| 
       
      YẾU CHỈ THIỀN TÔNG 
      (tt) 
      
      IX. NHỮNG 
      NGHI VẤN VỀ THIỀN TÔNG. 
      
      A. CHƯ TỔ THIỀN TÔNG KHÔNG 
      ĐỦ CHỨNG CỨ?  
      
      Câu hỏi này gồm hai nghi vấn: Phật truyền 
      tâm ấn cho Tổ Ca-diếp không thấy ghi chép ở kinh nào, chư Tổ kế thừa ở Ấn 
      Độ cũng không thấy ghi chép trong các sử sách. 
      
      Về nghi vấn trên, chúng ta kinh nghiệm 
      hiện tại có thể hiểu quá khứ. Có lắm vị thầy trong các ngành nghề, tôn 
      giáo, đảng phái, bao giờ cũng có một vài đệ tử được bí truyền, còn đa số 
      chỉ dạy thông thường thôi. Bởi vì người cảm thông được mình mới nói hết 
      những bí ẩn trong lòng mình cho họ. Những điều ấy không thể nói giữa quần 
      chúng, mà chỉ nói riêng tư. Kinh chép lại, chỉ ghi những thời thuyết pháp 
      cho đông người, hoặc có tính cách phổ thông, những điều bí truyền làm sao 
      chép được. Hơn nữa, với Tổ Ca-diếp đã có mấy lần ở giữa chúng, đức Phật 
      mời Ngài lên ngồi chung tòa và cũng từng tán thán: "Những gì ta biết, 
      Ca-diếp cũng biết v.v…", trong các kinh A-hàm còn rõ ràng. Thế thì, "biệt 
      truyền tâm ấn" cho Tổ Ca-diếp đâu còn lạ gì. 
      
      Nghi vấn thứ hai, có tính cách học giả. 
      Trong Thiền tông thầy trò truyền nhau không khoa trương, mà thầm lặng. Chỉ 
      cần để y bát làm tin, không thiết tuyên bố cho quần chúng biết. Có khi ở 
      trong rừng, trong núi, một thầy một trò truyền nhau, làm sao có ghi sử 
      sách? Cho nên trong nhà Thiền lấy y bát làm "biểu tín", tâm ấn làm "mật 
      tín". Người được thầy trao y bát, đại chúng đều biết đã được truyền tâm 
      ấn. Căn cứ vào tâm ấn, nếu không có người trước truyền cho người sau, làm 
      gì người sau nhận được pháp này. Ví như một gia tộc có hòn ngọc quí, từ 
      ông cha truyền đến con cháu, đến đời cháu thứ sáu mươi nhận được hòn ngọc 
      do người cha thứ năm mươi chín trao cho. Người cha kể lịch sử truyền trao 
      trong gia tộc cho nó nghe, nó nhận được hòn ngọc thật, trong hòn ngọc có 
      khắc niên hiệu của thời ông bà xa xưa của nó, thử hỏi nó có tin lời kể lại 
      của cha nó là thật chăng? Trừ ra những người không biết hòn ngọc thì khó 
      tin chuyện ấy. Cũng thế, pháp "trực chỉ nhân tâm" của nhà thiền không phải 
      là chuyện ngẫu nhiên được, cần có Thiện tri thức chỉ dạy mới nhận ra. 
      Người nhận ra pháp này tự nhiên không còn nghi ngờ sự truyền thừa của chư 
      Tổ. Nếu nói cần phải có sự chứng minh của lịch sử thì việc trong rừng 
      trong núi của cá nhân làm gì có lịch sử? 
      
