[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập II)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


PHẢN QUAN TỰ KỶ BỔN PHẬN SỰ

BẤT TÙNG THA ĐẮC

Giảng tại Trường hạ Phổ Đà TP. HCM
ngày 23.7.2000 - Canh Th́n

 

Hôm nay tôi sẽ giảng về đề tài Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc. Đây là một đề tài chuyên về tu thiền, nhất là Thiền tông Việt Nam.

Đời nhà Trần, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ được ngộ đạo. Cho nên vua Trần Thánh Tông gởi Thái tử Trần Khâm cho Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy đạo lư. Khi học hỏi gần xong sắp trở về triều, trước lúc từ giă Thái tử hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: "Bạch Thượng Sĩ, pháp yếu của Thiền tông là ǵ? ". Thượng Sĩ trả lời: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc".

"Phản quan" là soi sáng hay xem xét, "tự kỷ" là chính ḿnh. "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" có nghĩa xem xét lại chính ḿnh là việc bổn phận, không phải từ nơi khác mà được. Đó là câuchâm ngôn trong nhà Thiền. Chúng ta nghiên cứu Phật pháp sẽ thấy câu này hệ trọng như thế nào.

Trong pháp tu Tứ niệm xứ gồm có quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă. Cả bốn thứ quán này đều quay lại ḿnh, chớ không đi hướng nào khác. Quán thân bất tịnh là quay lại ḿnh để xem xét thân này nhớp nhúa không sạch. Quán thọ thị khổ là quay lại ḿnh xem xét những cảm giác thọ nhận đối với sáu trần bên ngoài đều là đau khổ. Quán tâm vô thường là quay lại ḿnh để xem xét tâm niệm luôn luôn sinh diệt không dừng. Quán pháp vô ngă là quay lại ḿnh xem xét những tâm sở pháp không có chủ thể cố định.

Đến pháp quán hơi thở là Anapanna cũng nh́n lại hơi thở của ḿnh từ thô đến tế. Nên pháp quán này c̣n được gọi là "Lục diệu pháp môn". Đó là sáu môn quán chiếu xoay lại ḿnh: sổ tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn, tịnh.

Sổ tức, tức là đếm hơi thở. Hít vô cùng, thở ra sạch đếm một, như vậy đếm tới mười th́ bỏ, bắt đầu đếm lại từ một. Sổ tức đă thuần thục bước sang Tùy tức, nghĩa là theo dơi hơi thở. Quan sát hơi thở vô, hơi thở ra một cách rơ ràng gọi là Tùy tức. Chỉ là dừng tâm để nh́n hơi thở. Quán là xem xét hơi thở vô ra, nên hơi thở là mạng sống vô thường không bền lâu. Hoàn là xoay trở lại t́m xem cái quán hơi thở vô thường đó là ǵ. Cuối cùng dừng hết tâm, không chạy ra ngoài nữa gọi là Tịnh.

Như vậy pháp tu Tứ niệm xứ hay Lục diệu pháp môn v. v… đều là phản quan, chớ không có ǵ khác. Người tu Phật muốn đi tới chỗ an định, trí tuệ sáng suốt th́ phải quay lại quán chiếu nơi ḿnh. Thấy rơ được ḿnh như vậy gọi là phản quan. Phản quan ở đâu? Phản quan nơi chính ḿnh.

Đêm nào chúng ta cũng tụng kinh Bát-nhă hết. Vậy tụng kinh Bát-nhă để làm ǵ? Để bổ khuyết tâm kinh phải không? Không phải. Lâu nay có một ít người lầm, cho rằng kinh Bát-nhă là bổ khuyết tâm kinh. Sao gọi là bổ khuyết? Bởi khi tụng kinh, người đánh mơ nhanh quá nên có khi tụng sót, v́ vậy phần sau phải bổ khuyết lại bằng bài kinh Bát-nhă. Hiểu như vậy là một lầm lẫn lớn lao.

Bát-nhă là trí tuệ. Trí tuệ đó là trí tuệ chiếu soi thấu suốt được bản thân con người và tất cả ngoại cảnh bên ngoài, cho nên gọi đó là trí tuệ Bát-nhă. Mở đầu kinh Bát-nhă là câu: "Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhă ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. " Nghĩa là Bồ-tát Quán Tự Tại khi hành sâu trí tuệ Bát-nhă, Ngài chiếu soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ nạn. Tinh thần Bát-nhă là phản quan lại, chiếu soi năm uẩn không thật th́ qua hết tất cả khổ nạn.

