[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập II)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


CƯƠNG YẾU ĐỂ TU

Giảng tại chùa Thiên Phước - Long An

21-7-2000 - Canh Th́n

 

Hôm nay thể theo lời mời của Sư Bà tại chùa Thiên Phước cũng như trong Giáo Hội, chúng tôi về đây giảng một thời pháp cho Tăng Ni và toàn thể Phật tử nghe. Trên đường tu, chúng ta muốn tu đúng với chánh pháp của Phật để được an lạc giải thoát, th́ điều kiện tiên quyết là phải hiểu, phải nhập được chánh pháp.

Hồi xưa có Thiền sư Đạo Lâm ở Trung Quốc, Ngài rất quyết tâm tu hành. Để đạt được kết quả như sở nguyện, Ngài dùng cây cột thành chỗ ngồi như một ổ quạ, trên cháng ba của một cổ đại thụ. Ngài ngồi trên đó tu. Đương thời người ta không biết tên Ngài là ǵ nên họ gọi là Ô Sào Thiền sư. Ô là quạ, sào là ổ, Thiền sư ngồi tu trên ổ quạ. Do quyết tâm tu nên chẳng bao lâu Ngài ngộ đạo. Từ đó, tiếng đồn vang khắp.

Khi ấy Bạch Cư Dị là một thi sĩ nổi tiếng và rất mến mộ đạo Phật. Nghe Ngài là người được đắc đạo nên ông t́m tới. Dưới gốc cây, ông nh́n lên chắp tay thưa: "Bạch Ḥa thượng, cúi xin Ngài v́ con nói pháp cương yếu, để con theo đó mà tu". Ngài liền đọc bài kệ, nguyên văn chữ Hán là:

Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ư

Thị chư Phật giáo.

Dịch:

Chớ làm các điều ác

Vâng làm các điều lành

Giữ tâm ư trong sạch

Đây lời chư Phật dạy.

Nghe bài kệ ấy xong ông cười, nói:

- Bạch Ḥa thượng, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, Ngài dạy cho con làm ǵ!

Thiền sư nói:

- Phải, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng ông già tám mươi làm cũng chưa xong!

Bài kệ này thường được in trong lá phái quy y của quư Phật tử đó. Chư Phật đă dạy như thế, chứ không phải chỉ một đức Phật thôi. Chúng ta nên lưu tâm cho rơ. Tôi sẽ thứ tự giải thích bốn câu kệ này cho quư vị thấy tầm vóc quan trọng của nó.

Chư ác mạc tác là không làm các điều ác. Điều ác là những điều ǵ? Phật dạy tất cả người tu khi bước chân vào đạo, đều phải giữ giới. Nếu cư sĩ th́ giữ năm giới; người xuất gia thọ Sa-di giữ mười giới, Tỳ-kheo giữ hai trăm năm mươi giới; Tỳ-kheo Ni ba trăm bốn mươi tám giới… Như vậy bước đầu vào đạo là phải giữ giới. Giữ giới là để ngăn ngừa không làm những điều tội lỗi. Cho nên trong giới luật thường có câu pḥng phi chỉ ác, tức là ngừa đón, ngăn dứt tội ác.

Người bước vào đạo, Phật bắt phải giữ giới để ngừa đón, chặn đứng không cho làm những điều tội ác. Giới không cho chúng ta rơi vào hầm sâu, hố thẳm, nên giới là hàng rào để ngừa đón sự nguy hiểm cho chúng ta. Người tu xuất gia hay tại gia, đều phải có hàng rào để ngừa đón tội lỗi. Nếu không có hàng rào đó, chúng ta dễ rơi vào những chỗ nguy hiểm, hậu quả không an vui mà c̣n dẫn đến nhiều khổ đau khác nữa.

Tôi nói gần nhất là giới của cư sĩ tại gia. Phật không cho sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, x́ ke, ma túy… Phật cấm không được làm những điều này. Nếu Phật tử làm th́ sẽ dẫn đến đau khổ, tội lỗi. Bước đầu v́ sợ tội, sợ phạm nên quư vị không làm những điều đó, tức là không làm điều ác.

Các hành động như giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu say… có ác không? Năm điều đó là tội ác cho nên chúng ta ngừa đón, không làm, không làm tức là giữ giới. Nhờ giữ giới nên tránh được tội ác. Tránh được tội ác rồi, kế đó chúng ta mới làm các việc lành. Làm các việc lành như tu Thập Thiện, tức là mười điều lành của người tu Thiên thừa Phật giáo. Người tu Thập Thiện sau khi chết sẽ sanh về cơi trời. Trong mười điều lành đó thân có ba, miệng có bốn, ư có ba điều.

