[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập IV)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


PHĂNG T̀M CỘI GỐC CỦA ĐẠO PHẬT

Giảng cho khóa Giảng sư

tại TP Hồ Chí Minh - 2000

 

Đề tài tôi nói hôm nay: Thiền là cội gốc của đạo Phật. Qua đây quí vị tự nghiệm xét, để thấy rơ đường lối tu đức Phật đă dạy từ thuở ban đầu. Nhiều vị vào chùa thấy quí thầy làm ǵ, tu thế nào th́ cứ như thế làm theo, rập khuôn "xưa bày nay làm". Người trước làm thế nào th́ người sau cũng y như thế đó thôi. Chúng tôi không có quan niệm như vậy.

Khi vào đạo chúng tôi có những thắc mắc, ưu tư, phải làm sao t́m cho ra manh mối tu hành của đức Phật và ứng dụng được đường lối ấy vào sự tu th́ tôi mới hài ḷng. Muốn thế chúng ta cần phải nghiên cứu thật rơ ràng đường lối tu của Phật như thế nào và đồ đệ Ngài tu ra sao? T́m cho tận nguồn gốc đó, chúng ta mới thấy rơ manh mối để ứng dụng tu cho ḿnh.

Chúng ta ai cũng biết, đức Phật Thích-ca ngồi dưới cội bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm tọa thiền, sau đó được giác ngộ. Như vậy đức Phật do thiền định mà được giác ngộ. Sau khi giác ngộ viên măn đức Phật tuyên bố Ngài thành Phật. Rơ ràng đức Phật Thích-ca do tu Thiền định được thành Phật, không c̣n ai nghi ngờ nữa.

Đến các đồ đệ của Ngài, bấy giờ bên Tăng có một ngàn hai trăm năm mươi vị cũng đều tu Thiền mà chứng quả A-la-hán, bên Ni cũng như vậy. Sử ghi lại sau khi Phật tuyên bố ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn th́ bà Kiều-đàm-di Mẫu, tức Ma-ha Ba-xà-ba-đề lănh đạo Ni chúng, hướng dẫn năm trăm vị đến thưa với Phật rằng: "Nghe Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, chúng con không cam tâm nh́n thấy Thế Tôn nhập Niết-bàn, xin Thế Tôn cho chúng con nhập Niết-bàn trước. " Phật đồng ư. Trở về trụ xứ, năm trăm vị nhập định rồi an nhiên thị tịch.

Như vậy, do tu Thiền mà chư Tăng, chư Ni chứng A-la-hán và được sanh tử tự tại. Khi cần ra đi không có ǵ trở ngại. Kiểm lại từ đức Phật cho tới các môn đồ của Ngài đều tu Thiền mà chứng ngộ giải thoát.

Đây là điều căn bản, chắc chắn không nghi.

Nói xa hơn trên đường truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ sang Trung Hoa và từ Ấn Độ sang Việt Nam, Phật giáo được truyền bá những ǵ chúng ta cần phải hiểu, phải nắm cho vững. Ở Trung Hoa, kể từ đời vua Hán Minh Đế, các vị Sư từ Ấn Độ sang dạy tu Thiền, măi đến thế kỷ thứ VI ngài Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa truyền bá Thiền. Từ đó Thiền tông Trung Hoa ngày càng phát triển mạnh mẽ và truyền lần sang những nước khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên v. v… Vậy gốc của Phật giáo truyền vào Trung Hoa là Thiền.

Ở Việt Nam, từ các vị ban đầu như Khương Tăng Hội, cũng dạy tu Thiền. Một số sách sau này t́m thấy được do Ngài viết bài tựa dạy tu đếm hơi thở như là Anàpànasmrti (An-ban Thủ Ư) . Đường lối các ngài dạy đều là Thiền, nhưng tu Thiền theo tinh thần A-hàm. Hoặc có ngài dạy tu Thiền theo tinh thần Đại thừa, trong đó có Lục độ vạn hạnh.

Măi cho tới thế kỷ thứ VII, ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi sang, Thiền tông mới bắt đầu có mặt ở Việt Nam. Đến thế kỷ thứ IX ngài Vô Ngôn Thông truyền Thiền sang Việt Nam v. v… Tóm lại, hệ thống tu thiền đă có từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VIII, thứ IX. Và thế kỷ thứ X, XI th́ có thêm ḍng Thảo Đường truyền vào đời Lư. Đến thế kỷ thứ XII, XIII th́ có phái thiền Trúc Lâm Yên Tử dung hợp ba hệ Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường thành một phái Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông hiệu Trúc Lâm Đầu-đà khởi lập.

Qua đời Lê, Phật giáo suy vi một lúc cho tới cuối đời Lê, Phật giáo chia ra Đàng trong Đàng ngoài. Đàng ngoài th́ có Ḥa thượng Chuyết Công thuộc ḍng Lâm Tế, Đàng trong có những vị Ḥa thượng cũng thuộc hệ phái Lâm Tế hay Tào Động. Có Thiền sư Việt Nam được kế thừa các Thiền sư Trung Hoa như ngài Liễu Quán. Ngài được Thiền sư Nguyên Thiều người Trung Hoa sang truyền Thiền. Thiền sư Liễu Quán có vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

Tóm lại, hệ thống tu thiền Phật giáo Việt Nam có từ thế kỷ thứ II thứ III, măi đến thế kỷ thứ XVIII. Trải qua một thời gian dài như vậy, nhưng bây giờ các chùa Việt Nam chúng ta có mấy người biết tu thiền? Tôi muốn đặt ra vấn đề này để quí vị xem xét đường lối tu của người xưa và hiện tại khác biệt nhau như thế nào. Đó là tôi lược dẫn chứng hệ thống truyền bá thiền từ đức Phật Thích-ca cho tới măi sau này, nhất là ở Việt Nam.

Thông qua giáo lư của Phật dạy, chỉ cần xét về Tứ đế thôi, riêng phần Đạo đế chúng ta thấy có bao nhiêu pháp? Có ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Bốn phẩm đầu là Tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ là ǵ? Quán thân bất tịnh, Quán thọ thị khổ, Quán tâm vô thường, Quán pháp vô ngă. Bốn pháp quán đó là thiền hay là ǵ? Chính là Thiền quán mà các sư Nguyên thủy đă ứng dụng tu từ trước đến giờ. Rồi tới Tứ chánh cần, Tứ như ư túc, Ngũ căn, Ngũ lực v. v… Trong Ngũ căn có Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ. Căn là gốc, năm gốc để tăng trưởng sức mạnh. Tăng trưởng sức mạnh gọi là Ngũ lực: Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ lực. Trong năm thứ đó, một là tin, hai là tinh tấn, ba là chuyên niệm, bốn là định, năm là trí tuệ. Như vậy tu năm căn cũng là phương pháp tu Thiền. Kế đến Thất giác chi cũng tu thiền. Và Bát chánh đạo mà hai chi cuối cùng là Chánh niệm và Chánh định, cũng không ngoài thiền. Đó là giáo lư Nguyên thủy.