Pháp tu nào của nhà Phật cuối cùng cũng phải tụng kinh Bát-nhă. Tu Tịnh độ, tu Mật tông, tu Thiền v. v… đều như vậy. Nghĩa là tất cả pháp tu của Phật dạy, cuối cùng đều qui hướng về trí tuệ. Có trí tuệ mới giải thoát đau khổ, có trí tuệ mới thấy được chân lư. Có trí tuệ mới ngộ đạo. Đó là điểm then chốt, là căn bản trên con đường tu tập để được giác ngộ giải thoát.

Như kinh Kim Cang, Phật trả lời hai câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề: "Vân hà an trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm? " Nghĩa là làm sao an trụ, làm sao hàng phục được tâm kia? Đức Phật trả lời: Phải độ tất cả chúng sanh nào thai sanh, thấp sanh, hóa sanh cho tới những loài hữu sắc vô sắc, hữu tưởng vô tưởng v. v… đều vào vô dư Niết-bàn, đó là hàng phục tâm. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà không dính mắc không trụ trước, đó là an trụ tâm.

Phật dạy chúng ta hàng phục tâm là đưa những niệm nghĩ tưởng về hữu sắc, vô sắc v. v… vào vô dư Niết-bàn, tức vào chỗ không sanh không diệt, đó là hàng phục tâm. Nếu muốn an trụ tâm th́ đối với sáu trần không cho dính mắc. Không trụ nơi sắc sanh tâm, không trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, đó là an trụ tâm. Như vậy trọng tâm kinh Kim Cang dạy hàng phục tâm, là bất cứ niệm tưởng nào cũng đều đưa nó vào chỗ vô sanh. Đối với sáu trần không dính, không kẹt, đó là an trụ tâm.

Chúng ta học kinh, hiểu rơ ư nghĩa kinh th́ sự tu hành mới dễ. Trọng tâm tu là phải hàng phục vọng tưởng bên trong, đừng dính mắc sáu trần bên ngoài. Muốn hàng phục tâm vọng tưởng bên trong, phải phản quan nh́n lại chính ḿnh. Muốn không dính mắc sáu trần th́ phải khéo quán sát. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần liền thấy, liền biết không cho dính kẹt. Đó là gốc của đạo Phật.

Chúng ta tu muốn đi tới giác ngộ, tâm hoàn toàn an định th́ không có cách nào khác hơn là phải ứng dụng như vậy. Cho nên tất cả người tu đều phải giữ ǵn đừng để sáu căn dính với sáu trần. Được thế là tự do tự tại. Tự do tự tại chính là giải thoát vậy. Trong kinh A Hàm, có câu chuyện:

Một hôm đức Phật vào rừng ngồi thiền. Sau khi xả thiền, Ngài nh́n chung quanh thấy có con rùa lớn ḅ qua. Một con rái cá thấy được định chụp ăn, nhưng mai con rùa cứng và trơn quá, nó chụp không được. Nó chờ con rùa ló đầu ra liền chụp. Con rùa lại rút đầu vào, rái cá chờ chụp chân nhưng rùa cũng rút chân luôn. C̣n cái đuôi, rái cá vừa định chụp th́ rùa vội rút đuôi vô mai. Sáu bộ phận rùa đều rút kín vô mai hết, con rái cá đi tới đi lui cạp không được, cuối cùng nó bỏ đi.

Phật nói người tu phải khéo giữ sáu căn như con rùa khéo giữ các bộ phận của nó vậy. Nếu các bộ phận rút vô mai hết th́ rái cá không ăn được. Cũng vậy, chúng ta nếu khéo phản quan sáu căn của ḿnh quay lại, không cho dính với sáu trần, đó là kế sách an toàn nhất. Người không dính với sáu trần th́ người đó sẽ được giải thoát sanh tử.

Cho nên Lục Tổ Huệ Năng khi nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến câu "bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", Ngài liền đại ngộ và thốt lên "đâu ngờ tánh ḿnh xưa nay thanh tịnh, đâu ngờ tánh ḿnh vốn không sanh diệt v. v…". Ngay đó Ngũ Tổ biết Ngài đă ngộ đạo.

