[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập IV)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO DIỆT KHỔ

Trường hạ Phổ Đà - 2000.

 

Bài pháp tôi giảng hôm nay có đề tài Đạo Phật là đạo diệt khổ. Bởi v́ nhiều người nói đức Phật là đấng cứu khổ chúng sanh, nhưng chúng ta tu theo Phật nhiều năm mà thấy khổ cũng c̣n hoài chưa hết. Như vậy từ "cứu khổ chúng sanh" có hiệu nghiệm đúng như thật hay không? V́ vậy ở đây tôi sẽ nói rơ cho quí vị thấy tại sao đạo Phật là đạo cứu khổ chúng sanh, mà chúng ta tu theo đạo Phật, vẫn c̣n khổ hoài.

Lâu nay hàng Phật tử chúng ta có sự hiểu lầm về hai chữ "cứu khổ" này. Mỗi khi gặp tai nạn, hay làm việc ǵ thất bại, quí vị liền cầu: "Phật cứu cho con hết khổ. " Nếu Phật cứu được th́ bệnh phải hết liền; vậy mà nhiều người nằm tới mười ngày, hai mươi ngày, có khi cả đôi ba tháng. Như vậy Phật có cứu không? Cầu mà không như nguyện, th́ người ta cứ ngầm tưởng Phật không linh. Ḿnh tin Phật, cầu xin Phật mà sao không có kết quả? Đó là v́ họ không hiểu đạo Phật.

Có những người làm ăn, mua bán gặp lúc thất bại, rồi nợ nần, liền cầu nguyện Phật: "Phật cứu cho con làm ăn phát tài, trả nợ cho mau" v. v… Nếu cầu hoài không được th́ nói Phật thương chúng sanh, mà sao ḿnh khổ, ḿnh cầu, Phật không cứu? Như vậy nghĩa "cứu khổ" của Phật đâu c̣n. Đó là chỗ lầm lẫn của đa số Phật tử hiện nay. Do hiểu lầm nghĩa cứu khổ, nên cứ cầu mong Phật cứu ḿnh. Nếu không được như nguyện th́ tưởng chừng như lời Phật là lời hứa suông, chớ không phải là lời thật. V́ thế niềm tin nơi Phật bị suy kém đi.

Giờ đây chúng ta phải định nghĩa "Phật cứu khổ chúng sanh" là cứu bằng cách nào? Chúng ta phải nắm cho vững, hiểu cho rơ, th́ mới biết được ư nghĩa "Phật cứu khổ chúng sanh". Thường người ta cứ nghĩ khổ là từ bên ngoài đưa vào, mà không thấy được khổ gốc từ nơi chính ḿnh ra. Bởi vậy khi gặp khổ, Phật tử vội vă cầu Phật cứu. Cầu không được liền cho rằng Phật không linh, không sẵn sàng cứu khổ ḿnh. Đó là hiểu sai lầm.

Quí vị nhớ người Phật tử, khi qui y với Phật th́ trước phải giữ năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Giữ giới như vậy để làm ǵ? Nhiều khi Phật tử cũng không biết tại sao phải giữ giới nữa. Bởi giới luật của Phật là hàng rào ngăn chặn không cho chúng ta rơi xuống hố tội lỗi. V́ rơi xuống hố tội lỗi là đau khổ. Như vậy giới luật giữ cho ta không rơi vào chỗ đau khổ.

Người phạm giới sát sanh như giết người th́ khổ hay vui? Dĩ nhiên là khổ. Phật tử dầu có giận mấy, nhưng nghĩ tới muốn hại, muốn giết người th́ phạm giới cấm của Phật nên không dám giết. Giận cũng ráng chịu, phải không? Nhờ không giết người, nên không bị tù tội, không bị oán thù. Tù tội, oán thù, hai việc đó khổ hay vui? Hai nỗi khổ lớn. Nhờ giữ giới nên dù giận cách mấy, chúng ta cũng chận được những nỗi khổ lớn lao. Không giết người th́ ḿnh không bị tù tội, không bị người ta giết hoặc đánh đập lại. Như vậy giới ngừa đón quả khổ trước khi ḿnh tạo tội. Giữ một giới th́ hết khổ một phần.