Đến giáo lư Đại thừa có pháp Lục độ là gốc của Đại thừa: Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Hai độ cuối cùng là Thiền định, Trí tuệ cũng là tu thiền chớ không có pháp nào khác hơn. Như vậy pháp tu của đức Phật cho đến các vị Thánh đệ tử, từ thời Ngài c̣n tại thế cho tới ngày nay, giáo pháp truyền sang các nước Đông Nam Á, gốc đều tu Thiền. Hiện nay các nước lân cận với chúng ta như Thái Lan, Miến Điện, Cam-pu-chia v. v… đều tu Thiền.

Riêng ở Việt Nam chúng ta, Thiền tông được truyền bá như thế nào? Đó là điều tôi muốn nói với tất cả quí vị. Ngày xưa, khi vào đạo học lớp sơ đẳng, Tăng Ni thường được học những bộ kinh Tứ Thập Nhị Chương, Di Giáo và bài Cảnh Sách của Tổ Qui Sơn, gọi chung là Phật Tổ tam kinh. Ai có học qua cũng biết trong đó dạy tu Thiền. Lúc xưa do học qua những bản kinh nên tôi có thắc mắc, tại sao Tổ dạy tu Thiền mà ngày nay chúng ta không biết tu Thiền? Đến khi lên Trung đẳng học qua kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác v. v… tôi cũng thấy dạy tu Thiền, nhưng sao thầy ḿnh không dạy tu Thiền? V́ vậy nên tôi bất an.

Tôi tự đặt câu hỏi tại sao kinh Phật dạy tu Thiền mà ḿnh không biết tu Thiền. Thậm chí có khi nói đến tu Thiền, nhiều vị răn đe coi chừng tu Thiền bị tẩu hỏa nhập ma, bị điên, khiến tôi lại càng thắc mắc hơn nữa. Nếu tu Thiền điên th́ đức Phật tu Thiền lẽ ra Ngài phải điên trước. Rồi đệ tử mấy ngàn người cũng tu Thiền nhưng sao không thấy vị nào điên hết. Tới phiên ḿnh tu Thiền lại điên. Lạ quá tôi không hiểu nổi. Thật tâm tôi không bao giờ hài ḷng với điều ǵ ḿnh chưa biết, nên sanh thắc mắc hoài.

Bởi thắc mắc nên lúc tôi c̣n ở chùa Phước Hậu, mỗi tối thấy Sư ông của tôi tức Ḥa thượng Pháp chủ, đốt cây đèn leo lét ngồi thiền trong mùng. Một hôm tôi đắp y lên đảnh lễ: "Bạch Sư ông, con thích tu Thiền, xin Sư ông dạy con pháp tu Thiền. " Sư ông tôi trả lời: "Thôi! Đời mạt pháp tu Tịnh độ đi. "

- Thưa con thấy Sư ông để đèn leo lét ngồi trong mùng, không phải Sư ông tu Thiền sao?

- Không, tôi ngồi niệm Phật.

Lúc ấy tôi thất vọng không biết t́m học Thiền ở đâu. Ḥa thượng Viện trưởng là thầy của tôi th́ bảo ráng học kinh cho hiểu, chớ Ngài không dạy tu Thiền. Khi lên Ấn Quang, Ḥa thượng Giám đốc có đóng chiếc lồng lưới để ngoài sân thượng, tối nào tôi cũng thấy Ngài vào đó ngồi. Tôi thầm nghĩ chắc Ḥa thượng tu Thiền nên đắp y lên: "Bạch Ḥa thượng, con thích tu Thiền, xin Ḥa thượng dạy con phương pháp tu Thiền. "

Ḥa thượng nói:

- Tôi đâu có tu Thiền mà dạy tu Thiền.

Tôi thưa:

- Tối nào con cũng thấy Ḥa thượng vào trong lồng lưới ngồi thiền.

Ngài nói:

- Không phải! Tôi ngồi niệm Phật.

Thế là tôi lại thất vọng thêm một lần nữa. Tuy nhiên ḷng tha thiết tu Thiền vẫn thôi thúc tôi măi. Phật tu Thiền, Tổ tu Thiền mà ḿnh không biết tu Thiền, như vậy là sao? Một hôm Thầy tôi là Ḥa thượng Viện trưởng, gọi lại nói: "Thanh Từ muốn tu Thiền, tôi cho quyển sách này về đọc rồi theo đó tu. "

Tôi nhận quyển sách do Thầy tôi viết tay khi Người c̣n học ngoài chùa Báo Quốc - Huế. Đó là quyển Lục Diệu Pháp Môn của ngài Trí Giả đại sư, tông Thiên Thai. Tôi mừng lắm đem về đọc tới, đọc lui. Thích quá tôi bắt đầu dịch ra. Khi dịch quyển sách đó, tôi thấy được đường lối tu Thiền nhưng mà chưa vững.

Đến khi hội Phật học Lưỡng Xuyên thỉnh Đại tạng kinh bên Nhật đem về để tại Lưỡng Xuyên. Sau này Hội nghỉ không hoạt động, quí Ḥa thượng gởi lên cho Ấn Quang để vào thư viện. Tôi nghĩ rằng ḿnh có Đại tạng kinh là duyên tốt, bây giờ làm sao nghiên cứu? Tôi liền xin quí Ḥa thượng cho tôi làm Tri tạng để trông coi Đại tạng kinh. Được quí ngài chấp thuận, tôi bèn tham khảo hết những sách dạy về tu Thiền. Lúc đó, tôi đọc sách Thiền như là muỗi cắn đá, đọc tới đọc lui không hiểu ǵ cả. Tôi thắc mắc tại sao các ngài dạy tu Thiền mà ḿnh không hiểu.

Song nhờ duyên phúc lành, năm 1962 tôi bị bệnh phổi, không thể giảng dạy, phải nằm bệnh viện ba tháng. Sau đó tôi về thất đem Tạng kinh theo nghiên cứu và thực tập tu Thiền theo cuốn Lục Diệu Pháp Môn dạy: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Lấy đó làm căn bản tu Thiền. Nhưng khi đọc về Thiền tông Trung Hoa, tôi vẫn không hiểu ǵ cả. Tôi buồn lắm.