      B. AI TRUYỀN TÂM ẤN CHO 
      CHÚNG TÔI? 
      
      Nghi vấn này rất hữu lý, người biết chút 
      ít về thiền không ai chẳng đặt nghi vấn này. Từ Lục Tổ về trước, Tổ Tổ 
      truyền nhau, trong thì ấn tâm, ngoài truyền y bát làm "biểu tín". Lục Tổ 
      về sau không còn truyền y bát nữa, vì nhiều người hiểu thiền, nghe một câu 
      nói, thấy một hành động là biết người ấy thế nào rồi. Hơn nữa một vị Thiện 
      tri thức nổi tiếng được chúng theo tham vấn có cả năm bảy trăm một ngàn, 
      nếu có một người được vị Thiện tri thức ấn chứng tức thiên hạ đều biết, 
      cần gì phải có y bát. Song một vị ra làm Thiện tri thức, hướng dẫn người 
      tu học đều phải được thầy ấn chứng, có hệ phái rõ ràng. Đến thời chúng ta 
      hiện nay, Thiền tông đã mất dạng cả một trăm năm, còn ai là Thiện tri thức 
      chỉ dạy cho chúng tôi, mà chúng tôi đề xướng khôi phục Thiền tông? Quả là 
      một điều đáng nghi. 
      
      Thật lòng, trước kia chúng tôi không có mơ 
      mộng tu thiền, huống nữa khôi phục Thiền tông. Song chúng tôi hâm mộ tu 
      thiền và cố gắng tu thiền, theo lối thiền phổ thông. Thời gian nhập thất 
      hạ thủ công phu tu tập, một hôm bất thần chúng tôi phát minh được lý Thiền 
      tông. Sau đó chúng tôi đọc qua kinh sử Thiền tông, càng làm sáng tỏ chỗ 
      chúng tôi nhận được. Từ đó, chúng tôi khảo cứu sách sử thiền, những bộ này 
      ngày xưa đối với chúng tôi không thể nào hiểu nổi, nhưng hiện nay không 
      còn khó khăn nữa, càng đọc càng hứng thú. Đồng thời, những chỗ khó trong 
      các kinh điển Đại thừa, lúc trước đã học qua mà chưa hiểu, chúng tôi nhớ 
      lại và hiểu một cách dễ dàng. Vì thế, ngày xưa chúng tôi đã từng nói giữa 
      học chúng: "Kinh điển Đại thừa chỉ để trên gác thờ", ngày nay chúng tôi 
      thấy: "Kinh điển Đại thừa là một kho châu báu". 
      
      Bởi thấy Thiền tông đơn giản thực tế, siêu 
      thoát, ứng dụng tu hành lợi ích ngay trong hiện tại, chúng tôi không nỡ tự 
      tu tự hưởng một mình. Do đó, chúng tôi mở thiền viện dạy tu thiền. Chúng 
      tôi không được Thiện tri thức trực tiếp ấn chứng, nên chúng tôi dùng kinh 
      sử để giảng thiền. Bởi không được trực tiếp ấn chứng nên chúng tôi không 
      thể dựng Phật tử, gọi dạ như thầy trò Tổ Qui Sơn, Ngưỡng Sơn; đánh hét như 
      thầy trò Tổ Hoàng Bá, Lâm Tế. Chúng tôi chỉ giảng dạy kinh, luận, sử cho 
      người nghe nhận hiểu để ứng dụng tu. Chúng tôi lấy kinh ấn chứng cho 
      Thiền, tu Thiền để sáng tỏ thêm kinh. Sự hỗ tương giữa kinh và thiền đối 
      với chúng tôi thật quá thiết yếu.  
      
      Chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma đâu không nói: "Cõi 
      này có bốn quyển kinh Lăng-già khả dĩ dùng ấn tâm". Lục Tổ Huệ Năng ngộ 
      đạo do nghe giảng kinh Kim Cang. Đối với chúng tôi hiện nay cũng thế, dùng 
      kinh để ấn tâm, giảng kinh để ngộ đạo. Có người nghi rằng ngày xưa Thiền 
      sư Huyền Giác nhân đọc kinh Duy Ma Cật nhận ra lý Thiền, vẫn được Thiền sư 
      Huyền Sách khuyến khích đến Lục Tổ ấn chứng, nếu không sẽ thành ngoại đạo 
      thiên nhiên. Chúng tôi hiện nay không có người ấn chứng, lại thành ngoại 
      đạo hay không? Thưa rằng, ngày xưa có Tổ ra đời không đến ấn chứng là 
      người đứng ngoài lề Thiền tông, ngày nay không có Tổ, cũng không có Thiền 
      sư kế thừa, chúng tôi phải nhờ ai ấn chứng? Thế thì kinh, luận, sử, ngữ 
      lục của chư Tổ không đủ ấn chứng cho chúng tôi sao? Người học đạo cần phải 
      dùng trí phán xét đường lối tu hành, đúng Phật, Tổ dạy hay sai Phật, Tổ 
      dạy, đừng đòi hỏi một việc mà không bao giờ làm được. 
      