Vậy Ngài ngộ đạo qua pháp ǵ? Qua lời dạy an tâm. Tâm không dính sáu trần th́ được tự tại. Bởi v́ khi tâm không dính với sáu trần th́ không khởi niệm nghĩ điều ǵ cả. Tất cả các nghĩ tưởng của chúng ta đều duyên theo sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà có. Thí dụ ngồi niệm Phật hoặc ngồi thiền, không tiếp xúc với sắc thanh hương vị xúc nhưng c̣n thấy pháp trần. Những bóng dáng cũ hôm qua hôm kia c̣n lưu lại trong tâm, bây giờ nó sống dậy. Thấy các bóng dáng đó th́ phải bỏ đi, không chạy theo nó, đó là chúng ta tu. Đi ra nh́n thấy sắc thanh hương vị xúc, ḿnh không dính. Ngồi lại pháp trần dấy hiện lăng xăng, ḿnh buông đi, không dính. Tu như vậy là gỡ các thứ dính mắc, không cho sáu căn kẹt nơi sáu trần. Do đó mà tâm được định. Tu là cốt để được định, từ định phát sinh trí tuệ.

Đến đây tôi sẽ nói về các Thiền sư. Thiền sư đầu tiên ở Trung Quốc là Tổ Huệ Khả. Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang, Ngài đến chùa Thiếu Lâm chín năm ngồi xây mặt vào vách. Bấy giờ Tổ Huệ Khả tên là Thần Quang, nghe danh của Ngài. Khi đến thấy Tổ ngồi xây mặt vào vách, ngài Thần Quang không biết làm sao thưa hỏi. Lúc đó núi Thiếu Thất ở miền bắc Trung Quốc, nhằm mùa đông giá rét, vậy mà Ngài đứng suốt đêm ngoài sân, tuyết ngập tới đầu gối.

Sáng, Tổ xoay lại thấy liền hỏi: "Ông cầu việc ǵ mà khổ hạnh như vậy? ". Ngài Thần Quang thưa: "Con muốn cầu pháp thoát ly sanh tử, xin Ngài dạy cho". Tổ quở: "Ngày xưa chư Bồ-tát muốn cầu pháp thoát ly sanh tử, các Ngài hy sinh cả thân mạng, ông chỉ dùng chút ít khổ hạnh thôi mà cầu pháp thoát sanh tử được sao? ". Nghe vậy Ngài ra sau nhà bếp mượn dao chặt một cánh tay dâng lên để tỏ ḷng thiết tha cầu pháp. Tổ gật đầu khen khá, liền đặt tên là Huệ Khả.

Đây là chỗ tất cả chúng ta lưu ư. Người tu th́ phải xả thân cầu đạo, c̣n chúng ta tu lại quí thân. Như vậy có trái với đạo lư không? Thế nên người tu dù tại gia hay xuất gia phải có gan, dám chịu cảnh túng quẩn nghèo thiếu, dám quên thân mạng th́ nhất định sẽ đạt đạo. C̣n nếu không dám như thế th́ khó đạt đạo. V́ vậy sự việc Tổ Huệ Khả chặt tay cúng dường là một h́nh ảnh tượng trưng cho ḷng quyết tâm cầu đạo.

Khi đă được Tổ nhận, một hôm ngài Huệ Khả thưa: "Bạch Ḥa Thượng, tâm con không an xin Ḥa Thượng dạy con pháp an tâm". Lúc đó Tổ Bồ Đề Đạt Ma nh́n thẳng vào mặt ngài Huệ Khả bảo: "Đem tâm ra ta an cho". Ngài Huệ Khả sửng sốt không biết tâm ở đâu mà đem. Ngài xoay lại t́m tâm nhưng không thấy bóng h́nh nó ở đâu, Ngài thưa: "Bạch Hoà Thượng con t́m tâm không được". Tổ bảo: "Ta đă an tâm cho ngươi rồi". Ngay đó ngài Huệ Khả liền biết lối vào.

Chỗ này tôi đă kể nhiều lần, nhưng mỗi lần kể là mỗi lần mới, v́ vậy ít nhứt cũng năm ba người biết được lối vào. Tâm không an là tâm nào? Đó là tâm vọng tưởng, nó nghĩ cái này nghĩ cái kia lăng xăng nên gọi là tâm không an. Tổ bảo: "Đem tâm ra ta an cho", th́ làm sao mà đem? Quí vị có ai đem được không? Không được. Tại sao? V́ nó không thật, t́m lại là nó mất tăm mất dạng. Vậy tâm lăng xăng đó thật hay giả? Giả nên gọi là vọng tưởng, vọng tưởng là hư dối không thật.