Nếu giữ thêm giới không trộm cướp, th́ không bị bắt bớ, tù tội. Đó là tránh được một nỗi khổ. Giữ giới không tà dâm th́ bớt được nỗi khổ gia đ́nh ly tán. Nếu gia đ́nh, chồng hoặc vợ ngoại t́nh với kẻ khác th́ gia đ́nh đó vui hay khổ? Khổ. Người chồng hoặc người vợ đau khổ và con cái cũng đau khổ nữa. Như vậy giữ giới không tà dâm th́ vợ chồng ḥa thuận, con cái vui tươi. Đó là tránh được khổ rồi. Không nói dối gạt người, th́ không bị người chê trách, khinh bỉ ḿnh. Ngược lại, nếu dối gạt người th́ sẽ bị người chê trách, khinh bỉ. Khi bị người chê trách, khinh bỉ, ḿnh có vui không? Ḿnh khổ. Bây giờ ḿnh tránh không lừa dối ai, nên không bị chê trách, giận hờn th́ ḿnh khỏi khổ.

Không uống rượu say, không hút á phiện, không x́ ke ma túy, có khổ không? Không khổ. Nếu ở gia đ́nh, có một ông chồng cứ say lê mê, ra đường th́ ngả nghiêng, về nhà th́ ụa mửa, quí vị có khổ không? Rất khổ. Nếu người chồng là Phật tử tỉnh táo, sáng suốt, không say sưa th́ vợ không khổ, mà bản thân người chồng cũng được vui. Nếu trong gia đ́nh không có ai hút á phiện, x́ ke ma túy th́ gia đ́nh đó hạnh phúc, không bị khổ.

Như vậy Phật dạy giữ năm giới có phải là chận đứng gốc đau khổ cho chúng ta không? Mà chận đứng đau khổ cho chúng ta tức là cứu khổ rồi. Phật cứu khổ chúng sanh bằng cách cứu nhân chớ không cứu quả. Chúng ta bây giờ đ̣i cứu quả chớ không chịu cứu nhân. Khi gặp khổ, thí dụ như đi ăn trộm của người ta, bị lính bắt liền cầu Phật cứu. Phật cứu được không? Bây giờ Phật dạy ḿnh ngừa, không trộm cắp th́ sẽ không bị bắt bớ. Đó là Phật đă cứu rồi.

Như vậy Phật cứu khổ chúng ta là cứu khổ từ nhân. Chúng ta không gây nhân xấu, th́ không gặp quả khổ. Chớ Phật không thể cứu khổ trên quả được. Bởi v́ theo luật nhân quả, hễ gây nhân nào th́ gặt quả ấy thôi, không thể khác được. Cho nên Phật cứu mà chúng ta không thấy cứu.

Tôi thường hay ví dụ, có hai người đang căi vă ngoài đường, một nhà tu đi ngang khuyên: "Thôi, hai anh bỏ qua đi, ḥa với nhau đi, căi lẫy làm chi rồi sanh đánh đập nhau th́ khổ lắm, đừng làm việc đó. " Khuyên như vậy mà hai người kia chẳng thèm nghe. Do không chịu nghe nên căi một hồi rồi đập nhau lỗ đầu, phải chở vô bệnh viện. Tại bệnh viện nhờ y tá băng bó, trị liệu cho lành. Khi được lành, người ấy mang ơn ai? Họ nói: "Mấy vị y tá tốt quá, đă băng giùm những vết thương cho họ. "

Như vậy họ chỉ biết ơn người cứu ḿnh trên quả. C̣n người khuyên ḿnh dứt từ nhân th́ lại không chịu nghe, coi thường. Lẽ ra kẻ ấy nhớ lại "phải chi hôm đó ḿnh nghe lời thầy khuyên, đừng chửi, đừng đánh lộn th́ đâu có bị thương tích. " Như vậy th́ được lành lặn trọn vẹn. Đằng này đợi đánh lỗ đầu rồi, đi băng bó, rốt lại mang ơn người băng bó, mà không mang ơn người khuyên ḿnh từ buổi đầu. Quí vị thấy có dở, có muộn lắm không?

