ tŕ, luôn luôn thấy rơ như thế, không phút giây nào lầm. Thọ tŕ như thế, quí vị từ con người phàm dần dần thành Thánh. Vậy tại sao không chịu thọ tŕ? Làm Thánh th́ ưng mà thọ tŕ như thế th́ không chịu. Quí vị hiểu tại sao không? Tại vô minh cứ che hoài, mới vừa nhớ một chút, kế lại quên, thấy ta thật, người thật, cái chi cũng thật, chớ nếu hằng nhớ, hằng thấy như lời Phật dạy, thấy ḿnh là duyên hợp hư giả, người là duyên hợp hư giả th́ quí vị nghĩ c̣n ǵ mà sân si, c̣n ǵ mà tham lam! Chỉ bao nhiêu đó thôi mà đă gần bậc Thánh rồi, huống nữa là đầy đủ bốn câu! Thế nên việc đó thật ra không phải là khó, nhưng v́ chúng ta mê nên quên măi…

Có nhiều người đến hỏi chúng tôi: Quí thầy ở đây lâu năm tu hành như thế nào? Tôi đáp: Chỉ có bài kinh Bát-nhă mà đọc hoài không thuộc, cứ quên tới, quên lui! Ở đây Phật nói ngắn hơn, chỉ bốn câu kệ thôi mà vẫn không thuộc. Nghĩa là ở đây coi như thuộc, bước ra khỏi chùa là hết thuộc, v́ vừa ra khỏi là tính mai làm ǵ, mốt làm ǵ v. v… tính một hồi là quên mất câu kinh… Thế nên tất cả chúng ta đều quên, quên măi, mà quên đó là mê. V́ thế đức Phật chỉ thật là kỹ: Dù cho chúng ta đem bao nhiêu của báu bố thí cũng không bằng tŕ bốn câu kinh Kim Cang. Ứng dụng thọ tŕ bốn câu kinh Kim Cang là phước hơn làm ra bao nhiêu của báu để bố thí. Thật ra nếu chúng ta nhận được lư đó để sống, tự nhiên chúng ta chuyển cả cuộc đời ḿnh, chuyển từ cái thân giả dối trở lại cái chân thật. C̣n bố thí của cải dù nhiều bao nhiêu đi nữa, sau này sanh ra ḿnh hưởng, nhưng cũng vẫn ở trong sanh diệt. Thế nên khéo tŕ kinh Kim Cang là đă chuyển mê thành ngộ, bỏ thân luân hồi sanh diệt trở về cái vô sanh, như thế phước đức không ǵ sánh bằng.

? 

ĐOẠN 25

ÂM:

HÓA VÔ SỞ HÓA.

Tu-bồ-đề! Ư ư vân hà? Nhữ đẳng vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngă đương độ chúng sanh. Tu-bồ-đề! Mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Thật vô hữu chúng sanh Như Lai độ giả. Nhược hữu chúng sanh Như Lai độ giả, Như Lai tắc hữu ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Tu-bồ-đề! Như Lai thuyết hữu ngă giả tắc phi hữu ngă, nhi phàm phu chi nhân dĩ vi hữu ngă. Tu-bồ-đề! Phàm phu giả, Như Lai thuyết tắc phi phàm phu, thị danh phàm phu.

DỊCH:

GIÁO HÓA KHÔNG CÓ CHỖ GIÁO HÓA.

Này Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế này: Ta sẽ độ chúng sanh. Này Tu-bồ-đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. V́ cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó th́ Như Lai ắt có ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Này Tu-bồ-đề, Như Lai nói có ngă ắt không phải có ngă mà người phàm phu cho là có ngă. Này Tu-bồ-đề, người phàm phu đó Như Lai nói tức không phải phàm phu, ấy gọi là phàm phu.