Lâu nay chúng ta ngỡ cái nghĩ suy là tâm ḿnh thật. Nó là vọng tưởng hư dối, mà chúng ta v́ si mê lầm lẫn cho là thật. Rồi bị nó dẫn chạy liên miên, hết chỗ này sang chỗ nọ. Ngồi tọa thiền một giờ nó dẫn ḿnh chạy không biết mấy chục lần. Cho nên khi ngài Huệ Khả xin Tổ dạy pháp an tâm, Tổ không dạy một pháp nào cả chỉ bắt quay lại t́m xem tâm ấy ở đâu. Tức là chiếu soi cái nghĩ suy đó xem nó ở đâu, nhưng khi t́m lại th́ nó mất. Cái nghĩ suy ấy mất tức là tâm an rồi. Đó là an tâm mà không dùng một pháp môn nào hết. Lối tu này gọi là đốn ngộ hay đốn giáo.

Chỉ nh́n thẳng trở lại thấy tâm không thật th́ tự nó an, không qua một pháp nào hết. Cho nên Tổ Đạt Ma khi sang Trung Hoa, Ngài tuyên bố: "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật". Đó là bốn câu châm ngôn của Thiền tông. Bất lập văn tự là không dùng văn tự. Giáo ngoại biệt truyền là truyền ngoài giáo lư. Trực chỉ nhân tâm là chỉ thẳng tâm người. Kiến tánh thành Phật là nhận ra bản tánh th́ thành Phật.

"Đem tâm ra ta an cho" là giáo ngoại biệt truyền, bởi v́ câu này không có trong kinh nào hết. Phật nói pháp này pháp nọ, chớ không bảo đem tâm ra ta an cho. Tự ḿnh dùng trí phản chiếu lại ḿnh, tự nhiên nghĩ suy lăng xăng không c̣n nữa. Nó lặng hết là an rồi.

Biết tâm hư dối là vọng tưởng, khi vọng tưởng lặng mà vẫn hằng giác hằng tri, đó chính là tánh giác của ḿnh. V́ vậy trực chỉ nhân tâm là chỉ thẳng tâm người, để nhận ra tánh giác là nhân thành Phật. Đơn giản như vậy, cụ thể như vậy. Cái nh́n đó chân thật mà không qua phương tiện nên nói thẳng tắt. Thẳng tắt tức là trực chỉ, chỉ thẳng không quanh co. Khi tánh giác của ḿnh hiển lộ, đó là nhân thành Phật.

V́ sao b́nh thường tánh giác không hiển hiện được? Là v́ vọng tưởng che phủ, hết niệm này tới niệm kia liên tục măi. Đồng thời chúng ta lại nhận vọng tưởng là ḿnh, quên hẳn tánh giác. Bây giờ vọng tưởng dấy lên, ḿnh biết nó vọng, hư dối, không theo nó, gạt qua một bên th́ lần lần nó lặng. Nó lặng th́ tánh giác hiện ra. Như có phút giây nào, chúng ta ngồi yên một chỗ, dưới gốc cây chẳng hạn. Ḿnh nh́n trời nh́n mây mà không khởi một ư nghĩ nào hết, thời gian đó quí vị có biết không? Biết, mây bay biết mây bay, chim kêu biết chim kêu, mà không suy nghĩ. Cái biết không do suy nghĩ chính là tâm ḿnh mà ḿnh quên. Chúng ta chỉ nhớ tâm lăng xăng lộn xộn thôi, trong khi cái lặng lẽ hiện tiền ḿnh lại quên.

Tâm nghĩ suy nào buồn, thương, giận, ghét, nó thường trực hay vô thường? Khi đang buồn mà gặp việc hài ḷng th́ vui lên liền. Như vậy buồn qua mất rồi. Hoặc lúc đang vui, có ai nói ǵ trái ư liền buồn giận ngay. Rơ ràng nó luôn luôn sanh diệt theo cảnh, không có thật. Chúng ta quên cái thật chạy theo cái giả nên Phật nói ḿnh mê. Mê là ǵ? Mê là quên, quên thật theo giả.

Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói thí dụ anh chàng say có ḥn ngọc quí cột trong chéo áo mà không biết. Khi được người bạn chỉ mới biết, tuy biết nhưng rồi lại quên ḥn ngọc ấy nên vẫn sống lang thang. Có của quí mà không nhớ, không nhớ nên phải chịu khổ. Chúng ta hiện giờ cũng vậy, tâm vọng tưởng hư dối buồn thương giận ghét liên miên, là hư ảo giả dối không thật, mà ḿnh lại theo nó; c̣n cái chân thật hiện tiền lại bỏ quên. Cho nên Phật dạy tu là dừng vọng tưởng. Vọng tưởng dừng rồi th́ chân tâm hiện ra, không t́m không kiếm ở đâu hết.

Chân tâm là tánh giác không có sanh diệt, c̣n những nghĩ suy là niệm khởi sanh diệt. Chúng ta đang sống với niệm sanh diệt, quên sống với tâm vô sanh của ḿnh. V́ vậy Phật, Tổ bảo chúng ta dừng lại, đừng chạy theo niệm lăng xăng sanh diệt nữa. Dừng lại để chúng ta thấy được tâm chân thật của chính ḿnh. Xoay lại t́m đó chính là phản quan. Cho nên qua lời chỉ bảo của Tổ Đạt-ma, ngài Huệ Khả "biết được lối vào". Biết được lối vào mà không cần một phương tiện nào hết.

Nhiều người nói tu thiền khó. Tu niệm Phật hoặc tu các pháp quán hơi thở v. v… dễ hơn. Tại sao tu thiền khó? Bởi v́ nó không có phương tiện. Nếu có dùng phương tiện rồi cũng phải bỏ. Lúc đầu dùng phương tiện để điều phục vọng tưởng, khi tâm yên th́ phương tiện cũng phải bỏ, c̣n phương tiện th́ chưa phải cứu kính. Như pháp niệm Phật, niệm cho tới chánh niệm. Tuy nhiên, được chánh niệm vẫn chưa là chỗ cứu kính, phải niệm tới vô niệm, chỉ c̣n một tâm thanh tịnh mới là chân thật, là cứu kính. Như vậy cũng đâu phải dễ.

Ngài Triệu Châu khi có người hỏi: "Con chó có Phật tánh không? ". Lần thứ nhất Ngài đáp "không". Hỏi: "Tại sao trong kinh nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà con chó lại không? " Ngài trả lời: "Có mà không biết tức là không". Cũng vậy, chúng ta có chân tâm nhưng không biết thành ra cũng như không. V́ chân tâm khó thấy, nó không có tướng để hiện như vọng tưởng, nên chúng ta không nhận ra được. C̣n vọng tưởng duyên theo bóng dáng của sáu trần; nhớ người th́ hiện bóng người, nhớ vật th́ hiện bóng vật, cho nên ḿnh dễ thấy.

Người khác hỏi: "Con chó có Phật tánh không? ". Ngài Triệu Châu lại đáp "có". Hỏi: "Tại sao có Phật tánh, mà lại chui vào đăy da lông lá lù xù vậy? ". Ngài nói: "V́ biết mà cố phạm". Câu này rất quan trọng. Thí dụ Phật tử nam giữ năm giới, trong đó có giới không uống rượu. Khi gặp bạn bè mời, nể t́nh uống một chút. Ḿnh biết uống là phạm giới mà vẫn uống, vậy có phải biết mà cố phạm không? C̣n quí Phật tử nữ buôn bán ngoài chợ, món đồ đó mua một trăm, nhưng khi người ta hỏi th́ nói hai trăm để nâng giá bán lên. Biết nói dối là phạm tội mà v́ quyền lợi vẫn cứ nói dối. Như vậy có phải biết mà cố phạm không? Đó là do nghiệp dẫn. Đă bị nghiệp dẫn th́ mê mờ, làm sao nhận ra tánh giác nữa.