Người ta thường bị lỗi v́ chỉ biết trên quả đang đau khổ th́ cầu cứu; mà không biết nguyên nhân đưa đến đau khổ để ngừa tránh. Đức Phật thấy tường tận nguyên nhân nào đưa chúng ta tới đau khổ. Ngài khuyên dạy phải đừng tạo nhân đó. Nhân đă không tạo th́ quả làm ǵ có. Như vậy nh́n cạn, chúng ta không thấy Phật cứu, nhưng thật sự Phật đă cứu ta rồi! Phật cứu mà không thấy, v́ cứu trên nhân. C̣n thế gian cứu ḿnh là cứu trên quả.

Phật dạy chúng ta giữ năm giới, đó là ngừa đón tội khổ cho chúng ta. Nếu chúng ta tuân theo, giữ đúng th́ sẽ hết khổ. Đó là chúng ta tu. Tu th́ sẽ hết khổ. Hết khổ nhờ vâng lời Phật dạy, tuân theo hành theo, nên chúng ta hết khổ, gọi đó là Phật cứu khổ. Như vậy ư nghĩa cứu khổ trong nhà Phật rất rơ ràng.

C̣n hàng xuất gia th́ rất nhiều giới. Nhưng tôi chỉ nói giới phổ thông, gần gũi nhất là giới Sa-di. Sa-di có mười giới. Bởi v́ người tu phải giữ mười giới đầu là giới gốc.

1- Không sát sanh.

2- Không trộm cướp.

3- Không dâm dục.

4- Không nói dối.

5- Không uống rượu, không dùng các chất say như x́ ke ma túy v. v…

6- Không ca hát.

7- Không đeo tràng hoa, không xông ướp các chất thơm.

8- Không nằm ngồi giường to lớn.

9- Không được ăn phi thời.

10- Không giữ tiền bạc, châu báu v. v…

Những điều đó nghe qua, quí vị thấy có ǵ quan trọng mà Phật bắt phải giữ như vậy. Thí dụ như lâu lâu thân thể hôi hám, có ai cho xà bông thơm hay dầu thơm, ḿnh thoa một chút cho đỡ hôi, có tội ǵ đâu, có hại ai đâu, mà Phật cũng cấm nữa.

Chúng ta nhớ Phật dạy người xuất gia, tu để giải thoát sanh tử. Mà muốn giải thoát sanh tử th́ phải dứt hết những tâm ô nhiễm dục lạc của thế gian. Nếu xoa dầu thơm, nghe ḿnh hơi thơm th́ liền khởi niệm thích. Đó chính là niệm dẫn tới ái dục của thế gian. Người khác nghe mùi, họ nghĩ rằng vị tu sĩ đó c̣n thích trang sức cho đẹp, chứng tỏ là tu chưa kỹ, nên họ chọc ghẹo, từ đó mà dẫn tới nhiều chuyện không tốt.

Như vậy Phật ngừa đón, không cho ḿnh làm những điều đó. Bởi v́ làm điều đó là tuột xuống, không c̣n đi trên đường giải thoát nữa. Tuy nó nhỏ, không làm khổ cho ai, nhưng nó là nhân tế nhị dẫn chúng ta đến gần các thứ dục lạc của thế gian, nên người tu phải tránh đi.

Như Phật dạy không được xem hát, hay nghe nhạc, v. v… Chúng ta thấy xem hát nghe nhạc, đâu có làm tổn thương ai, sao Phật không cho? Bởi người xuất gia th́ luôn giữ tâm trong sạch, an định. Nếu đi xem hát, nghe nhạc, tâm sẽ bị chao đảo, rung động. Rung động th́ mất chánh niệm, tà niệm sẽ dễ sanh. Như vậy trên đường giải thoát có thể lui sụt. Cho nên Phật cấm không được nghe nhạc, không được đi xem hát, đó là ngừa từ nhân. Giữ được tâm an định th́ việc tu tập không bị lui sụt.