Sau đó tôi vâng lời quí Ḥa thượng, trở về Phật học viện Huệ Nghiêm dạy và đồng thời mở một lớp Trung đẳng chuyên khoa tại Dược Sư, chúng tôi dạy ba năm. Trong thời gian này tôi vừa dạy vừa tu thiền Sổ tức và Tùy tức. Dạy được ba năm tôi nhớ lại: Có một lần đi giảng ở Rạch Giá với thầy Huyền Vi, Phật tử nghe pháp đông lắm. Chúng tôi giảng sách Phật Học Phổ Thông, giảng khóa thứ nhất th́ êm xuôi. Đến khóa thứ hai nói về sự tu chứng Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền v. v…. Giảng xong có một Phật tử đến qú thưa:

- Bạch Thầy, quí Thầy dạy tu sẽ chứng được Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cho tới Tu-đà-hoàn v. v… Thưa, như vậy quí Thầy đă chứng được quả ǵ rồi?

Lúc đó tôi lúng túng không biết trả lời làm sao? Dạy người ta rơ quá, Sơ thiền là Ly sanh hỉ lạc v. v… nhưng hỏi thầy chứng được quả ǵ th́ câm miệng! Khi ấy thầy Huyền Vi nhanh trí cứu bồ tôi, Thầy nói: "Đạo hữu nên biết người tu chứng như uống nước nóng lạnh tự biết, làm sao nói được. " Vị Phật tử đó mới không hỏi nữa. Nhưng kể từ đó tôi rất khắc khoải trong ḷng, ḿnh dạy người ta tu mà thật t́nh ḿnh đă tu được ǵ chưa?

Cho nên khi dạy đủ ba năm ở Huệ Nghiêm cũng như ở Dược Sư, tôi liền xin Ḥa thượng Viện trưởng và thầy Minh Châu ở Vạn Hạnh (v́ lúc đó tôi cũng có dạy ở Vạn Hạnh) được nghỉ. Thầy Minh Châu đồng ư nhưng Ḥa thượng Viện trưởng th́ không vui, tuy nhiên Ngài cũng không ngăn cản. Bấy giờ tôi dứt khoát tu Thiền, v́ nghĩ rằng đă tạm trả nợ áo cơm xong, nên có thể lên núi tu.

Sau đó tôi ra Vũng Tàu cất thất để tên là Pháp Lạc Thất, tức là thất vui với chánh pháp. Tôi đem Tạng kinh theo nghiên cứu tu tập. Trong khi tu Thiền tôi không được ai chỉ dạy. V́ không thể tin những người không học Phật mà dạy tu Thiền nên tôi chẳng t́m người ngoài, chỉ nghiền ngẫm theo kinh điển để tu. Trong thời gian đó, có thể nói nhờ túc duyên lâu đời đă gieo sẵn hạt giống lành, nên tôi cố gắng hết sức ḿnh, dù việc tu có nhọc nhằn cực khổ. Nếu tu Thiền điên, có lẽ tôi điên trước tiên, v́ không có thầy mà tự tu th́ dễ bị điên lắm.

Tôi nghĩ đời tu của ḿnh chưa chắc có phước lành được kết quả tốt. Bởi vậy năm 1968 tôi tuyên bố nhập thất, nếu thấy biết điều ǵ mới lạ tôi sẽ mở cửa thất để giảng dạy cho Tăng Ni. C̣n nếu mù tịt không biết ǵ hết th́ đóng cửa chết luôn trong đó. Nên tôi tuyên bố nhập thất vô thời hạn. Tôi nghĩ cứ tu như vậy chết cũng không hổ thẹn. Tuy nhiên chỉ trong ṿng tám tháng, từ ngày mùng tám tháng tư đến mùng tám tháng chạp, tôi mở cửa thất.

Khi về thăm lại huynh đệ, có một số vị nói tôi tuyên bố nhập thất vô thời hạn mà mới có một thời gian đă mở cửa, chắc ngán rồi! Hay là buồn chịu không nổi, nhưng tôi tự biết. Tôi tŕnh với Ḥa thượng Viện trưởng và nói chuyện với thầy Bửu Huệ. Thầy Bửu Huệ hơi tiếc, thầy nói như vậy c̣n ngắn, phải đóng cửa lâu thêm chút nữa. Nhưng v́ tôi quá nhiệt t́nh, thấy biết được điều ǵ hay, điều ǵ mới th́ phải nói cho mọi người cùng tu chớ làm thinh không được, nên tôi ra thất lập Thiền viện năm 1969.

Năm 1970 mở khóa đầu dạy Thiền cho chư Tăng, Ni. Tôi c̣n ngờ tuy ḿnh tu không bị điên nhưng không biết dạy người tu có sao chăng? V́ vậy tôi chọn các huynh đệ đă học Phật khá, tu hành tương đối nghiêm túc, nhận vào khóa đầu chỉ có mười người, tu thử trong ṿng ba năm.

Qua ba năm không thấy ai điên hết, tôi mở khóa thứ hai, chư Tăng hơn hai mươi vị, cộng với Linh Quang nữa là bốn mươi mấy. Chư Ni cũng được hai ba chục. Nhưng đến năm 75 76 hoàn cảnh kinh tế khó khăn, Thiền viện hết gạo, thầy tṛ phải chạy, thành ra khóa thứ hai dở dang.

Sau khi tu Thiền được rồi, tôi đọc lại Tạng kinh t́m Ngữ lục của các Tổ ở Trung Hoa. Đọc đến sử ba mươi ba vị Tổ, nhất là Tổ Bồ-đề-đạt-ma, với giai thoại Thần Quang đến hỏi đạo, Tổ ngồi xây mặt vào vách ở chùa Thiếu Lâm. Vào mùa đông ở miền Bắc Trung Quốc tuyết rơi dày mịt, Ngài Thần Quang đứng ngoài sân chấp tay nh́n Tổ từ đầu hôm tới khuya, tuyết rơi đến đầu gối mà Ngài vẫn thản nhiên chấp tay hướng về Tổ. Tổ Đạt-ma mới xoay lại hỏi:

- Ông đến đây cầu việc ǵ mà lại chịu khổ hạnh như vậy?

Ngài Thần Quang thưa:

- Con đến đây cầu pháp môn cam lồ, xin Ḥa thượng từ bi chỉ dạy.

