| 
       
      YẾU CHỈ THIỀN TÔNG 
      (tt) 
      
      IV. ĐỨC PHẬT QUA CÁI 
      NHÌN CỦA THIỀN TÔNG. 
      
       Thiền 
      tông nhìn đức Phật khác cái nhìn của Phật tử thường. Mọi người phật tử đều 
      thừa nhận đức Phật là người Ấn Độ, sanh ra từ cung vua Tịnh Phạn, có đủ ba 
      mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đi xuất gia tu thành Phật, hiệu 
      Thích-ca Mâu-ni. Song Thiền tông không thấy như thế. 
      
      A. THIỀN TÔNG NHÌN THẲNG 
      PHÁP THÂN PHẬT. 
      
      Con mắt Thiền tông thấy Phật là Phật Pháp 
      thân. Bởi ba thân Phật - Pháp thân - Báo thân - Hoá thân, Pháp thân là căn 
      bản. Từ Pháp thân mới có Báo thân, Hóa thân hay Ứng thân. Báo thân, Hóa 
      thân là tướng sanh diệt, Pháp thân mới là thân Kim Cang bất hoại. Pháp 
      thân tức là tánh giác. Đức Thích-ca ngộ tánh giác được thành Phật. Chúng 
      ta mê tánh giác nên làm chúng sanh. Phật khác với chúng sanh chỉ tại ngộ 
      tánh giác và mê tánh giác. Tánh giác là thể chân thật của Phật, đạt tánh 
      giác là thoát ly sanh tử luân hồi, vĩnh viễn bất tử. Đó là mục đích thái 
      tử Tất-đạt-đa xuất gia tầm đạo. Tánh giác không tướng mạo nên không sanh 
      diệt, thường còn, bất hoại. Tuy không tướng mạo mà hằng giác nên gọi là 
      Phật. Bởi thấy Phật như thế nên nói: "Phật thường còn ở thế gian". Nếu 
      thấy Phật là thân ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, thân ấy đã hoại 
      diệt mất rồi, thế là Phật không còn sao? Thái tử Tất-đạt-đa tầm đạo khổ 
      tu, cuối cùng đi đến chỗ hoại diệt, làm sao gọi Ngài thành đạo? Làm sao 
      gọi Ngài thoát ly sanh tử luân hồi? Do đó Thiền tông chỉ thấy tánh giác 
      hay Pháp thân là Phật, chớ không chấp nhận thân tướng tứ đại hòa hợp làm 
      Phật. 
      
      Bởi thấy tánh giác không lệ thuộc vào thân 
      tướng, nên Thiền tông thờ Phật không căn cứ vào thân Phật ở Ấn Độ, tùy 
      người xứ nào liền tượng hình Phật giống người bản xứ ấy. Tánh giác lồng 
      sẵn trong mỗi người, sùng thượng tánh giác đâu cần bám vào hình thức người 
      Ấn Độ mới gọi là Phật. Thờ Phật với quan niệm biểu trưng để nhắc nhở mọi 
      người nhớ lại tánh giác của mình. Đức Phật ngồi trên bàn là giả, chính 
      tánh giác của mình mới là ông Phật thật. Thế mà người ta quên tánh giác 
      đi, chỉ biết ông Phật ở ngoài, quên hẳn ông Phật nơi mình. Thiền sư Tùng 
      Thẩm nói: "Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật 
      đất không độ được nước, Phật thật ngồi ở trong". Những hình tượng Phật 
      chúng ta thờ, đều là tướng duyên hợp, đã duyên hợp làm sao không bị duyên 
      tan. Phật thật đang ngồi lồ lộ nơi thân ta, chúng ta bỏ quên ông Phật 
      thật, chạy theo ông Phật giả. Vì thế Thiền sư Đơn Hà Thiên Nhiên mới làm 
      việc kỳ quái này, Sư đến chùa Huệ Lâm gặp tiết đại hàn, bèn lên chùa thỉnh 
      tượng Phật gỗ đốt để hơ. Viện chủ Hướng trông thấy quở trách: "Sao đốt 
      tượng Phật của tôi?" Sư lấy gậy bới trong tro nói: "Tôi thiêu để lấy 
      xá-lợi." Viện chủ bảo: "Phật gỗ làm gì có xá-lợi?" Sư nói: "Đã không có 
      xá-lợi, thỉnh hai vị nữa thiêu." Viện chủ nghe câu này, tất cả chấp đều 
      tan vỡ. Người sau nói "Đơn Hà thiêu mộc Phật, Viện chủ lạc mi mao" (Đơn Hà 
      thiêu Phật gỗ, Viện chủ rụng lông mày). 
      