Thân có ba là: "Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm". Miệng có bốn là: "Không nói dối, không nói lời hung dữ, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt". Ư có ba là: "Bớt tham, bớt sân, bớt si". Người tu không làm mười điều ác đó sẽ được sanh về cơi lành. Như vậy bước đầu của người tu Phật là phải ngăn chận ḍng tội lỗi. Không gây tạo tội lỗi là bước thứ nhất trên đường tu. Người theo đạo Phật mà không chịu giữ giới là người không biết tu.

Trong mười điều đó: thân ba, miệng bốn, ư ba. Chúng ta có thể giữ được thân, miệng nhưng ba điều của ư, quư Phật tử có giữ được không? Thí dụ về tham, cái tham hết sức nhỏ như tham ăn. B́nh thường thấy gà vịt nuôi sẵn ở nhà cũng thương, nhưng khi đă thèm ăn rồi th́ cứ đè xuống cắt cổ. Nó giăy giụa mấy cũng mặc, đâu có xót xa chút nào, miễn được ăn ngon thôi. V́ miếng ăn mà chúng ta tàn sát chúng sanh không thương tiếc!

Nên tôi nói người tu ăn chay có lợi rất lớn, dễ tăng trưởng ḷng từ bi. Thí dụ chư Tăng Ni ăn chay trường, khi ra đường có những hồ ao gần bên, cá dưới ao nhảy lên bờ giăy giụa, quư vị thấy thế th́ sao? Thấy thương, lượm bỏ xuống hồ. C̣n người không ăn chay trường, thấy th́ sao? Th́ mừng, lượm bỏ vô giỏ. Như vậy có một việc thôi, mà người ăn chay trường thấy thương, c̣n người ăn mặn th́ thấy là món ăn ngon nên lượm bỏ vô giỏ.

Cái khổ sợ kinh hoàng của nó, ḿnh không một chút xót thương. Rơ ràng người tu ăn chay th́ có ḷng từ đối với chúng sanh hơn. Người tu mà c̣n tham ăn ngon là c̣n sát phạt sinh vật khác, không biết thương tiếc mạng sống của nó. Từ tham ăn rồi tới tham tiền, tham của.

Tham tiền, tham của th́ sao? Th́ ra đường thấy ai làm rơi bóp lượm lên. Lượm được mừng quá giấu luôn. Như vậy do tham, dù không trực tiếp ăn cắp, nhưng đă gián tiếp làm việc đó rồi. Người mất của họ buồn rầu, ḿnh lượm được th́ mừng vui. Tức là vui trong sự đau khổ của người khác. Như vậy có tội không? Chúng ta thấy từ tham làm ra bao nhiêu tội ác. Sân cũng vậy. Khi nào nổi nóng ít ai b́nh tĩnh, sáng suốt nói lời tốt lành. Người ta nói trái ư, ḿnh nổi giận liền kêu tên chửi mắng. Do giận dấy lên, chúng ta mất hết trí khôn nên nói bậy, gây ra tội lỗi. Người tu phải bớt nóng giận. Chẳng riêng ǵ giới Phật tử cư sĩ mà kể cả người xuất gia có hết được nóng giận chưa? B́nh thường quư vị sợ nhưng tới nổi cơn lên th́ hết sợ! Để thấy khi nổi giận lên th́ trí tuệ sáng suốt bị khuất lấp đi, không c̣n nữa nên nói bậy, làm bậy.

Trong gia đ́nh Phật tử cư sĩ, vợ chồng có t́nh ràng buộc từ buổi đầu cho tới ngày nhắm mắt. Nhưng khi nổi giận th́ bất kể, nói những lời hết t́nh hết nghĩa, làm cho tan nát cả gia đ́nh. Thế th́ nóng giận có phải là tội ác không? Nếu chúng ta bớt nóng giận th́ bớt tội ác. Đó là một cái lẽ thật. Người tu phải làm sao tự ḿnh kềm chế. Ở đây tôi nói bớt thôi, chứ chưa dám nói hết. Thí dụ trước kia quư vị nóng một trăm phần trăm, kể từ nay về sau, mỗi tháng bớt xuống chừng mười phần trăm. Như vậy tới cuối năm sẽ hết hoàn toàn. Dứt được sân th́ ḿnh bớt khổ và những người chung quanh cũng bớt khổ. Nóng giận làm cho người ta mất hết lương tri, mất hết trí tuệ. Những việc không nên làm mà cứ làm là điều hết sức nguy hiểm.