Tổ quở:

- Từ trước các vị Bồ-tát muốn cầu đạo phải xả thân: chặt tay, nhịn đói… khổ hạnh trăm bề mới cầu được pháp, chỉ chút khổ hạnh này mà cầu pháp được sao?

Nghe vậy Ngài xá lui. Xuống nhà bếp Ngài mượn dao chặt cánh tay dâng lên để cầu pháp. Tổ Đạt-ma khen "Được" và nhận làm đệ tử. Một hôm ngài Thần Quang thưa: "Bạch Ḥa thượng, tâm con không an, xin Ngài dạy con pháp an tâm. " Hợp lư quá, Ngài ngồi tu mà tâm cứ chạy tứ tung không an, cho nên cầu xin pháp an tâm, lời thưa rất là thật thà. Tổ bảo: "Đem tâm ra ta an cho. " Trường hợp bảo như vậy chúng ta phải làm sao? Nhưng ngài Thần Quang không dám xem thường lời của Tổ nên xoay lại t́m xem tâm lăng xăng của ḿnh hiện ở đâu. T́m một hồi không ra, Ngài thưa: "Bạch Ḥa thượng, con t́m tâm không được. " Tổ bảo: "Ta đă an tâm cho ngươi rồi. " Ngay câu nói đó ngài Thần Quang liền lănh hội, biết được đường vào.

Hồi xưa tôi đọc tới đó như người mù, không biết ǵ hết. Sao Tổ dạy nghe như nói đùa, không có ǵ gọi là tha thiết hết, làm sao học thiền được, nên tôi hơi buồn. Nhưng sau này khi đọc tới đây tôi thấy hay quá là hay, hay đáo để. Ngài quán chiếu t́m lại tâm th́ nó ẩn mất, không c̣n bóng dáng. Khi ta nghĩ điều này, điều nọ, tức là duyên theo bóng dáng của sáu trần, lúc t́m lại th́ nó ẩn mất. Vậy lúc ẩn mất đó là an hay chưa an? Là an rồi!

Nên Thiền là ǵ? Là xoay lại nơi nội tâm của ḿnh, nếu nội tâm lặng yên là định. Đây là gốc của sự tu Thiền. Chúng ta cứ muốn t́m cái ǵ lạ, cái ǵ phi thường, sự thật không phải vậy. Xưa nay mọi người cứ cho rằng tâm là cái suy nghĩ, tính toán hơn thiệt. Đối với người tu, đó là những vọng tưởng hư dối, không phải tâm ḿnh. Nếu là tâm ḿnh, khi khởi nghĩ dữ nó là tâm ḿnh th́ lúc nghĩ lành nó là tâm ai?

Vậy nghĩ lành, nghĩ dữ chẳng qua là những niệm vọng tưởng sanh diệt, dấy lên rồi mất, mà chúng ta lầm tưởng nó thật. Từ lầm tưởng cho là thật rồi cứ theo nó. Theo nó th́ tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử không cùng. Bây giờ biết nó là giả, là hư ảo không thật th́ ngay đó chúng ta dừng, không tạo nghiệp nữa. Mỗi niệm dấy lên biết nó hư dối không theo, tức là phản quan. Người biết phản quan là biết tu Thiền. Đơn giản như vậy. Nhưng có nhiều người than, biết nó vọng tưởng mà sao cứ nổi lên hoài, cứ hết nghĩ việc này đến nghĩ việc kia, nghĩ đủ thứ. Đây là một vấn đề mà chúng ta cần phải hiểu cho thật kỹ.

Trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn đức Phật trả lời ngài A-nan về phần lầm nhận vọng tưởng là tâm ḿnh, cho "cái hay suy nghĩ là tâm của con", Phật quở: "Đó không phải là tâm của ngươi. " Khi bị quở Ngài giật ḿnh nói: "Nếu không phải tâm con vậy th́ con không có tâm sao? " Do đó Phật mới dùng ví dụ: Như có anh chàng tên Diễn-nhă-đạt-đa, mỗi sáng đến trước gương soi chải đầu. Khi đứng trước gương anh thấy đầu mặt rơ ràng trong gương. Sau đó úp gương xuống, anh không thấy đầu mặt nữa nên anh ôm đầu chạy la: "Tôi mất đầu rồi! Tôi mất đầu rồi! " Người ta nói anh đă điên. Quí vị nghĩ phải không? Tại v́ anh nh́n đầu mặt trong gương cho là thật, mà đầu mặt trong gương chỉ là bóng. Mất bóng rồi ôm cái thật, chạy kêu mất đầu. Không phải điên là ǵ?

Cũng như vậy, chúng ta hiện giờ nhận tâm suy nghĩ tính toán, bóng dáng hư vọng cho là tâm ḿnh thật. Đă lầm tưởng cái giả cho là thật rồi th́ có c̣n thấy cái thật không? Diễn-nhă-đạt-đa lầm nhận bóng cho là đầu mặt thật của ḿnh thành điên. C̣n chúng ta nhận lầm vọng tưởng cho là ḿnh th́ chúng ta có điên không? Nên Phật gọi là si mê, không biết được ǵ là thật, ǵ là giả!

Khi nào chúng ta nhận ra những khởi nghĩ lăng xăng là vọng tưởng, th́ lúc đó hết mê, là trí, là ḿnh đă sáng rồi, nên không c̣n lầm nữa. V́ vậy Lục Tổ dạy: "Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. " Niệm khởi th́ mặc nó, chỉ sợ nó khởi mà chúng ta không biết nó hư dối. Nếu nó khởi lên chúng ta biết là hư dối là đă giác rồi. Niệm khởi là mê, mê là chúng sanh. Biết nó là vọng là dối, đó là giác. Giác tức là Phật. Một chúng sanh dấy lên, có một vị Phật hiện ra, như vậy có thua thiệt ǵ đâu. Niệm khởi cứ cho khởi, miễn chúng ta giác là được. Lối tu này rất cụ thể, rất thiết thực. Nếu chúng ta tu hiểu và ứng dụng như vậy th́ trên đường tu sẽ rất lợi ích.