Như vậy tất cả chúng ta tu để làm ǵ? Tu để phá tan mây mù nghiệp thức che phủ tánh giác của ḿnh. Nghiệp từ những vọng tưởng khởi niệm lành niệm dữ, tạo thành nghiệp lành nghiệp dữ. Nên vọng tưởng là nhân của nghiệp. Khi những niệm vọng tưởng yên lặng th́ nghiệp theo đó hết. Như vậy niệm không c̣n th́ nghiệp không c̣n. Tâm niệm rỗng lặng th́ tự nhiên an lành tự tại, không dính không mắc. C̣n tâm niệm lăng xăng lộn xộn th́ đưa tới chỗ dính mắc. Dính mắc là bị nghiệp lôi, không dính mắc là không bị nghiệp lôi. Người không bị nghiệp lôi là người giải thoát sanh tử. C̣n người bị nhgiệp lôi là người đi trong ṿng sanh tử. Rơ ràng như vậy.

Tổ Đạo Tín khi c̣n là một Sa di mười bốn tuổi, ngài gặp Tổ Tăng Xán liền qú bạch: "Bạch Ḥa thượng, xin Ngài dạy con phương pháp giải thoát". Tổ Tăng Xán nh́n thẳng vào mặt Ngài hỏi: "Ai trói buộc ngươi? ". Ngài hoảng hốt t́m lại không thấy ai trói buộc ḿnh nên đáp: "Dạ không ai trói buộc con". Tổ bảo: "Không ai trói buộc, cầu giải thoát làm ǵ? ". Ngay đó ngài Đạo Tín liền ngộ đạo, biết cách tu. Đơn giản làm sao!

Thường chúng ta hay nghĩ ḿnh bị trói buộc, bị mất tự do. Thế gian gọi là "thê thằng tử phược", vợ con là sợi dây trói buộc. Nhưng trong đạo th́ ai trói buộc chúng ta, quư vị t́m kỹ xem. Thế nhưng chúng ta vẫn cảm nhận ḿnh đang bị thập triền thập sử trói buộc ḿnh. Thập triền sử là ǵ? Là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến. Nó ở ngoài hay ở trong chúng ta? Nó ở trong chúng ta, không như thê thằng tử phược ở ngoài thế gian.

V́ nó cột bên trong, nên chúng ta phải dẹp hết tham sân si… mới không c̣n bị trói buộc nữa. Nếu tâm khởi tham là do đâu mà khởi tham. Như mắt thấy hoa đẹp th́ khởi tham, là do sắc trần tiếp xúc với nhăn căn sanh ra nhăn thức phân biệt. Phân biệt đẹp xấu nên mới khởi tham. Nếu con mắt là căn, hoa là trần tiếp xúc mà không có nhăn thức phân biệt, th́ có thấy đẹp xấu không? Thấy th́ thấy mà không có niệm khởi phân biệt đẹp xấu. Không khởi niệm nghĩ th́ không dính. C̣n vừa khởi nghĩ phân biệt đẹp xấu là dính mắc liền.

Nhưng người ta lại cho rằng thấy hoa mà không biết phân biệt đẹp xấu là khờ. Nhưng không ngờ người khéo phân biệt là người dính mắc hơn ai hết. V́ tâm họ nhạy quá nên khó tu. Thấy mà không dính mắc th́ tâm mới an. Cho nên Tổ bảo: "Cái ǵ trói buộc ngươi? " Nếu c̣n niệm luyến ái là c̣n trói buộc. Nhưng ngài Đạo Tín t́m lại không thấy một niệm nào hết. Không có niệm th́ có ǵ trói buộc, đó là giải thoát rồi, cầu pháp làm ǵ!

Như vậy chúng ta tu mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm đều biết quay lại ḿnh. Thấy rơ những vọng tưởng là hư dối, th́ dù nó nghĩ hay, nghĩ tốt ḿnh cũng không theo. Lúc đó, tự nhiên tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh th́ không c̣n ǵ trói buộc hết. Cho nên biết không phải cảnh bên ngoài trói buộc, mà chính từ nội tâm chúng ta dấy lên niệm trói buộc. V́ vậy kinh gọi là thập triền sử. Triền là trói buộc, sử là dẫn lôi. Rơ ràng giải thoát không phải ở ngoài, mà ở ngay trong nội tâm ḿnh.