Thứ ba là si mê. Sao gọi là si mê? Nhiều vị khi bị người ta nói "Chị khờ quá! ", nổi giận liền. Nói "khờ" c̣n nhẹ, nói "ngu quá! " th́ sao? Nổi giận đùng đùng lên. Bởi cho rằng người ta nói ngu là xúc phạm đến giá trị của ḿnh, làm cho ḿnh mất hết uy tín, danh dự… Nếu nghe nói ngu mà cứ cười: "Họ nói ḿnh ngu mà ḿnh không ngu th́ thôi", như vậy khỏe biết mấy. Phải chi họ nói ngu mà ḿnh ngu liền th́ nổi giận là đúng. Người ta nói ngu mà ḿnh không ngu th́ thôi, có hệ trọng ǵ. Vậy mà không bao giờ chịu. Người xưa c̣n nói: "Càng học thấy càng dốt", đây là câu nói của hàng Thánh nhân chứ không phải thường.

Học nhiều lẽ ra phải thông minh, sao "càng học càng thấy dốt"? Bởi trên thế gian cả trăm cả triệu ngành nghề khác nhau. Thí dụ như chúng ta học nghề bác sĩ y khoa, giỏi về bệnh trạng, biết thuốc trị cho bệnh nhân hết bệnh, đó là bác sĩ hay. Nhưng nếu đưa ông bác sĩ qua ngành điện hoặc ngành hóa chất hay các ngành tầm thường hơn như thợ hồ, thợ mộc th́ ông có biết ǵ không? Như vậy trăm ngàn nghề, ḿnh biết có một nghề, c̣n bao nhiêu nghề không biết, th́ đâu gọi là khôn hoàn toàn. Ḿnh biết có một phần trong muôn phần th́ vẫn c̣n ngu, chưa thể gọi là thấu suốt được hết.

Ngu mà biết ngu là chưa thậät ngu. Ngu mà không biết ngu đó mới thật là ngu! Khi nghe người ta nói ḿnh ngu, ḿnh cười thôi: "Trong trăm ngh́n muôn ức việc, tôi biết có một hai việc thôi bảo ngu là phải" Nói như vậy có thiệt tḥi giá trị của ḿnh không? Người bàng quan nghe thế, họ chê cười hay là khen ngợi? Chúng ta có những thứ si mê hết sức là vô lư, không đáng si mê mà cứ si mê. Từ si mê không chấp nhận ḿnh ngu nên sanh ra sân. Từ sân gây tai họa nguy hiểm thêm.

Trong kinh A Hàm, Phật có kể câu chuyện:

Có một thầy Tỳ-kheo tu hành rất chân chính, Ngài tránh xa quần chúng, tu trong một khu rừng. Những tiều phu hái củi thấy thế, họ về nói lại trong xóm nghe. Trong xóm, có một thiếu nữ rất tâm đạo, nghe vị Tỳ-kheo tu chân chính như thế, nên cô xin phép ba mẹ mỗi ngày bưng một bát cơm vào rừng cúng dường cho thầy. Thấy thế, xóm làng nghi ngờ cô gái có t́nh ư với thầy. Họ đồn bậy, cô buồn nên không dâng cơm nữa. Trước khi không dâng cơm, cô thưa với thầy:

- Thưa thầy, con đă phát tâm cúng dường cho thầy, nhưng bây giờ xóm làng đàm tiếu, nói con có ư riêng thầy, nên con không dám dâng cơm cho thầy nữa.

Nghe xong thầy Tỳ-kheo ấy buồn, v́ nghĩ ḿnh tu chân chính thế này, mà người ta đàm tiếu những chuyện không hay, thôi th́ chết đi cho rồi. Thầy mới làm một dây tḥng lọng treo trên cây cổ thụ. Lúc Thầy vừa đưa cổ vào dây, có vị thần hiện ra hỏi:

- Tại sao thầy lại tự tử?

Thầy trả lời:

- Tôi tu hành chân chính mà bị người ta đồn có t́nh ư với cô gái cúng dường cơm cho tôi. V́ vậy tôi xấu hổ, muốn tự tử chết cho rồi.

Vị thần đó hỏi:

- Thưa thầy, nếu người ta đồn thầy chứng quả A-la-hán, lúc đó thầy có thành A-la-hán không?

- Nếu tôi chưa chứng A-la-hán, mà bảo tôi chứng A-la-hán, tôi cũng đâu thành A-la-hán được.

Vị thần hỏi:

- Vậy nếu người ta nói thầy có t́nh ư xấu mà thầy không có, tại sao thầy lại tự tử?