Lâu nay chúng ta mê lầm nhận giả làm thật, cho nên tất cả chúng ta phải chịu sống trong mê lầm. Ví dụ chúng ta giận ai, vừa khởi nghĩ giận th́ nói tôi đang giận. Nói tôi đang giận tức là thừa nhận cái giận là tôi. Rồi đang buồn, đang tủi, đang lo, đang tức v. v… cũng tôi. Nếu giận là tôi th́ khi hết giận lẽ ra tôi cũng tan. V́ nó là tôi, mà nó mất th́ tôi cũng mất luôn. Nhưng chúng ta có mất không? Không mất. Rơ ràng, nếu nhận cái vọng làm tôi th́ chẳng khác nào chàng Diễn-nhă-đạt-đa nhận bóng làm thật. Như vậy giận không phải thật tôi, giận một chút rồi hết, chớ đâu phải năm này tháng kia c̣n hoài. Lúc không giận nữa tôi vẫn có, th́ làm sao nói giận là tôi được. Cũng như thế, buồn, thương, yêu, ghét không phải là tôi, chỉ là một hiện tượng của Tâm sở thôi. Do chúng ta nhận nó là ḿnh nên không thấy được mặt thật của ḿnh. Người tu Thiền phải nhận cho ra cái chân thật, không chạy theo các tướng tạm giả bên ngoài, gọi là nhận ra Ông chủ.

Hiểu được điều đó, khi nổi giận lên chúng ta tự hỏi cái ǵ giận, ai giận? Hỏi cái ǵ giận, là Sân tâm sở chớ không phải tôi. Khi hết giận th́ nó lặng xuống. Biết như vậy trên đường tu chúng ta mới nhận được cái thật, cái hư. Chúng ta có cái chân thật mà lâu nay ḿnh quên, cứ nhận cái hư giả là ḿnh nên cái thật nó ẩn khuất.

Cho nên chúng tôi rất tâm đắc câu trả lời của ngài Triệu Châu. Có người đến hỏi Ngài:

- Bạch Ḥa thượng, con chó có Phật tánh không?

Ngài trả lời:

- Không.

Vị Tăng ấy hỏi:

- Tại sao Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, riêng con chó không có Phật tánh?

Ngài trả lời:

- V́ nghiệp thức che đậy.

Một người khác đến hỏi:

- Bạch Ḥa thượng, con chó có Phật tánh không?

Ngài trả lời:

- Có.

Hỏi:

- Phật tánh là sáng suốt, tại sao lại chui trong đăy da lông lá lù xù vậy?

Ngài trả lời:

- V́ biết mà cố phạm.

Những câu này rất là thâm trầm, nhưng mới nghe thật khó hiểu.

Hỏi con chó có Phật tánh không, Ngài nói không. Tại sao không? V́ nghiệp thức che đậy. Nghiệp thức là ǵ? Chữ thức là phân biệt, chính cái hiểu biết phân biệt che khuất nên không thấy Phật tánh.

Tôi ví dụ như đêm rằm trăng sáng, nhưng khoảng mười một, mười hai giờ có người nh́n lên trời không thấy trăng, liền nói sao đêm rằm không thấy trăng? Chúng ta trả lời thế nào, v́ mây che khuất, chớ không phải đêm rằm không có trăng. Mây dày bịt đó là dụ cho nghiệp thức của chúng ta quen hơn thua, đẹp xấu, phải quấy, được mất v. v… lăng xăng hoài nên tâm thể bị ẩn khuất.

Chúng ta ngồi thiền để lặng tâm lăng xăng đó. Khi nào nó lặng xuống th́ Tâm thể hiện tiền, như mây tan hết th́ mặt trăng hiện đủ. Ư này hết sức rơ. Lâu nay chúng ta quen nhận nghiệp thức là tâm ḿnh cho nên Chân tâm ch́m ẩn. Khi nào chúng ta biết nghiệp thức không phải là ḿnh, chỉ là bóng dáng tạm bợ, cũng như mây không phải là mặt trăng, chúng ta làm cho nghiệp thức lặng sạch th́ Chân tâm hiện tiền. Đó là gốc của sự tu.

Khi tâm chân thật hiện tiền là chúng ta giác, c̣n nhận nghiệp thức làm tâm là mê. Sống trong mê nhưng ai nói mê th́ nổi giận liền, không chịu ḿnh mê. Tưởng rằng nghĩ nhiều, tính nhiều là khôn, không ngờ đó là đă quên cái thật của chính ḿnh. V́ vậy chúng ta tu là để trở về cái thật của chính ḿnh. Muốn trở về cái thật th́ phải dẹp hết các thứ hư dối.

Cho nên khi Tổ Huệ Khả cầu pháp an tâm, Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: "Đem tâm ra ta an cho. " Ngài xoay lại t́m th́ lăng xăng mất nên Ngài thưa "con t́m tâm không được". Tổ bảo: "Ta đă an tâm cho ngươi rồi. " Như vậy an mới thật là tâm. Không c̣n lăng xăng mà vẫn nghe, vẫn biết rơ ràng, đó là tâm chân thật.

Do lầm nên chúng ta tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo không cùng. Muốn giải thoát sanh tử th́ phải dừng nghiệp. Nghiệp quan trọng từ ư lăng xăng tạo nên, bây giờ phải để cho nó lặng xuống. Trong ba nghiệp thân, khẩu, ư th́ thân và khẩu do ư chỉ huy. Ư nghĩ tốt, thân làm tốt, miệng nói tốt. Ư nghĩ xấu, thân làm xấu, miệng nói xấu. Như vậy gốc tất cả từ ư mà ra. Ư lặng th́ ba nghiệp đồng thanh tịnh. Cho nên tu phải biết nắm ngay từ gốc. Gốc đó, Phật dạy chúng ta phải khéo nh́n đừng để lầm lẫn, phải thấy cho tường tận, để rồi cố gắng dẹp cái giả cho cái thật hiện bày.

Câu trả lời của ngài Triệu Châu rất hay, rất rơ ràng. Đến câu sau vị Tăng hỏi con chó có Phật tánh không, Ngài nói có. Hỏi Phật tánh th́ sáng suốt tại sao lại chui vào đăy da lông lá lù xù, Ngài trả lời: "Biết mà cố phạm! " Bởi v́ chúng ta không làm chủ được nghiệp, nên bị nghiệp lôi dẫn. Như Tăng Ni, Phật tử th́ ai cũng biết nóng giận là xấu. Nhưng có ai chọc tức liền nổi giận đùng đùng. Biết xấu mà vẫn làm, đó gọi là biết mà cố phạm. Chúng ta biết điều đó dở, xấu nhưng bị nghiệp chi phối nên gặp cảnh liền khởi tội ác, rồi bị tội ác dẫn đi. Người tu biết điều đó phạm mà vẫn bị nghiệp kéo lôi là v́ đạo lực yếu, nghiệp lực mạnh. Chết không làm chủ được th́ khi tái sanh làm sao được chỗ như ư?