      C. TU THIỀN CÓ PHẢI RƠI 
      VÀO KHÔNG CHĂNG? 
      
      Thiền tông chủ trương không kẹt hai bên, 
      còn thấy có, thấy không đều là kẹt. Đã kẹt tức là bệnh không thể giải 
      thoát được. Như vậy hỏi tu thiền rơi vào có, rơi vào không đều không hiểu 
      thiền. Bởi vì tâm thể không tướng mạo, nên nói không tướng, tuy không 
      tướng mà hằng giác. Không tướng là không phải có, hằng giác là không phải 
      không. Thế thì nói có nói không đối với thiền đều là phiếm diện, không 
      phải toàn thể. Chúng ta nghe câu chuyện đối đáp của Thiền sư Huệ Hải với 
      Luật sư Pháp Minh để thấy rõ ý nghĩa này: 
      
      Luật sư Pháp Minh hỏi: "Các Thiền sư phần 
      nhiều rơi vào không?" Thiền sư Huệ Hải bảo: "Trái lại, các Tọa chủ phần 
      nhiều rơi vào không." Pháp Minh hỏi: "Tại sao rơi vào không?" Huệ Hải đáp: 
      "Kinh, luận là giấy mực văn tự, giấy mực văn tự đều là không, dù trên 
      tiếng dựng lập danh, cú, văn, thân đâu chẳng phải là không. Tọa chủ bám 
      chặt vào giáo thể đâu chẳng rơi vào không?" Pháp Minh hỏi: "Thiền sư có 
      rơi vào không chăng?" Huệ Hải đáp: "Văn tự… đều từ trí tuệ mà sanh, đại 
      dụng hiện tiền đâu thể rơi vào không." 
      
      Qua câu chuyện trên liền thấy được ai chấp 
      không. Bởi cửa thiền là cửa Không, nên người ta cứ cho thiền là rơi vào 
      không. Họ không biết rằng đây là bước đầu phá chấp ngã sai lầm cho thật 
      có, khi chấp ngã tan biến rồi liền thấy tâm thể nào phải là không. Cho tu 
      thiền rơi vào không là cái thấy biết nông nổi cạn cợt ở ngoài, chưa hiểu 
      gì về thiền. Người hiểu thiền chân chánh còn không thấy có, huống nữa là 
      không. 
      
      D. TU THIỀN CHẾT SANH VỀ 
      ĐÂU? 
      
      Người học Phật mà đặt câu hỏi này thật quá 
      thiển cận. Chủ yếu của Phật giáo, người tu đạt được Niết-bàn là cứu kính. 
      Nghĩa chánh của Niết-bàn là vô sanh. Mục đích người tu nhắm thẳng đến chỗ 
      vô sanh, mà hỏi sanh về đâu, trái hẳn với mục đích của mình rồi. Nếu còn 
      sanh tức chưa viên mãn công phu, công phu chưa viên mãn thì tùy phước 
      nghiệp cao thấp, dày mỏng, đến cảnh tương ưng thọ sanh. Nếu công phu đã 
      viên mãn, mà hỏi sanh về đâu, như các vị A-la-hán tịch, chư Tỳ-kheo hỏi 
      Phật: "Vị ấy sanh về đâu?" thì Phật trả lời: "Như củi hết lửa tắt". Đống 
      lửa cháy sắp tàn do không thêm củi, khi củi hoàn toàn hết thì lửa tắt. 
      Không thể hỏi lửa đi về đâu, vì hiện tượng mất trở lại bản thể. Bản thể 
      của lửa không tướng mạo, làm sao chỉ chỗ nơi cho người thấy biết được. Củi 
      ví dụ cho nghiệp, còn nghiệp thì còn sanh, hết nghiệp hỏi sanh ở đâu? 
      