Nghe thế, thầy Tỳ-kheo mở tḥng lọng xuống bỏ. Sau một thời gian tinh cần, thầy chứng quả A- la-hán.

Câu chuyện đó nói với chúng ta điều ǵ? Dư luận khen chê có thật hay không? Thí dụ quư vị tu chưa tới đâu, mà nghe nói "Thầy đă chứng A-la-hán, thầy đă là Bồ-tát rồi, " quư vị có mừng không? Lời khen mà không có lẽ thật th́ cũng vô giá trị. Ngược lại, nếu người ta nguyền rủa: "Thầy tu lôi thôi quá coi chừng đọa địa ngục", quư vị nổi giận không? Nếu ḿnh tu thanh tịnh, người ta nói đọa địa ngục, ḿnh có đọa đâu mà sợ. Nên cứ cười thôi, đâu có ǵ phải nổi nóng.

Trên thế gian người ta nói xấu, nói tốt đâu có giá trị thật. Vậy mà ai hơi xúc phạm là ḿnh nổi nóng lên, la hét om ṣm. Đó là si mê rồi. Nếu chúng ta không si mê th́ cuộc sống có phải an lành không? Nên đạo Phật thường dạy chúng ta phải tránh si mê. Bởi v́ si mê là nhân đưa chúng ta đến đau khổ. Nên bớt si mê là bớt khổ đau. Nếu c̣n si mê là c̣n đau khổ.

Muốn hết si mê chúng ta phải thường quán chiếu đúng với lẽ thật. V́ vậy người tu Phật đi vào đạo bằng trí tuệ, chứ không phải bằng cầu xin. Nhưng hiện nay quư chẳng những Phật tử, mà kể cả người tu cầu xin nhiều hơn vận dụng trí tuệ.

Phật tử tới chùa dâng một dĩa quả rồi lạy, thầy hay cô đánh chuông, bảo: "Phật tử nguyện ǵ th́ cứ nguyện đi. " Thế là một đàng nhận, một đàng xin, Phật tử cứ thế mà cầu: "Nguyện cho gia đ́nh con được b́nh an, cho con cái học giỏi, cho làm ăn phát tài…" Rơ ràng cúng Phật ít mà xin th́ quá nhiều. Như vậy có phải tham không? Phật dạy bớt tham, bớt sân, bớt si mà chúng sanh tham như vậy, Phật biết làm sao? Chỉ c̣n lắc đầu.

Chúng ta tu mà không hiểu được lời Phật dạy, làm sao tu theo Phật được. Đến chùa, nếu có cầu nguyện, người Phật tử hiểu đạo nên nguyện thế này: "Nguyện Tam Bảo chứng minh hộ độ cho tất cả chúng sanh đều hết mê lầm, hết đau khổ. " Như vậy là quá đủ. Bởi v́ trong chúng sanh đă có ḿnh rồi. C̣n xin cho một ḿnh ḿnh th́ tham lam, ích kỷ quá, Phật đâu có vui. Nhiều khi tôi cũng hơi buồn khi thấy Phật tử có ư trao đổi nhiều quá.

Thí dụ Phật tử cúng cho thầy hoặc cô, mỗi tháng năm ba trăm ǵ đó. Một hôm có người nhà ấm đầu, bèn đến nhờ thầy cầu an giùm. Thầy bận việc không đi tới nhà được th́ buồn liền, thầy không thương ḿnh. Như vậy cúng để mong thầy bảo bọc cho gia đ́nh. Bệnh, chết hay trong gia đ́nh có chuyện ǵ, nhất nhất thầy đều phải có mặt để cầu cúng. Như vậy cúng chùa giống như đóng tiền bảo hiểm vậy. Cho nên từ sự hiểu lầm của Phật tử mà Tăng Ni trở thành khó xử. Bởi khi nhận của cúng dường tức là thiếu nợ Phật tử. Phật tử yêu cầu mà không làm theo th́ Phật tử buồn, không đi chùa nữa. Cho nên chiều Phật tử, Tăng Ni đi cầu cúng hoài, thành ra đánh mất ư nghĩa và giá trị thực của một tu sĩ.

Phật tử sáng suốt, hiểu và hành đúng đạo lư, th́ Tăng Ni dễ tu, dễ hóa duyên. Nói vậy không có nghĩa tôi qui lỗi về hết cho quí Phật tử. Đôi lúc thầy cô cũng nhiệt t́nh quá, Phật tử chưa kịp mời mà quư vị đă hưởng ứng trước rồi! "Nghe nói ông thân của cô bệnh nhiều, thôi để chiều nay thầy tới cầu an cho. " Sốt sắng quá nên thành thói quen. Bây giờ chúng ta phải sửa lại. Làm việc ǵ phải xét xem việc đó có hợp với chánh pháp, với đạo lư không. Không nên làm những việc sai lầm, trái với những lời Phật dạy.