Câu trả lời thứ hai nhắc nhở người cư sĩ hay xuất gia, nếu không làm chủ được nghiệp lực của ḿnh th́ chừng mất phải đọa vào những đường khổ, v́ bị nghiệp dẫn. Người xuất gia nếu không cố gắng tu tập vẫn bị nghiệp lôi như thường. Đó là điều thiết yếu chúng ta phải hiểu.

Chúng ta tu phải làm chủ được ḿnh, tức là làm chủ nghiệp. Có nhiều vị tu sĩ, tu một thời gian rồi hoàn tục. Gặp bạn bè hỏi sao thầy không tu nữa, vị ấy nói tại nghiệp. Nói tại nghiệp là nói gọn, chớ nói đủ là: Tại nghiệp nó dẫn tôi, tôi thua nó nên tôi không tu nữa. Như vậy tất cả việc thua trận đều do nghiệp làm chủ ḿnh. Nếu chúng ta thắng được nó th́ chúng ta làm chủ, tự do tự tại. Tự do tự tại là giải thoát sanh tử rồi.

Việc tu rất tế nhị, phải nh́n sâu vào trong nội tâm ḿnh để gạn bỏ những thứ nhơ nhiễm, nuôi dưỡng tâm thanh tịnh. Cho nên trong nhà thiền thường dùng từ "trưởng dưỡng thánh thai", tức nuôi dưỡng thai thánh càng ngày càng thanh tịnh, đó là chỗ tiến bộ của người tu.

Đến đây tôi nói về Thiền tông của Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Ngài truyền Thiền cho Tổ Huệ Khả. Khi Tổ Huệ Khả đă nắm vững đường lối, biết rơ phương pháp tu. T́m tâm tức phải xoay vào, t́m nó nhưng không thấy dấu vết là được an. Như vậy an tâm là định, c̣n chạy là c̣n loạn động. Do đó đường lối tu Thiền cốt phải an tâm.

Tôi kể một vị nữa là ngài Đạo Tín. Lúc c̣n Sa-di mới mười bốn tuổi, Ngài gặp Tổ Tăng Xán liền đảnh lễ:

- Ḥa thượng dạy cho con phương pháp giải thoát.

Khi đó Tổ Tăng Xán nh́n thẳng vào mặt hỏi:

- Ai trói buộc ngươi?

- Dạ không có ai trói buộc hết.

Tổ bảo:

- Không ai trói buộc th́ cầu giải thoát làm ǵ?

Ngay đó ngài Đạo Tín liền ngộ.

Ngộ đạo dễ quá! Ngộ cái ǵ? Đó là những nét rất chí lư, chúng ta cần phải thấy.

Chúng ta tu có ai không cầu giải thoát đâu, ai cũng khao khát cầu giải thoát. Vậy giải thoát là ǵ? Chữ giải là cởi mở, thoát là vượt ra. Như người bị trói cột ở một nơi nào đó, được mở trói th́ nói đă giải thoát cho người ấy rồi. Tóm lại giải thoát tức là mở trói, đi đứng tự tại. Ngài Đạo Tín v́ khao khát giải thoát nên cầu Tổ chỉ dạy. Nhưng muốn giải thoát th́ phải biết cái ǵ trói cột. Nếu không biết cái ǵ trói cột th́ làm sao giải thoát. Tất cả người tu chúng ta đa số đều nói nghiệp trói cột. V́ nó trói cột nên không được giải thoát.

Vậy cái ǵ tạo thành nghiệp? Thân, khẩu, ư nhưng trọng tâm là ư. Ư là nhân tạo nghiệp, nhưng nếu ư thật th́ cột chúng ta mới được. Trái lại cả ngày ư sanh diệt không biết bao nhiêu lần th́ làm sao thật được. Ư đă không thật th́ nghiệp thật không? Cho nên khi ngài Đạo Tín yêu cầu Tổ dạy phương pháp giải thoát th́ Tổ bảo:

- Ai trói buộc ngươi?

Ngài sửng sốt t́m lại xem cái ǵ trói buộc. Đó cũng là phản quan, xem cái ǵ trói buộc ḿnh, phăng t́m khắp nơi không thấy nên Ngài thưa:

- Con không thấy có ǵ trói buộc hết.

Tổ bảo:

- Cầu giải thoát làm ǵ?

Nh́n lại không thấy có ǵ trói buộc tức là giải thoát rồi. Như vậy muốn được giải thoát chúng ta đừng ảo tưởng, đừng mê lầm, chúng ta thường nghĩ rằng bị cột trói là cục cựa nhúc nhích không được. Bây giờ phải mở trói mới cục cựa nhúc nhích được. Nhưng sự thật không phải. Chúng ta đang bị mê lầm chấp giả làm thật. Từ mê lầm rồi tạo nghiệp trầm luân. Nếu bây giờ chúng ta tỉnh táo, biết giả dối là giả dối th́ mọi sự trói buộc cũng hết theo, chớ không có ǵ lạ. Như vậy người biết tu phải quay lại t́m cho ra cái ǵ là nhân trói buộc, cái ǵ là quả giải thoát. Thấy tường tận như vậy th́ tự nhiên chúng ta giải thoát, chớ đừng cầu ai hết.

Qua câu chuyện của vị Thiền sư, chúng ta thấy ư nghĩa rất rơ ràng. Muốn giải thoát không phải t́m kiếm ở đâu xa, mà phải phản quan lại ḿnh, thấy cho tường tận, thấy cho rơ ràng th́ chúng ta sẽ đi tới giải thoát, không nghi ngờ. Đó là tôi nói hai vị Tổ ở Trung Hoa.

Hiện giờ tôi có một Thiền viện ở Đà Lạt, tôi đặt tên là Thiền viện Trúc Lâm. Nói đúng là phải gọi Trúc Lâm Yên Tử, nhưng muốn gọi gọn tôi chỉ đặt Thiền viện Trúc Lâm. Tại sao tôi gọi Thiền viện Trúc Lâm? V́ tôi thấy trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, người truyền Thiền tông đầu tiên ở đất nước ta là Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi, người Ấn. Kế đó là Tổ Vô Ngôn Thông, người Hoa. Sau nữa là ngài Thảo Đường cũng người Hoa.