Bài kệ "Cư trần lạc đạo" của Sơ Tổ Trúc Lâm có hai câu kết như thế này: Gia trung hữu bảo hưu tầm mích. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. Hai câu này thật là chí lư. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích là trong nhà có ḥn ngọc quí, đừng t́m kiếm ở đâu nữa. Hăy xoay lại t́m ḥn ngọc của chính ḿnh. Thường thường quí Phật tử t́m Phật ở trên núi hay ở chỗ nào linh thiêng, chớ không chịu t́m Phật của chính ḿnh. Ḿnh có ḥn ngọc quí sẵn một bên mà bỏ quên, lại đi t́m ở đâu xa tít th́ làm sao thấy được.

Phật trên núi là Phật ở ngoài, không phải Phật của ḿnh. Phật của ḿnh chính là tự tâm thanh tịnh sáng suốt ngay nơi ḿnh. Đó mới là Phật thật. V́ vậy chúng ta phải xoay lại ḿnh, nh́n lại những tâm niệm lăng xăng là vọng tưởng hư ảo, không theo không dính nó, đó là ḿnh trở về với ông Phật của ḿnh. Những thứ đó lặn hết th́ ông Phật ḿnh hiện ra, đó là ḥn ngọc sẵn trong chéo áo. Chúng ta trở lại t́m ngay nơi ḿnh th́ đúng. Ngược lại là sai.

Muốn thế, chúng ta phải tu bằng cách nào? Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền, là đối với cảnh trần mà tâm không dính mắc, đó là thiền. Không dính mắc với sáu trần, đó là cơ hội để thấy ông Phật của ḿnh. Đối với sáu trần bên ngoài, chúng ta không dính mắc chính là tu thiền. Đâu cần phải ngồi liêm diêm mới gọi là tu thiền.

Phần nhiều chúng ta phải đợi ngồi mới tu. Bởi v́ b́nh thường quen cho tâm phóng chạy ra ngoài, nên khi đi đứng sinh hoạt, chúng ta kềm không nổi. Nghe người ta nói cái ǵ hay hoặc làm cái ǵ lạ cũng chăm chú nh́n, thành ra khó tu. Nên bây giờ buộc ḷng tối, khuya phải ngồi cho tỉnh lại. Nhờ tỉnh lặng mới thấy từng niệm dấy lên, buông xả không theo nó. Tu như vậy đến khi nào thuần rồi, đi ra ngoài thấy người thấy cảnh không chạy theo nữa th́ bấy giờ trong bốn oai nghi đều là thiền. Câu đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền đă định nghĩa thiền hết sức rơ.

Chúng ta tu từ thấp lên cao, ngồi yên một chỗ trong thiền đường là để dẹp pháp trần, không dính với pháp trần. Khi thuần rồi đi ra ngoài đối với sáu trần gỡ lần, không cho dính nữa, lúc đó chúng ta tự tại. Tu hành đến chỗ tự tại mới gọi là giải thoát sanh tử; c̣n dính c̣n cột, dù cột với pháp tu vẫn th́ c̣n sanh tử.

Đức Phật dạy các pháp tu như Tứ niệm xứ, Lục diệu pháp môn v. v… cho tới Bát-nhă, đều là phản quan tự kỷ hết. Như vậy tu theo Phật là trở lại ḿnh. Phản quan tự kỷ là soi sáng lại chính ḿnh, nhận ra ông Phật nơi chính ḿnh, không phải từ bên ngoài mà được. Phật là giác, mà giác không ai đem đến được, phải từ tâm ḿnh phát ra. Chúng ta tu là xoay lại tâm ḿnh, chớ t́m ở bên ngoài th́ không bao giờ được giác ngộ. Nên nói "bất tùng tha đắc", là không từ ngoài mà được.

Ngày nay đa số người tu hướng bên ngoài cầu. Hướng về phương tây lạy Phật Di Đà cầu Phật độ, hướng về phương đông lạy Phật Dược Sư cầu Phật độ v. v… mà không nhớ ông Phật của ḿnh. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dùng từ "quên ḿnh theo vật". Trong nhà thiền có câu chuyện của Thiền sư Cảnh Thanh đời Tống ở Trung Quốc.

Một hôm, Sư ngồi trong thất có chú thị giả bên cạnh. Bên ngoài con rắn bắt con nhái, nó kêu ệch ệch, Ngài hỏi thị giả: "Tiếng ǵ đó? ". Thị giả thật thà trả lời: "Tiếng con rắn bắt con nhái kêu". Ngài nói: "Chúng sanh khổ lại có khổ chúng sanh". Như vậy cái ǵ là chúng sanh khổ, cái ǵ là khổ chúng sanh?Con rắn bắt con nhái, con nhái giăy giụa kêu la th́ con nhái là chúng sanh khổ, c̣n khổ chúng sanh là chú thị giả. Thị giả thấy sao nói vậy, có ǵ là khổ? Tôi kể thêm một câu chuyện nữa.