Chúng ta tu theo Phật là mở sáng trí tuệ. Trong kinh Phật thường dạy si mê là tăm tối, trí tuệ là sáng suốt. Tuy si mê là nhân của tham sân, nó khó trị, nhưng nếu biết trị th́ dễ lắm. Như trong ngôi nhà tối lâu năm không có người ở, bây giờ muốn cho hết tối, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn, hay đem một cây đuốc đến là ngôi nhà sáng liền.

Như vậy muốn hết tối, chỉ dùng ánh sáng. Ánh sáng mới phá tan si mê, tăm tối. Trí tuệ cũng vậy, nó giúp chúng ta diệt được vô minh. Như chúng ta hiểu sai lầm về việc cầu cúng, khi được nghe quí thầy giảng giải liền nhận ra, sửa đổi ngay là chúng ta đă sáng rồi. Đâu phải đợi mười năm, hai mươi năm mới sáng. Nghe, biết trước kia ḿnh mê lầm, bây giờ bỏ mê lầm, bỏ chấp trước là hết mê lầm. Hết mê lầm là trí tuệ, rất nhanh.

Nên Phật dạy chúng ta tu phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ. Có đuốc trí tuệ rồi, chúng ta mới giải hết được những nỗi khổ đau. Bởi mê lầm cho nên chúng ta đau khổ, nếu hết mê lầm th́ hết đau khổ. Ví như người đi lạc trong rừng, không biết lối ra. Lúc đó lao đao lận đận, t́m chỗ này chỗ kia nhọc nhằn khổ sở mà vẫn không ra khỏi rừng. Đến khi gặp được người chỉ đường, nắm vững lối đi rồi, cứ theo đó mà ra th́ hết lạc lầm. Hết lạc lầm th́ hết đau khổ. Nên chỉ có trí tuệ, thấy rơ được lối đi mới hết đau khổ. Không có trí tuệ th́ chúng ta măi khổ đau.

Tăng Ni cũng như Phật tử, không nên nghĩ dùng thật nhiều công phu mới gọi là chuyên tu. Chúng ta mở sáng trí tuệ mới đúng là chuyên tu. Phật dạy chúng ta bước từng bước, ngăn ngừa không cho rơi vào tội lỗi, đó là giữ giới. Từ giữ giới, tiến lên loại trừ tham, sân, si để tâm được trong sạch, đó là bắt đầu có trí tuệ. Như thế dần dần đi tới chỗ b́nh an.

Đó là câu thứ nhất "Chớ làm các điều ác".

Đến câu thứ hai "Chúng thiện phụng hành", tức là vâng làm các điều lành. Nhiều người nghĩ rằng làm lành, làm phước th́ tốn của tốn công. Như vậy là thiệt tḥi cho ḿnh. Hiểu thế là sai lầm. Tôi dẫn câu chuyện của người xưa kể lại: Có anh chàng nghèo nọ ở trong một xóm toàn là người khá giả. Khi ấy có người hỏi:

- Trong xóm toàn là người khá giả, một ḿnh chú nghèo, chú có buồn không?

Anh trả lời:

- Tôi tuy nghèo nhưng được ở trong một xóm khá giả, chẳng những tôi không buồn mà c̣n vui nữa.

- Tại sao?

- Bởi v́ tất cả mọi người đều khá, chỉ có ḿnh tôi nghèo. Khi thiếu thốn, tôi qua nhà này nhà kia mượn tiền, ai cũng giúp đỡ được cả. Như vậy tuy nghèo mà không đến nỗi khổ, v́ có người giúp tôi.

Như vậy người nghèo thấy người giàu khá trong ḷng mừng vui, không đố kỵ th́ mọi người đều thương mến, nên họ sẵn sàng giúp đỡ những lúc khó khăn. C̣n nếu nghèo mà sanh tâm đố kỵ nói xiên nói xéo người ta, th́ dĩ nhiên họ oán ghét ḿnh. Đă thế th́ đâu ai thương và giúp đỡ nữa. Vậy mang tâm đố kỵ là khôn hay dại? Nhưng con người mang cái bản ngă trầm trọng, thấy thua người ta là đố kỵ, ganh ghét liền.