Đến khi ngài Trần Thái Tông là ông vua đầu tiên của nhà Trần tu Thiền, khi rảnh rỗi Ngài tŕ kinh Kim Cang. Một hôm nhân khi đọc đến câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Ngài để kinh xuống nghiền ngẫm giây lâu, bỗng dưng giác ngộ thấy được lư Thiền. Khi ngộ được câu đó, về sau Ngài có viết cuốn Thiền Tông Chỉ Nam, nhưng đă thất lạc mất, chúng ta chỉ c̣n t́m được bài tựa thôi, bản chánh đă bị mất.

Tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa là Tổ Huệ Năng. Khi nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang trong lúc giữa đêm, tới câu bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Ngài liền bừng ngộ và lớn tiếng nói: "Đâu ngờ tánh ḿnh xưa nay thanh tịnh, đâu ngờ tánh ḿnh vốn không sanh diệt…" Ngũ Tổ vui mừng bảo: "Ông đă ngộ được bản tánh", liền trao y bát cho Ngài.

Chúng ta thấy rơ ràng muốn được an tâm, phải làm sao? Là khi phát tâm Vô thượng Bồ-đề không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là không dính mắc với sáu trần. Mà không dính mắc với sáu trần th́ an tâm. An tâm tức là dừng tâm lăng xăng. Nhưng Lục Tổ, Ngài c̣n thấy ngay nơi ḿnh có cái thể chưa từng sanh diệt, nên nói nào ngờ tánh ḿnh xưa nay không sanh không diệt. Ngài thấy được thể tánh ấy trùm khắp, nên nói nào ngờ tánh ḿnh trùm khắp muôn vật… Thấy rơ ràng như vậy nên được Tổ truyền tâm ấn và trao y bát cho.

Ở Việt Nam, vua Trần Thái Tông đọc kinh Kim Cang tới chỗ đó cũng ngộ được lư Thiền, nên sau này Ngài có viết quyển Khóa Hư Lục. Trong Khóa Hư Lục, Ngài cũng diễn tả chỗ thấy biết của ḿnh trên phương diện tu hành.

Đến vua thứ hai là Trần Thánh Tông cũng ngộ được lư Thiền và vua thứ ba là Trần Nhân Tông c̣n đặc biệt hơn nữa. Trần Nhân Tông khi c̣n là Đông cung Thái tử, vua cha đă cho học đạo với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi học xong, sắp từ giă trở về lănh trách nhiệm của quốc gia, Ngài mới hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ:

- Việc chủ yếu của Thiền tông là ǵ?

Tuệ Trung Thượng Sĩ liền đọc nguyên một câu chữ Hán:

- Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.

Phản quan là soi sáng lại, tự kỷ là chính ḿnh. Soi sáng lại chính ḿnh là việc bổn phận chánh, không từ bên ngoài mà được. Nghe câu nói đó Ngài liền lănh hội được yếu chỉ Thiền. V́ vậy sau khi trở về làm vua, dẹp giặc v. v… cuối cùng Ngài xuất gia. Sau khi xuất gia, Ngài thành lập một hệ phái gọi là Trúc Lâm Yên Tử và Ngài là Sơ Tổ. Như vậy tại sao tôi chọn phái Trúc Lâm Yên Tử làm chỗ qui hướng của ḿnh để khôi phục lại hệ phái đó?

Ở Ấn Độ, Thái tử Tất-đạt-đa khi thức tỉnh đi tu, Ngài thành Phật. C̣n ở Việt Nam chúng ta, ông vua ngộ đạo từ lúc nhỏ. Khi rảnh việc triều chính, liền giao ngai vàng lại cho con rồi tu hành thành Tổ. Nếu nói theo tinh thần dân tộc Việt Nam, vị Tổ thiền của Phật giáo Việt Nam chính là Sơ tổ Trúc Lâm. Cho nên với tinh thần Phật giáo Việt Nam, tôi chủ trương khôi phục Thiền tông đời Trần là v́ thế.

Hơn nữa một ông vua đi tu cũng như một ông hoàng đi tu. Một ông Hoàng thái tử là do muốn t́m cái ǵ vượt ngoài cả ngai vàng điện ngọc, chớ nếu tầm thường th́ không bao giờ đi tu. V́ lư tưởng cao đẹp đó mà Thái tử Tất-đạt-đa đi tu. Do đó Ngài t́m được đạo giải thoát.

C̣n ở Việt Nam chúng ta, một ông vua đi tu; nếu vàng bạc của báu là quí th́ Ngài không đi tu. V́ Ngài thấy có một cái ǵ cao siêu hơn tất cả những thứ đó nên Ngài mới bỏ ngai vàng đi tu. Do đó giáo lư Ngài hấp thụ được, đem ra giảng dạy phải là siêu việt chớ không thể tầm thường.

Vậy mà hiện nay chúng ta có lắm người đi tu nhưng lâu lâu cũng nhiễm danh kẹt lợi, rồi thối Bồ-đề tâm. Đó là do họ chưa t́m được sự cao siêu, sự giải thoát cho nên không thấy được điểm hay của đạo. Một ông vua khi đă nếm vị giải thoát rồi th́ cả thế gian đều không quan trọng, chỉ có đạo giải thoát là trên hết. Đó là giá trị chân thật, v́ vậy chúng tôi muốn khôi phục lại chân tinh thần đó để Tăng Ni Việt Nam không tủi nhục rằng chúng ta đi tu chỉ v́ miếng cơm manh áo, ẩn dương nương Phật qua ngày. Chúng ta đi tu là v́ một lư tưởng siêu phàm, một lư tưởng vượt hơn tất cả thế tục, chớ không phải tầm thường.

Trở lại câu "phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc", ư nghĩa như thế nào? Tôi xin nêu lên cho tất cả biết, tông chỉ từ Tổ Bồ-đề-đạt-ma dạy cho Tổ Huệ Khả, đến Việt Nam chúng ta gần cả ngàn năm mà tông chỉ đó không thay đổi. Tại sao? Bởi v́ Tổ Đạt-ma bắt Tổ Huệ Khả phải nh́n lại chỗ tâm bất an của ḿnh. Quay lại t́m tâm bất an, t́m chừng nào nó lặng, đó là an tâm. Ở đây, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo "phản quan tự kỷ" tức là soi sáng lại chính ḿnh. Đó là phận sự chánh, không phải từ ngoài mà vào.

Như vậy, xoay lại chính ḿnh là việc gốc của người tu Thiền. Người tu Thiền không t́m kiếm những phép lạ thần thông huyền bí, mà phải quay lại soi sáng ḿnh, t́m cho ra cái ǵ hư cái ǵ thật. Hư là giả dối, thật là chân thật. Cái giả dối không lầm, nhận ra cái chân thật chính là kiến tánh.