Ví dụ bên cạnh con đường ta tới lui là một cái hố sâu rất nguy hiểm, nếu lọt xuống đây th́ ngoi đầu lên không nổi. Cũng vậy, muốn hàng xuất gia khỏi lọt xuống hố, nên Phật dùng cái hàng rào chắn ngang gần miệng hố. Chúng ta đi vừa đụng nó liền dội lại nên không rớt xuống hố. Nếu không có hàng rào này th́ họa rơi xuống hố khó tránh khỏi. Hàng rào là ǵ? Là giới luật vậy. Cho nên giới có nghĩa là pḥng phi chỉ ác.

Pḥng phi nghĩa là ngừa những việc quấy; chỉ ác là dứt, dừng những tội lỗi. Giới chính là hàng rào ngừa đón tội lỗi, dẫn người tu đi đến đau khổ. Do đó Phật chận trước. Bắt giữ giới là ngừa đón trước, để đừng xảy ra những việc không tốt. Người tu mà không chịu giữ giới th́ sao? Th́ có ngày lọt xuống hố, không nghi ngờ ǵ cả!

Như vậy cư sĩ tại gia có năm giới, người xuất gia có từ mười giới trở lên, tùy theo cấp bậc. Cho nên biết giới là phương tiện ngừa đón cho chúng ta không bị khổ. Nếu ai biết giữ giới luật th́ người đó hết khổ, ngược lại kẻ không chịu giữ giới th́ phải chịu đau khổ. Đó là chặng tu ban đầu của chúng ta. Nếu chặng ban đầu không thực hiện được th́ chặng thứ hai, thứ ba, chúng ta khó thực hiện được.

Thí dụ Phật dạy chúng ta đừng tham, phải bớt tham. Nhưng Phật tử ham làm ăn nên cứ vay vốn làm ăn măi, không chịu dừng. Đến hồi lỗ vốn, chừng đó kêu Phật cứu. Phật cứu kịp không? Thôi th́ ḿnh có bao nhiêu ăn bấy nhiêu, đừng tham nhiều. Đừng tham th́ đâu có lỗ. Không lỗ th́ đâu phải thiếu nợ. Chờ đến khi lỗ vốn, thiếu nợ rồi mới kêu Phật cứu, Phật cứu làm sao được? Đó là những điều Phật tử chúng ta không thấy, không hiểu nên phải chịu khổ.

Như Phật dạy đừng nóng giận, v́ nóng giận là con rắn độc. Nhưng Phật tử vẫn cứ nóng giận. Ai nói ǵ trái ư liền nổi nóng, la lối, có khi chửi đánh nữa. Mà la lối chửi đánh nhau th́ khổ thôi, chớ vui sao được. Với người láng giềng mà la lối, chửi mắng om ṣm, th́ mai mốt gặp mặt nhau có khổ không? Phật gọi đây là oán tắng hội khổ, thù oán gặp nhau là khổ. Nếu đi ra đi vô gặp mặt hoài th́ cả ngày khổ hoài, phải không? C̣n nếu ḿnh không nóng giận, đánh đập, chửi bới nhau th́ gặp nhau vui cười, đó là không khổ. Như vậy tất cả nỗi khổ đều do chúng ta tạo. Nếu ḿnh biết tu nó sẽ chuyển, sẽ hết; không biết tu nó c̣n hoài.

Tôi nhắc lại câu chuyện trong kinh. Một hôm đức Phật hỏi các thầy Tỳ-kheo: "Này các Tỳ-kheo, nếu ở trong thất của các ông ngủ có ba con rắn độc, các ông có ngủ yên không? " Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, chúng con ngủ không yên! " Phật hỏi: "Làm sao các ông mới ngủ yên? " Các thầy thưa rằng: "Chừng nào chúng con đuổi hết ba con rắn ra khỏi thất, chừng đó ngủ mới yên. " Phật nói: "Cũng vậy, tham sân si là ba con rắn độc, chúng c̣n nguy hiểm hơn cả rắn độc nữa. " Tại sao? Rắn độc chỉ cắn thân này chết trong một đời thôi; c̣n tham, sân, si, sẽ khiến chúng ta tạo nghiệp đi trong sanh tử. Hết chết thân này, tiếp tục chết thân thứ hai, thứ ba, cho tới trăm ngàn thân. Rắn độc chỉ giết chúng ta một thân, c̣n tham, sân, si giết không biết bao nhiêu thân. Rơ ràng nó độc hơn cả rắn độc rồi.