Một hôm Ngài ngồi trong thất, nghe tiếng mưa rơi xuống mái chùa, Ngài hỏi thị giả: "Tiếng ǵ đó? ". Thị giả trả lời: "Tiếng mưa rơi". Ngài nói: "Chúng sanh quên ḿnh theo vật". Sao vậy? Mưa rơi th́ nói mưa rơi, sao Ngài quở quên ḿnh theo vật?

Trở lại đức Phật trong kinh Lăng Nghiêm. Phật bảo La Hầu La đánh tiếng chuông kêu boong rồi hỏi A Nan: "Ông nghe không? " A Nan thưa: "Dạ nghe". Khi tiếng chuông dứt, Phật lại hỏi: "Ông nghe không? " A Nan thưa: "Dạ không nghe". Phật bảo đánh tiếng chuông nữa, hỏi: "Ông nghe không? " A Nan thưa: "Dạ nghe". Một hồi tiếng chuông lặng, Phật lại hỏi: "Ông nghe không? " A Nan thưa: "Dạ không nghe". Phật bảo: "Chúng sanh quên ḿnh theo vật".

Đó là điều hết sức cụ thể và cũng hết sức lạ lùng, chỉ có Phật mới dám chỉ điều đó. Bởi v́ chúng ta cứ nghĩ mắt ḿnh thấy là thấy h́nh tướng sự vật. Khi không có h́nh tướng sự vật th́ nói không thấy. Nghe là khi có âm thanh, không có âm thanh th́ nói không nghe. Sự thật âm thanh là tiếng động bên ngoài, nó có rồi mất. Khi có tiếng th́ tai ḿnh nghe có tiếng, khi không tiếng th́ tai ḿnh nghe không tiếng, sao lại bảo không nghe. Không nghe là điếc rồi. Nếu điếc th́ đánh tiếng chuông thứ hai đâu có nghe. Vậy tiếng chuông kêu th́ chúng ta nghe, khi tiếng chuông lặng th́ chúng ta cũng nghe, nhưng nghe tiếng chuông lặng. Có động không động chúng ta đều nghe, đâu phải là không nghe.

Cũng vậy, trước mắt có cảnh th́ chúng ta thấy có cảnh, không cảnh th́ chúng ta thấy không cảnh, chớ đâu phải không thấy. Như vậy chúng ta trả lời trong cái nhớ cảnh mà tánh thấy, nhớ tiếng mà quên tánh nghe. Bởi quên thấy nên cảnh mất rồi nói tôi không thấy, quên nghe nên tiếng lặng rồi nói tôi không nghe. Mà thật ra tánh nghe hằng hữu, tánh thấy hằng hữu nhưng chúng ta lại quên. Chỉ nhớ cái sanh diệt bên ngoài, nên bị quở là quên ḿnh theo vật. Đă quên ḿnh theo vật th́ bị vật chuyển, chuyển tức là lôi đi. Nhớ ḿnh th́ không cái ǵ chuyển được.

Thế nên sự tu hành cốt ở chỗ chúng ta phải hằng nhớ lại ḿnh. Ngoài không theo sáu trần, trong không theo vọng tưởng th́ bản tâm chân thật hiện tiền. Nó luôn sẵn đủ, chớ không thiếu vắng bao giờ. V́ vậy phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha là châm ngôn của người tu. Bất kỳ tu pháp môn nào cũng phải trở lại ḿnh. Nếu quên ḿnh mà cầu ở bên ngoài th́ không thể được.

Chúng ta dù tại gia hay xuất gia đều phải phản quan soi chiếu lại ḿnh, th́ đó là người biết tu, người không phụ ḿnh quên ḿnh. Ngược lại, nếu c̣n chạy ra ngoài, đó phụ ḿnh quên ḿnh. Quên ḿnh th́ trầm luân trong sanh tử, chịu nhiều khổ đau. Trở về với ḿnh th́ tự do tự tại, giải thoát khỏi mọi khổ đau. Đó là ư nghĩa bài giảng hôm nay.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]