Trọng tâm của người tu là muốn được giải thoát, nhưng giải thoát cái ǵ? Thân này sẽ bại hoại không thể giải thoát được, chỉ có tâm. Mà tâm do phân biệt hay suy ngẫm là tâm hư ảo, không thật có th́ đâu cần giải thoát. Chỉ tâm chân thật không sanh diệt mới không bị sanh tử, nhưng chúng ta v́ vô minh mê lầm che đậy nên nó không hiện bày. Quay t́m lại cái siêu thoát trên tất cả là phận sự chánh của người tu Thiền, c̣n t́m cái ǵ khác là sai.

Như vậy từ Tổ Đạt-ma truyền thiền sang Tổ Huệ Khả, sau này đến Việt Nam ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ trao tông chỉ cho ngài Điều Ngự Giác Hoàng tức Sơ tổ Trúc Lâm vẫn nguyên vẹn trên tinh thần như vậy, không sai chạy. Tinh thần ấy muôn đời vẫn thế, không thể nào khác hơn được.

Thế th́ Thiền tông có phải là cội gốc của đạo Phật hay không? Trở lại đức Phật, Ngài ngồi dưới cội bồ-đề để làm ǵ? Ngài cũng phản quan lại chính ḿnh, dẹp tan các thứ hư vọng. Khi hư vọng lặng rồi Ngài được chánh định. Từ định phát tuệ, Ngài bừng sáng nên gọi ngộ đạo thành Phật. Do đó Ngài dạy lại hàng đồ đệ pháp Tứ niệm xứ cũng là phản quan.

Như quán thân bất tịnh là xoay lại thân ḿnh, quán thọ thị khổ là xoay lại cảm giác của ḿnh. Bởi v́ tất cả cảm giác mà thế gian mê đắm đều là những cảm giác vô thường, tạm bợ nên khổ. Quán tâm vô thường là soi lại nội tâm ḿnh, gồm có tâm thiện tâm ác v. v… đó là tướng vô thường sanh diệt không thật. Quán pháp vô ngă, những ǵ do nhân duyên tụ hợp đều không có chủ thể, không thật. Đó là soi thấu chính con người ḿnh, không lầm lẫn. Nhận chân được lẽ thật là chúng ta giác ngộ, chúng ta thấy đạo.

V́ vậy tất cả những người tu Phật, nhất là trong thời đại hôm nay, đặc biệt một số người Tây phương, khi nghiên cứu đạo Phật họ chỉ thích tu Thiền, chớ không tu pháp nào khác.

Như vậy Thiền là cội gốc của đạo Phật, bắt nguồn từ Ấn Độ chảy măi sang đến Trung Hoa, Việt Nam, duy có một gốc không hai không khác. Chỉ v́ lâu ngày, do chúng ta yếu đuối rồi châm chước, chế biến thấy hơi khác, hơi lạ. Khi tôi nghiên cứu kỹ lưỡng lối tu của Phật của Tổ, rồi nh́n lại lối tu hiện tại của đa số tu sĩ chúng ta, tôi thấy có những nỗi buồn.

Như bây giờ Tăng Ni chúng ta ở chùa, đa số lấy ǵ làm thời khóa tu chính? Lấy hai thời khóa tụng. Tối tu Tịnh độ, khuya tụng chú Lăng Nghiêm, cho đó là gốc của sự tu. Nhưng hỏi hai thời khóa tụng đó xuất phát từ đâu, lúc nào, quí vị có biết không? Đó là một vấn đề. Nhiều khi chúng ta làm mà không biết ḿnh làm theo ai. Đó là điều đáng buồn.

Nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy hai thời khóa tụng xuất phát từ đời nhà Thanh ở Trung Hoa. Tại sao ở Trung Hoa lại có hai thời khóa tụng đó? Bởi v́ từ đời nhà Nguyên, quân Mông Cổ vào xâm chiếm nước Trung Hoa. Mà người Mông Cổ ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng, rất trọng Mật tông. V́ vậy, Trung Hoa khi bị nhà Nguyên cai trị th́ Mật tông bắt đầu phát triển.

Đến đời nhà Thanh cũng thế, chuyên về Mật tông. Do đó kiểm lại trong hai thời khóa tụng, thần chú chiếm hết hai phần. Như tối tu Tịnh độ, trong nghi thức cầu siêu th́ phải tụng chú Đại bi trước, sau khi niệm Phật tụng chú Văng sanh. Chú Đại bi và chú Văng sanh là Mật. C̣n buổi khuya th́ tụng năm đệ chú Lăng Nghiêm rồi Thập chú, toàn là Mật.

Gần đây chúng ta lấy hai thời khóa tụng làm tiêu chuẩn tu hành, mà hai thời khóa tụng chỉ có vào đời nhà Thanh, khoảng thế kỷ XVII, XVIII. C̣n tổ tiên chúng ta từ thế kỷ thứ III măi cho đến thế kỷ XVIII đều tu Thiền. Như vậy ngót một ngàn năm trăm năm, tổ tiên tu Thiền mà bây giờ con cháu không biết ǵ hết!

Đức Phật Thích-ca tu Thiền mà được thành đạo, đệ tử Ngài cũng vậy. Đó là gốc mà bây giờ chúng ta không biết Thiền, tức chúng ta mất gốc số một rồi. Gốc thứ hai là trên đất nước Việt Nam ḿnh, tổ tiên trong nhà Phật ngày xưa cũng tu Thiền, mà bây giờ chúng ta cũng không biết luôn. Đức Phật chủ trương tu Thiền, chư Tổ cũng chủ trương tu Thiền, mà con cháu nói tu Thiền điên. Như vậy con cháu có trung thành với Phật, Tổ không? Đó là điều chúng ta phải nghiên cứu tận gốc rễ. Không nên xưa bày nay làm, mà phải t́m tận cội gốc để khỏi lầm lẫn.

Từ chỗ không lầm lẫn chúng ta mới đi tới chỗ tu hành chín chắn như sở nguyện. Tu cầu giải thoát giác ngộ, chớ không phải tu cầu được ấm no, được nhiều vật chất. Hiểu cho tường tận như vậy th́ trên đường tu được kết quả tốt. Xả thân cầu đạo như vậy mới xứng đáng, bằng không th́ thật uổng phí đời tu của ḿnh.

Mong tất cả hiểu được Thiền là cội gốc của đạo Phật, để từ đó chúng ta cố gắng tu tập và đạt được kết quả như lời của Phật dạy. Chúc tất cả đều được sở nguyện viên thành.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]