      Xá-lợi là cái tinh ba cô đọng lại sau khi 
      thiêu thân Phật. Thân Phật đã hoại hơn hai ngàn năm rồi, mà xá-lợi vẫn 
      còn. So sánh trong tương đối, thân Phật là giả, xá-lợi là thật. Nương cái 
      giả để thấy cái thật mới đúng tinh thần thờ Phật. Chỉ biết cái giả mà 
      không thấy cái thật, tướng giả ấy trở thành vô nghĩa. Vì thế Thiền sư Đơn 
      Hà bảo: "Đã không có xá-lợi, thỉnh hai vị nữa thiêu". Viện chủ liền nhận 
      được ý này. 
      
      B. PHÁP THÂN CÓ SẴN NƠI 
      MỌI CHÚNG TA. 
      
      Quay lại tánh giác sẵn có nơi mọi chúng ta 
      là biết trở về với Phật. Chạy sang Tây thiên Đông độ cầu Phật, càng cầu, 
      càng xa. Chính vì chúng ta quên tánh giác của mình nên xem thấy Phật cao 
      siêu xa vời, quá tầm vóc của mình. Nếu mọi người nhận được tánh giác thì 
      đâu còn thấy Phật ngoài chúng ta. Lỗi lầm to lớn nhất là tại chúng ta có 
      Phật mà không dám tự nhận. Hãy nghe ông sa-di Cao đối đáp với ngài Dược 
      Sơn: 
      
      Dược Sơn hỏi: "Ta nghe ở Trường An rất náo 
      loạn, ngươi có biết chăng?" Sa-di Cao thưa: "Nước con an ổn." Dược Sơn 
      hỏi: "Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?" Sa-di thưa: "Chẳng do xem 
      kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được." Dược Sơn hỏi: "Có lắm người chẳng 
      xem kinh, chẳng thưa hỏi, tại sao chẳng được?" Sa-di thưa: "Chẳng nói họ 
      không được, chỉ vì họ không chịu thừa nhận." 
      
      Bởi không dám thừa nhận tánh giác của 
      mình, nên người ta chạy cầu Phật bên ngoài. Càng chạy ra ngoài, người ta 
      càng sa lầy trong mê lầm. Phật bên ngoài chỉ là đối tượng để cảnh giác 
      chúng ta thức tỉnh. Trái lại, chúng ta không thức tỉnh mà đi xin xỏ, ỷ lại 
      vào Phật bên ngoài. Thế là đã mê lại thêm mê. Cần phải thức tỉnh, nhận 
      tánh giác hay Pháp thân Phật ngay nơi thân năm uẩn này, mới thật người đạt 
      đạo. Chúng ta hãy nghe bà ni Liễu Nhiên nói kệ Pháp thân: 
      
      Ngũ uẩn sơn đầu cổ Phật đường 
      
      Tỳ-lô trú dạ phóng hào quang 
      
      Nhược năng ư thử phi đồng dị 
      
      Tức thị Hoa Nghiêm biến thập phương. 
      
      Trên đầu núi năm uẩn là ngôi nhà Phật xưa 
      
      Phật Pháp thân đêm ngày hằng phóng hào 
      quang ra sáu cửa 
      
      Nếu người khéo ở nơi đây không khởi tâm 
      phân biệt 
      
      Tức là Hoa Nghiêm (Pháp thân) khắp cả mười 
      phương. 
      
      Tóm lại, Thiền tông nhìn Phật bằng tướng 
      chân thật Pháp thân, cho nên thấy Phật đã có từ vô lượng kiếp, tuổi thọ 
      của Phật bằng tuổi hư không. Phật Pháp thân nằm sẵn trong nhà năm uẩn của 
      mọi chúng ta. Chúng ta tu hành cốt trở về với ông Phật sẵn có của chính 
      mình. Sống trọn vẹn với ông Phật của mình gọi là thành đạo chứng quả. 
      
      
      *  |