Nên biết c̣n một trong ba cái độc tham, sân, si ở trong ḿnh, th́ chúng ta chưa thể an được. Nhưng không hiểu tại sao Phật tử cũng như hàng xuất gia c̣n thương ba con rắn độc quá! Thương nên không nỡ đuổi nó ra. Như vậy th́ rơ ràng là tự ḿnh chuốc khổ. Chúng ta tưởng tượng trong cái thất, có ba con rắn độc cứ ḅ qua ḅ lại th́ ḿnh sẽ thế nào? Mất ăn mất ngủ phải không? Cũng vậy, trong thân này c̣n tham, sân, si tức c̣n rắn độc th́ làm sao ngủ yên? Cho nên các vị Cổ đức hay khuyên: "Các ông phải diệt trừ phiền năo. Phiền năo c̣n lừng lẫy th́ các ông đâu thể an vui mà ngủ. " Thật sự như khi quí vị đang giận ai, giận tức bụng, nghe tiếng kẻng đi ngủ, mà nằm hoài ngủ không được. Th́ đó, bởi v́ c̣n rắn độc lảng vảng trong đầu, làm sao ngủ được!

Cho nên người tu, tại gia cũng như xuất gia, biết ba con rắn độc nguy hiểm, chúng ta phải tránh, phải đuổi nó ra, đừng chứa chấp. Ba con rắn độc đó, tôi tượng trưng rắn thứ nhất là rắn hổ ngựa. Rắn hổ ngựa là rắn ǵ? Tức con rắn trong đồng quê, nó lướt trên cỏ nhanh lắm, như ngựa vậy. Đó là rắn tham. Rắn thứ hai là rắn hổ lửa. Hổ lửa là rắn ǵ? Là rắn sân. Rắn thứ ba là rắn hổ đất. Nó chui vào hang tối, ḿnh không thấy nhưng gặp nó, nó cắn cứu không được, là rắn si.

Như vậy trong ba con rắn, nổi nhất hung dữ nhất là hổ lửa, nhanh nhẹn nhất là hổ ngựa, mà ĺ lợm nhất là hổ đất. Chúng ta có đủ ba con rắn đó không? Ai có đủ ba con rắn đó th́ phải làm sao? Biết trong nhà ḿnh chứa ba con rắn độc như vậy th́ không thể nào an ổn. Không an ổn tức là đau khổ. Vậy muốn hết đau khổ phải t́m đủ cách để đuổi nó ra. Thế mà có người không chịu t́m. Được người ta khuyên đuổi ra, c̣n nói: "Được, để đó đi, không sao đâu! "

Như tôi thường nói, chúng ta hay nóng giận. Ai nói trái ư liền đỏ mặt la om ṣm. Khi đó, huynh đệ khuyên: "Ḿnh tu rồi nóng giận coi không được, kỳ lắm, bỏ đi! " Ta liền nói: "Tánh tôi vậy đó, bỏ không được. " Nói thế có nghĩa là tánh như vậy th́ giữ như vậy, không bỏ được. Đó là không sợ con rắn hổ lửa rồi, nên mới chấp nhận cho nó ở chung. Phật tử sống ngoài thế gian cũng vậy, nhiều khi vợ chồng có chuyện căi vă. Vợ nói: "Sao anh nóng quá vậy! " chồng liền lớn tiếng: "Tánh tôi nóng vậy đó, đừng có động tới! " V́ giữ tánh nóng, nên động tới là tóe lửa liền. Đă không ưng bỏ nên mới bảo vệ nó.