Chúng ta cứ nghĩ tài sản trong tay mới thực là của ḿnh, c̣n của người khác th́ không dính dáng ǵ tới ḿnh. Nhưng không phải như vậy. Anh chàng nghèo mà cả làng đều thương, ai cũng sẵn sàng giúp đỡ th́ anh cũng cảm thấy hạnh phúc an vui. C̣n người giàu mà tâm keo xẻn, ích kỷ, bo bo canh giữ sự sản của ḿnh, không ai thương hết th́ khi gặp khổ vẫn cứ khổ như thường.

Ta cứ mong cho mọi người được sung sướng, c̣n phần ḿnh không quan trọng. Lo cho mọi người, mới nh́n thấy như thiệt tḥi nhưng sự thật lo cho người tức là lo cho ḿnh. Tại sao? Bởi v́ trong xă hội, cuộc sống luôn liên đới nhau giữa ḿnh và mọi người, không thể tách rời được. Nếu mọi người được vui, được no ấm th́ ḿnh mới yên vui. C̣n mọi người khổ, chỉ một ḿnh ḿnh sung sướng th́ sao? Họ đâu có để yêân cho ḿnh, hết ŕnh ngơ trước lại ḍm ngơ sau. Chừng đó ḿnh vui hay lo sợ? Cho nên chỉ khi nào tất cả mọi người đều được ấm no hạnh phúc th́ ḿnh mới an vui.

Trong kinh nói Bồ-tát thấy chúng sanh khổ như ḿnh khổ, thấy chúng sanh vui như ḿnh vui. Cái vui khổ của mọi người là cái vui khổ của chính ḿnh, không tách rời nhau. V́ sao? V́ sự liên đới giữa ḿnh với mọi người là mối tương duyên tương sinh không thể tách rời được. Thế nhưng ở thế gian nhiều người ích kỷ, muốn tách riêng một ḿnh, không dính dáng với ai. Đó là quan niệm rất sai lầm, không hiểu biết ǵ về lư duyên sinh cả.

Phật dạy chúng ta làm cho tất cả người đều được an vui, tức là làm lành. Người đói cho họ cơm; người rách cho họ áo; người bệnh tật cho họ thuốc men v. v… Khi giúp đỡ người chính là lo cho ḿnh. Bởi v́ lo cho ḿnh là ḿnh gieo nhân tốt với mọi người nên mọi người quư mến. Gieo nhân tốt th́ mai kia mất thân này ḿnh được hưởng quả tốt. Như vậy có thiệt tḥi ǵ đâu. C̣n nếu ích kỷ, chỉ lo cho ḿnh, không biết tới người, đó mới là thiệt tḥi. V́ người ta không thương th́ ḿnh gặp khó khăn người ta không giúp đỡ. Chừng đó ḿnh sẽ khổ. Ḿnh có của, mọi người cùng có của; ḿnh khỏe vui, mọi người cùng khỏe vui. Đó là chúng ta biết làm lành. Biết làm lành tức là biết thương người. Thương người tức là thương ḿnh. Cho nên chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều thiện.

Nhiều vị hay than thở: "Người có tiền của th́ kêu gọi ḷng từ thiện được, c̣n tôi nghèo cháy da làm sao làm từ thiện? " Đó là v́ họ không hiểu. Trong nhà Phật dạy bố thí có ba: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí cũng chia làm hai: nội tài và ngoại tài.

Nếu ḿnh có tiền của, ai đói thiếu ḿnh giúp, đó là bố thí ngoại tài. Nếu ḿnh không có tiền của, thấy người hàng xóm bệnh, đi đứng không vững, ḿnh đến đỡ đần, dẫn họ đi, đó là bố thí nội tài. Có t́nh thương, có ḷng tốt th́ trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng làm việc thiện được. Thiếu t́nh thương th́ không làm việc lành, việc tốt được. Câu này Phật dạy chúng ta phải tận dụng khả năng của ḿnh làm tất cả những điều lành.

Nói cụ thể hơn, làm các điều lành là chẳng những không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; mà c̣n cứu người cứu vật, bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu, dạy người biết sống trinh bạch, nói lời chơn thật, ḥa nhă khuyên răn nhắc nhở mọi người, khuyên con cháu xóm làng tránh uống ruợu, hút x́ ke ma túy… Đó là làm lành.

Trên đường tu mỗi ngày chúng ta mỗi ḅn mót công đức. Ḅn mót công đức là sao? Không phải tới chùa cúng dường mới có công đức. Giúp một người hàng xóm qua cơn hoạn nạn, là đă có công đức. Giúp một con vật bị hành hạ khổ sở, là đă có công đức. Công đức ở tất cả chỗ, tất cả mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới phát tâm làm lành một cách dễ dàng được.