      Riêng về người tu thiền, khi công phu viên 
      mãn đạt được vô sanh tự tại giải thoát, tùy duyên ứng hóa, không thể hỏi 
      đi đâu hay về đâu? Nếu công phu chưa viên mãn, khi sắp tịch cần làm chủ 
      được mình, chỉ nhớ sống với tâm thể thanh tịnh, không bị vọng tưởng chi 
      phối, lúc ra khỏi thân tùy chọn lựa nơi nào đủ duyên thì đến, không cố 
      định ở đâu. Lại nữa nếu người tu công phu còn tầm thường, chỉ cần gan dạ 
      khi đau liền nhìn thẳng cái đau nó đang hoành hành thế nào, thấy được cái 
      đau hoành hành thì mình không đau. Khi sắp chết cần nhìn thẳng xem cái 
      chết đang tiến hành ra sao, thấy cái chết đang tiến hành thì mình không 
      chết. Bởi vì chúng ta cứ đồng hóa cái thân hoại diệt với tâm bất hoại diệt 
      làm một, nên bị nó chi phối. Giờ đây chúng ta thấy rõ sự hoại diệt của nó, 
      tức nó không chi phối được mình. Chúng ta nghe lời đối đáp của Thiền sư 
      Lương Giới, Tổ tông Tào Động về việc này: 
      
      Thiền sư Lương Giới sắp tịch, có vị tăng 
      hỏi: "Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?" Sư đáp: "Có." Tăng 
      hỏi: "Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?" Sư đáp: "Lão tăng xem y 
      có phần." Tăng hỏi: "Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?" Sư đáp: "Khi lão 
      tăng xem, chẳng thấy có bệnh." 
      
      Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy rõ, biết được 
      cái bệnh cái chết là chúng ta khỏi bệnh khỏi chết. Hỏi chết sanh về đâu là 
      hỏi theo nghiệp, theo nguyện. Người tu thiền nỗ lực buông xả động cơ tạo 
      nghiệp là vọng tưởng, mong mỏi một nơi nào đó cũng là vọng tưởng. Người tu 
      thiền là dứt sự mong cầu, hỏi sanh về đâu thật là ngớ ngẩn vô cùng. 
      
      E. TU THIỀN BAO LÂU ĐƯỢC 
      THẦN THÔNG? 
      
      Đây là một vấn đề lầm lẫn của đa số người 
      hâm mộ tu thiền. Họ bị những môn thiền tà, ngoại nói về sự linh thiêng mầu 
      nhiệm, khiến họ ước mơ thần thông. Với tinh thần Thiền tông, thần thông 
      diệu dụng chỉ là vấn đề phụ thuộc không đáng kể. Đạt được tánh giác, sống 
      với tâm thể mới là điều thiết yếu, như nói "Minh tâm kiến tánh" hay nói 
      "Thức tâm đạt bản nguyên danh vi sa môn". Vì thế mục tiêu chánh yếu của 
      hành giả tu theo Thiền tông là làm sao kiến tánh để khởi tu. Sau khi kiến 
      tánh phải buông xả vọng tưởng để hằng sống với chân tánh. Ngoài hai điều 
      chánh yếu này không còn gì đáng kể. Thế nên chư Thiền sư chưa kiến tánh 
      phải đi hành khước hai ba mươi năm tìm khắp các Thiện tri thức để được 
      kiến tánh. Sau khi kiến tánh các Ngài vào núi ở mấy mươi năm để buông xả 
      vọng tưởng. Xong việc các Ngài mới ra làm lợi ích cho người sau. Mọi sự 
      mầu nhiệm đối với Thiền sư xem như một bệnh hoạn đáng trách. 
      
      Thiền sư Nam Tuyền đi thăm trang sở ở dưới 
      núi, đến nơi thấy trang chủ sắp đặt lễ nghi trịnh trọng chực đón. Nam 
      Tuyền hỏi: "Ta đi đâu không báo cho ai biết trước, tại sao trang chủ bày 
      biện thế này?" Trang chủ thưa: "Khi hôm có thổ địa mách, hôm nay Hòa 
      thượng đến." Nam Tuyền nói: "Thầy già họ Vương này tu hành vô lực bị quỷ 
      thần thấy tâm." 
      