Chúng ta mới thấy rằng trên đường tu, nếu ḿnh không can đảm, không chịu dẹp bỏ những nhân đau khổ th́ quả đau khổ tránh sao cho khỏi. Thí dụ người xuất gia mà nuôi rắn hổ lửa, hôm nào huynh đệ nói ǵ trái ư, nổi giận tát tai người ta. Do tát tai người ta, nên chiều nhóm chúng bị đuổi đi. Bị đuổi đi liền đắp y lên bàn Phật, thắp hương nguyện: "Phật cứu độ con, con bị đuổi ra khỏi chúng, khổ quá! " Phật cứu kịp không? Phật cũng không biết làm sao cứu.

Chính khi biết ḿnh nóng, là do chứa con rắn độc th́ phải dẹp nó liền. Dẹp nó là y theo lời Phật dạy để ḿnh hết khổ. Đó là Phật cứu ḿnh. Đằng này không chịu dẹp nó, chờ tới quả rồi mới cầu Phật cứu. Ở thế gian, tham lam là tật xấu, là tội lỗi mà thấy của người ta vẫn cứ tham. Tham rồi lén ăn cắp. Ăn cắp nên bị người ta bắt được, đưa vô khám. Lúc vô khám chắp tay cầu nguyện: "Phật độ cho con được mau ra. " Phật là bậc biết luật làm sao độ như vậy được. Bởi nhân ḿnh không tránh th́ quả đến, Phật cũng thua thôi, không làm ǵ được.

Đức Phật từ bi vô hạn, cho nên Ngài ngừa đón giúp chúng ta từ ban đầu. V́ muốn tránh khổ cho chúng sanh, nên Phật răn dạy đừng làm những điều ấy. Nhưng chúng ta không nghe th́ khổ đến Phật không làm sao cứu được.

Ví như người cha, người mẹ thương con đáo để. Đứa con trai mười ba, mười lăm tuổi, cha mẹ khuyên cấm không cho hút thuốc, không cho uống rượu, không cho chơi với mấy đứa trẻ hư hỏng v. v… cấm năm bảy điều. Cấm như thế, đứa con thấy ba má ḿnh khắt khe quá. Tại sao ba má thương mà lại khắt khe với con? Nhưng điều đó phải khắt khe không? Chính sự ngăn cấm là ngừa đón cho con khỏi những thói hư, tật xấu. Trái lại con không chịu nghe, nên giao du với bạn xấu, đánh lộn với người ta lỗ đầu, chảy máu, rồi chạy về nhà kêu ba má. Ba má làm ǵ được? Đi chơi ngoài đường, ở chỗ xa, đánh lộn th́ phải ráng chịu chớ ba má làm sao cứu. Trước ba má đă bảo đừng chơi với lũ côn đồ, du đăng; bây giờ chơi với nó th́ nó đập phải chịu chớ sao. Cha mẹ v́ sợ con hư, nên mới răn cấm không cho con làm những điều đó. Nhưng đứa con không biết, nên chuốc quả khổ. Cha mẹ dù có thương đáo để cũng không làm ǵ được.

Cũng vậy, Phật v́ thương chúng sanh, dạy cho chúng sanh pháp tu để hết khổ. Cho nên Ngài chế giới răn cấm các việc lỗi lầm gây ra đau khổ. Nếu nhân không tạo th́ quả đâu có. Như vậy là đă cứu cho chúng ta thoát khỏi khổ đau một cách trọn vẹn, an lành. Chớ c̣n chờ gặp tai nạn, đau khổ rồi mới cứu th́ dù có cứu được cũng không trọn vẹn.