Kế đến là bố thí pháp. Sao là bố thí pháp? Thí dụ như có người cờ bạc rượu chè làm cho gia đ́nh nghèo túng, trước tiên chúng ta giúp tài vật cho họ qua cơn nghèo túng. Sau đó giải thích cho họ biết những tai hại của uống rượu và cờ bạc. Dạy thật rành rơ cho họ hiểu và bỏ, như vậy gọi là pháp thí.

Trong lúc đói khát người ta không thể nghe đạo lư được. Muốn họ nghe th́ phải làm cho họ đỡ đói. Cho nên tài thí đi đầu rồi tới pháp thí theo sau. Có như vậy việc lành của chúng ta mới trọn. Nếu mỗi người trong xóm, thấy ai gặp khó khăn, khổ năo sẵn sàng giúp đỡ, th́ xóm làng đó tốt không? Nơi đó sẽ trở thành một nơi an vui, tự tại. Tất cả đều sống trong t́nh thương bảo bọc cho nhau th́ tốt đẹp biết bao nhiêu. V́ vậy Phật dạy chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều thiện.

Câu thứ ba "tự tịnh kỳ ư" nghĩa là giữ ǵn tâm ư cho thanh tịnh. Câu này là câu then chốt. Quư vị mỗi người tự nh́n lại xem tâm ư ḿnh có thanh tịnh chưa? Hay là như những con trốt bay quanh đám rơm, cuốn bụi tứ tung. Tâm chúng ta xáo động lăng xăng, không yên ổn nên gọi là ngầu đục. V́ tâm ngầu đục nên chúng ta không sáng suốt. Không sáng suốt th́ làm sao tạo được điều tốt, điều lành. V́ vậy tất cả điều tốt lành đều do ư trong sạch phát ra. Ư nghĩ tốt, miệng nói tốt, thân làm tốt. Như vậy ư là gốc, là nền tảng của sự tu. Cho nên Phật nhắm thẳng vào gốc đó là phải ǵn giữ tâm ư cho thanh tịnh.

Muốn tâm ư thanh tịnh phải làm sao? Như người tu Tịnh độ, muốn cho tâm ư thanh tịnh phải dùng câu niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi luôn luôn niệm Phật. Niệm Phật không quên, để ư không chạy nhảy lung tung. Niệm Phật lâu ngày đă thuần thục rồi th́ tâm không c̣n lăng xăng nữa. Tâm không c̣n lăng xăng nữa là ư được thanh tịnh. Cho nên muốn tâm ư thanh tịnh th́ phải chuyên cần dùng một phương tiện nào đó để trừ dẹp những lăng xăng, lộn xộn trong tâm. Phương tiện đó gọi là pháp tu, hoặc pháp tu Tịnh độ, hoặc pháp tu Thiền.

Người tu Thiền làm sao để tâm ư thanh tịnh? Có nhiều cách, tùy theo tŕnh độ sai biệt. Nếu tu Thiền Nguyên thủy th́ dùng pháp quán Tứ Niệm Xứ. Nếu tu Thiền Đại thừa th́ quán Giả, quán Không, quán Trung đạo v. v… Nhưng có một pháp tu tôi cho rằng đó là phương thuốc trị bá bệnh. Khi dấy niệm, chúng ta biết niệm đó là vọng tưởng hư dối, liền bỏ. Niệm khác dấy lên biết là hư dối vọng tưởng, bỏ. Phương pháp này như chuyện chăn trâu vậy. Con trâu vừa nghẽo đầu qua bên tây, mục đồng sợ ăn lúa mạ của người liền giựt lại. Nó nghẽo qua bên đông cũng giựt lại. Giữ cho con trâu đừng có ngă qua, ngă lại làm hư lúa của người. Cũng vậy, tâm vừa dấy niệm chạy theo cái này, chạy theo cái nọ, ḿnh đều bỏ. Đó là vọng tưởng, không theo! Bỏ măi cho đến khi nào vọng tưởng yên lặng, gọi là thanh tịnh. Đó là tu Thiền.

Tất cả mầm gốc của bất tịnh đều do tâm chạy theo cảnh, duyên dính với cảnh. Chúng ta buông, không chạy theo cảnh nữa th́ tâm lặng. Tâm lặng tức là thanh tịnh. Phật dạy tu đến chỗ cuối cùng là phải trở về với tâm thanh tịnh ban đầu, không c̣n những ư niệm lăng xăng nữa. Bởi ư niệm lăng xăng đó không phải là tâm thật của ḿnh, nó chỉ là bóng dáng của sáu trần mà thôi.