      Được quỷ thần báo trước việc đến của mình, 
      theo thế thường là quá vinh dự, nhưng Thiền sư xem đó là sự dấy tâm động 
      niệm của mình bị quỷ thần xem thấy. Đến như được sự cúng dường vẫn là bệnh 
      hoạn. 
      
      Thiền sư Đạo Ưng cất thảo am ở Tam Phong, 
      suốt tuần nhật không đến trai đường thọ trai. Động Sơn thấy lạ đến hỏi: 
      "Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?" Sư thưa: "Mỗi ngày có thiên 
      thần cúng dường." Động Sơn bảo: "Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. 
      Ngươi rảnh chiều lại." Chiều sư đến, Động Sơn gọi: "Ưng am chủ!" Sư ứng 
      thinh: "Dạ." Động Sơn bảo: "Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là gì?" Sư trở 
      về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải ba ngày như 
      thế mới thôi cúng dường. 
      
      Người tu được thiên thần cúng dường mỗi 
      ngày là điều ít có. Tại sao không khen, lại bị chê "còn kiến giải"? Còn 
      khởi niệm lành thì quỷ thần hay chúng sanh khác còn thấy, chỉ khi mọi niệm 
      lành dữ đều bặt thì không còn ai thấy tâm mình. Đó mới là chỗ cứu kính của 
      người tu thiền. Cho nên chủ trương của Thiền tông, khi nào trước tám gió 
      -lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc - thổi, tâm hành giả không động là 
      thành công. Thần thông diệu dụng mà một gió đã động thì đó là dã hồ tinh 
      mị. Người có thiện chí tu hành khéo dè dặt đừng lầm lẫn chỗ này. 
      
      G. TU THIỀN CÓ ĐIÊN CHĂNG? 
      
      Khi dạy thiền chúng tôi thường nói: "Không 
      biết tu thiền điên, biết tu thiền không điên". Tại sao? Bởi vì những người 
      không biết mà tập tu thiền sai lạc nên phát điên, người biết tu thiền đúng 
      đắn làm sao điên được. Nếu tu thiền điên thì đức Phật, chư Tổ đã điên hết 
      rồi sao? Phật, Tổ do tu thiền đạt đạo, chúng ta ngày nay tu thiền điên là 
      tại sao? Đâu không phải tại không biết tu lầm lẫn nên điên. Thế thì tu mà 
      điên là tại không biết tu, chớ không phải tại tu thiền. Hơn nữa người tu 
      thiền cấm kỵ nhất là "mừng" và "sợ". Hiện nay một số hành giả tu thiền, 
      khởi tâm vọng cầu tướng lạ, khi tướng lạ hiện đúng sở cầu, liền khởi 
      "mừng" không thể kềm chế được, phát điên. Hoặc khi tướng lạ hiện khác sở 
      cầu, sanh "sợ" hoảng lên phát điên. Đó là tại mong thấy tướng lạ, như mong 
      thấy Phật hiện, mong thấy hoa sen… Hoặc người tu mong được thần thông, khi 
      ấy quỷ thần thấy tâm mong cầu của mình, nó đến theo sở thích của hành giả, 
      hiện mọi thứ thần thông, hành giả liền bị nó mê hoặc. Sau đó, hành giả trở 
      thành điên cuồng khờ khạo. Còn lắm chuyện khiến hành giả phát điên, song 
      đều do nguyên nhân vọng cầu mà ra. Người tu thiền chân chánh theo Thiền 
      tông thì "gặp ma giết ma, gặp Phật giết Phật". Câu này có hai ý nghĩa. 
      Nghĩa thứ nhất, khi tu Thiền hành giả chẳng những buông xả tâm xấu ác mà 
      tâm hiền thiện cũng xả bỏ luôn. Còn một niệm dù là niệm lành cũng là bệnh, 
      như nói: "Mạt vàng tuy quý, rơi vào con mắt cũng khó chịu". Bỏ niệm xấu ác 
      là giết ma, bỏ niệm lành là giết Phật. Nghĩa thứ hai, hành giả trong lúc 
      tu thiền dù thấy Phật hiện hay ma hiện đều không chấp nhận. Bởi vì tất cả 
      tướng bên ngoài đều không thật, đều hư giả, không chấp nhận thì tâm mừng, 
      sợ đều không, sự tu hành mới an định. Chúng ta nghe câu chuyện này: 
      