GIẢNG:

Lời đức Phật dạy thật thấu đáo, Ngài chỉ đến chỗ tột cùng mà chúng ta si mê quá lắm! Tôi thường thí dụ như cái hồ bèo phủ kín trên mặt, có người lấy tay vạch bèo bày nước ra, thấy được một chút nước nhưng khi lấy tay lên, bèo phủ kín trở lại. Cái si mê của chúng ta như thế đó. Đây Phật bảo: Tu-bồ-đề, ông nghĩ sao? Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ ta sẽ độ chúng sanh. Đây là những bệnh đức Phật chỉ cho chúng ta biết rơ. Thường khi chúng ta được một chút đạo đức là cứ nghĩ ḿnh độ thiên hạ, độ người này, người kia… Nhưng vừa nghĩ ḿnh độ người là thấy ḿnh thật, người thật, ta là người hay độ, kia là kẻ được độ. Nếu thấy ḿnh thật, người thật th́ chưa phải, chưa xứng đáng là người giác ngộ, mà không giác ngộ th́ độ ai? Thế nên đức Phật bảo tiếp: Tu-bồ-đề, chớ khởi nghĩ thế ấy, v́ cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ. Nếu Như Lai c̣n thấy thật có chúng sanh th́ c̣n ngă, c̣n nhân, c̣n chúng sanh… Cho nên độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh được diệt độ cũng là một ư nghĩ thâm sâu ở đây.

Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó th́ Như Lai ắt có ngă có nhân… Tại sao? V́ ta là người hay độ và kia là chúng sanh được độ, như thế tức là có ḿnh, có người, có chúng sanh, có thọ giả, tức c̣n chấp ngă làm sao thành Như Lai? V́ thế cái nh́n của Ngài là: Như Lai nói có ngă đó ắt không phải có ngă. Có khi Phật cũng xưng "Ta" cũng như nói chuyện với quí vị tôi xưng tôi vậy. Nói ta, nói tôi như là có ngă nhưng mà không phải ngă. V́ sao? Khi Ngài nói ngă, Ngài vẫn biết ta là tướng duyên hợp hư giả chớ không phải thật, c̣n phàm phu nói ta là ta thật. V́ thế nên nói rằng: Như Lai nói ngă đó ắt không phải có ngă mà người phàm phu cho là có ngă. Phật cũng nói có ngă, cũng nói có chúng sanh, nhưng nói ngă, nói chúng sanh là nói theo danh từ của người thế gian. V́ muốn độ thế gian th́ phải dùng danh từ thế gian, nhưng khi nói như thế Ngài vẫn thấy rơ những cái đó đều không thật, trái lại chúng ta nói cái nào là thật cái ấy… Nên người phàm phu cho rằng có ngă. Nghe Phật nói phàm phu, chúng ta lại tưởng Phật chấp phàm phu thật nên Ngài lại nói: Phàm phu đó, Như Lai nói tức chẳng phải phàm phu, ấy gọi là phàm phu. Câu này có hai nghĩa. Nói phàm phu đó tức chẳng phải phàm phu. Tại sao? Phàm phu thật ra là một giả danh, mê th́ gọi là phàm phu, nếu ngộ rồi th́ đâu c̣n gọi là phàm phu nữa, v́ thế phàm phu chỉ là một giả danh chớ không phải thật nên nói "Không phải phàm phu", nhưng trong lúc c̣n mê th́ cũng tạm gọi là phàm phu. Như thế nay nói ḿnh là phàm phu cũng là tạm thôi, đừng nghĩ ḿnh phải là phàm phu suốt kiếp, mai kia hết mê th́ hết phàm phu. Vậy đừng mặc cảm chúng ta là phàm phu, mà phải thấy bây giờ ḿnh là phàm phu chỉ là tạm thôi, khi hết mê th́ hết phàm phu. Thế nên nh́n với con mắt Phật th́ không chấp cố định, chúng ta có bệnh hay cố định Phật là Phật, phàm phu là phàm phu. Đó là tôi nói theo tinh thần kinh Bát-nhă. Nếu nói xa hơn nữa th́ Phật thấy ngay kẻ phàm phu có trí tuệ Phật, nên phàm phu cũng không phải phàm phu. Nếu nói rằng trong phàm phu có Phật tánh th́ phàm phu đâu phải là phàm phu. Nghĩa thứ nhất là nghĩa của kinh v́ những danh từ phàm, Thánh chẳng qua là những danh từ tạm chỉ lúc mê và lúc ngộ, lúc mê th́ gọi là phàm phu, lúc ngộ gọi là Phật, là Thánh. Như thế phàm phu thật không cố định là phàm phu. Hiểu như thế, tất cả chúng ta không có mặc cảm ǵ cả. Ngày nay là phàm phu, nhưng một ngày nào đó ḿnh không phải là phàm phu nữa.

?

 

[mucluc][loidausach][p1][p2]

[d1-d5][d6-d10][d11-15][d16-d20][d21-d25][d26-d32]

[Trang chu] [Kinh sach]