Tôi ví dụ như mặt biển thênh thang, khi nổi sóng th́ mỗi lượn sóng khác nhau. Có lượn cao, có lượn thấp nhưng mặt biển vẫn không hai. Tâm chúng ta cũng vậy, những thứ lăng xăng đó chỉ là những lượn sóng, do tâm duyên theo bóng dáng sáu trần. C̣n tâm thể chơn thật lúc nào cũng tṛn đầy, thanh tịnh. Cho nên tu, dừng được tâm lăng xăng đó th́ thể thanh tịnh hiện tiền. Cũng như sóng nổi ầm ầm nhưng khi lặng rồi th́ mặt biển thênh thang bằng phẳng.

Chúng ta nói những lượn sóng là mặt biển được không? Không, v́ nó có giới hạn. Mặt biển th́ phải thênh thang, nên sóng không là mặt biển. Tuy nhiên sóng không rời mặt biển mà có được. Nên biết sóng không phải là mặt biển, nhưng cũng không rời mặt biển. Tâm chúng ta cũng vậy, những nghĩ suy lăng xăng không rời tâm chân thật, nhưng tâm chân thật th́ lặng yên, không giới hạn, c̣n suy nghĩ th́ có chừng mực, có giới hạn. Cái suy nghĩ không phải là tâm thật thênh thang, nhưng cũng không rời tâm thênh thang đó. Hiểu như vậy mới thấy được cội nguồn của tâm thể chân thật.

Phật dạy tu là cứu kính thoát ly sanh tử. C̣n suy nghĩ th́ c̣n rơi theo hai đường: hoặc thiện hoặc ác tức là nghiệp lành, nghiệp dữ. Nghiệp lành, nghiệp dữ sẽ dẫn chúng ta sanh cơi lành, cơi dữ. Đó là đi trong sanh tử. Nếu cả hai lành dữ, thiện ác đều lặng hết, chỉ c̣n một tâm thanh tịnh th́ chúng ta đi theo nghiệp nào? Đó là giải thoát sanh tử.

Như vậy th́ muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải lặng hết tất cả tâm lành dữ. Tâm lành dữ là tâm tương đối, sinh diệt, không thật. Nó lặng xuống rồi th́ tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thật là tâm không sinh diệt. Sống được với tâm này mới gọi là giải thoát sanh tử. Cho nên Phật dạy phải lặng tâm ư cho trong sạch là v́ thế. Cho nên tu theo Tịnh độ th́ phải nhất tâm niệm Phật. Nhất tâm th́ không c̣n hai, không c̣n phải quấy. Như vậy là tâm lặng. C̣n nhà Thiền dạy dứt hết niệm tưởng lăng xăng, th́ chơn tâm hiển lộ. Chơn tâm hiển lộ đó là nhân giải thoát sanh tử.

Câu cuối "Thị chư Phật giáo", đây là lời dạy của tất cả chư Phật chứ không riêng ǵ đức Phật Thích Ca thôi. Chỉ một bài kệ này chúng ta khéo ứng dụng, tu đúng như vậy th́ sẽ được giải thoát sanh tử. Nếu chưa giải thoát sanh tử, th́ ít ra cũng tránh được các đường dữ, sanh trong các cơi lành. Cho nên bài kệ này thường được in trong lá phái quy y của Phật tử. Bài kệ nhắc cho quư Phật tử thấy đó là chân lư, là lẽ thật mà mười phương chư Phật đều đồng thừa nhận như vậy, chứ không riêng ǵ đức Phật Thích Ca.

Người tu Phật hiểu rơ và ứng dụng tu theo bài kệ đó, th́ từ một con người lỗi lầm sẽ trở thành con người lương thiện. Rồi từ con người lương thiện tiến lên con người thanh tịnh, giải thoát sanh tử. Như vậy trên đường tu, thăng tiến dần từ thấp tới cao, cho đến giải thoát hẳn mọi khổ đau.

Tóm lại, chúng ta tu giai đoạn đầu là bỏ ác, làm thiện. Cuối cùng thiện ác đều dẹp luôn, chỉ c̣n một tâm thanh tịnh. Đó là chỗ cứu kính. Nếu quư vị nghe nhớ ứng dụng tu th́ sẽ thấy giá trị của việc tu hành ngày càng thâm sâu, ngày càng an lạc. Mong rằng tất cả hăy nỗ lực tinh tấn tu hành, đến khi nào đạt được kết quả viên măn mới thôi.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]