      Thiền sư Văn Hỷ (Giải Thoát) đi hành hương 
      Ngũ Đài Sơn, đến hang Kim Cang lễ bái Bồ-tát Văn Thù, gặp Văn Thù mà Sư 
      không biết. Sau này, Sư ngộ đạo ở Ngưỡng Sơn. Một hôm, Sư nấu cháo, thấy 
      Văn Thù hiện trên nồi cháo, Sư lấy cây dầm quậy cháo đập, nói: "Văn Thù tự 
      Văn Thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ". Văn Thù nói kệ: 
      
                  Khổ qua liên căn khổ 
      
                  Điềm qua triệt đới điềm 
      
                  Tu hành tam đại kiếp 
      
                  Khước bị lão tăng hiềm. 
      
                  Dưa đắng gốc vẫn đắng 
      
                  Dưa ngọt rễ cũng ngon 
      
                  Tu hành ba đại kiếp 
      
                  Lại bị lão tăng đòn. 
      
      Qua hình ảnh trên thấy rõ ý nghĩa "Gặp 
      Phật giết Phật gặp ma giết ma" của Thiền sư vậy. Nếu hành giả tu thiền gặp 
      tất cả ngoại cảnh đều không chấp, chỉ sống một tâm thanh tịnh, còn có lý 
      do gì khiến phải điên. 
      
      Tuy nhiên gặp ma hiện không chấp nhận là 
      dễ, thấy Phật, Bồ-tát hiện không chấp nhận phải gan dạ lắm mới làm được. 
      Người tu ít lầm ma, trái lại thường lầm Phật. Do đó ma lợi dụng lòng quý 
      kính Phật của hành giả, nó hiện thân Phật, hiện nói pháp… hành giả dễ bị 
      nó dẫn đi. Bởi chúng ta chưa có thiên nhãn, làm sao phân biệt ma, Phật để 
      khỏi lầm. Chính ngày xưa Tổ Ưu-ba-cúc-đa vẫn còn lầm: 
      
      Một hôm ma Ba Tuần đến quấy nhiễu Tổ 
      Ưu-ba-cúc-đa, Tổ dùng đạo lực trị chúng. Cuối cùng ma Ba Tuần xin qui y 
      với Tổ. Tổ qui y cho ma Ba Tuần xong, bảo nó: "Khi xưa đức Thế Tôn tại 
      thế, ngươi thường trông thấy, nay ngươi hiện thân Phật và một ngàn hai 
      trăm năm mươi vị Tỳ-kheo cho ta xem". Ma Ba Tuần hứa nhận, ma thưa: "Khi 
      con hiện thân Phật, xin Hòa thượng đừng lễ bái, con Tổn phước". Tổ nhận 
      lời, ma biến mất. Giây lát thấy từ mé rừng đức Phật đi trước ôm bình bát 
      hào quang sáng rỡ, theo sau một ngàn hai trăm năm mươi chúng Tỳ-kheo oai 
      nghi trang nghiêm đi đến trước mặt Tổ. Bất giác Tổ cúi mình đảnh lễ, Ma 
      liền biến mất. 
      
      Ngài là một vị Tổ thứ tư ở Ấn Độ, trong 
      khi ma hiện hình Phật, trước đã giao hẹn với Ngài, Ngài vẫn đảnh lễ. Huống 
      nữa bọn phàm phu chúng ta gặp những cảnh trạng như vậy, làm sao khỏi hết 
      lòng quy ngưỡng. Ma hiện mà chúng ta quy ngưỡng thì nhất định phải rơi vào 
      đường ma. Chỉ một điều duy nhất là chúng ta không chấp nhận mọi cảnh bên 
      ngoài, một bề buông xả vọng tưởng là trên hết. 
      
      
      *  |