Thế nên chúng ta phải hiểu giá trị của đạo Phật, tu là tránh trước những nhân gây ra tội lỗi, gây ra đau khổ. Nhờ tránh nên không khổ. Đó là biết tránh và biết tu theo nhân quả nghiệp báo. Người Phật tử cũng như người xuất gia, muốn hết quả đau khổ th́ phải tránh nhân ác. Những ǵ thuộc về nhân xấu, nhân ác th́ tuyệt đối không làm. Ví dụ, như có người thấy gia đ́nh kia có một đứa con cưng quí. Thấy rồi liền sanh tâm đố kỵ, sao ḿnh không được cưng quí như người đó? Do đố kỵ nên gặp chú con cưng của người ta đi chơi, liền vây đánh để trả cái hận ganh tỵ đó. Đánh người ta lỗ đầu nên bị lính c̣ng tay. Chừng đó làm sao? Tại v́ ḿnh không tránh nhân ác th́ quả ác tới ḿnh phải chịu. Chớ nếu ḿnh biết: "À người ta có phước nên được cha mẹ cưng chiều, tưng tiu; c̣n ḿnh vô phước nên cha mẹ nghèo, không được như vậy. Th́ thôi phước ai nấy hưởng, ḿnh đố kỵ làm chi cho thêm buồn, thêm khổ. " Biết suy nghĩ như vậy th́ đâu có chuyện ǵ xảy ra. Cho nên đức Phật dạy: "Người hay đố kỵ là người gây nhiều đau khổ. "

Khi có tâm đố kỵ th́ phải dùng thuốc ǵ để trị? Phật dạy dùng thuốc "Tùy hỉ" trị tâm đố kỵ. Tùy hỉ là sao? Tùy là theo, Hỉ là vui. Thấy người khác được cha mẹ cưng, ḿnh vui theo: "Anh đó có phước, được cha mẹ cưng thật là đáng mừng đáng vui cho anh. " Không có tâm đố kỵ th́ đâu có đánh người ta. Hoặc xóm ḿnh nghèo, xóm người giàu th́ ḿnh cũng vui theo: "Tôi rất mừng cho anh (chị) làm ăn có phước được khá giả. "

Nếu ḿnh vui, ḿnh mừng giùm họ, họ có ghét ḿnh không? Làm sao ghét được. Đằng này thấy người ta làm ăn phát đạt giàu, c̣n ḿnh nghèo, nên gặp nhau không thèm nói tới tên, không thèm chào người ta. Từ đó trở thành thù địch, rồi dẫn tới ghét nhau. Mai kia lỡ có chuyện cần chút ít tiền gấp, chạy qua mượn họ không cho. Chừng đó có phải khổ không?

V́ vậy mà Phật dạy phải tùy hỉ, thấy ai được tốt, được vui ḿnh đều mừng vui theo họ. Họ được coi như ḿnh được th́ không khổ. C̣n nếu người thấy ai hơn ḿnh cúi đầu ngó xuống, không bằng ḷng, người đó sẽ khổ. Như ḿnh mặc một bộ đồ hơi sơ sài, thấy người ta mặc bộ đồ đẹp hơn th́ cúi gằm mặt xuống. Ḿnh đi chiếc xe đạp, c̣n người ta lái xe máy cũng gằm mặt xuống v. v… Như vậy từ sáng tới chiều, ḿnh cứ cúi mặt không dám nh́n ai hết, khổ chưa. C̣n nếu vui theo người ta th́ cả ngày ḿnh vui hoài, sướng không.

Như vậy khổ từ đâu mà có? Từ tâm đố kỵ có. Nhiều khi anh em ruột, mà người anh làm ăn phát tài, người em làm ăn trật lên trật xuống nghèo khổ, th́ anh em cũng hết thân nhau. Hết thân là tại người anh coi thường em, hay tại người em có tâm đố kỵ nên tránh xa anh? Tâm đố kỵ làm cho người ta đau khổ là v́ vậy.

Chúng ta biết tu rồi, th́ nên có tâm tùy hỉ với mọi người chung quanh. Ai được tốt, được vui ḿnh mừng với họ. Vui vẻ, chia sớt niềm vui, hạnh phúc với họ, th́ có ai ghét ḿnh đâu. Như vậy chúng ta sẽ hết khổ. Tâm của ḿnh càng mở rộng, càng vui vẻ. Ngược lại, càng hạn hẹp chừng nào th́ càng đau khổ chừng ấy. Cho nên tu là phải biết mở rộng ḷng ḿnh, đừng khép kín, đừng ích kỷ, đừng đố kỵ, đừng xấu xa, th́ chúng ta sẽ hết khổ.

Đó là nói tránh những điều ác. Kế đến c̣n làm thêm việc lành nữa. Như thế chẳng những ḿnh hết khổ mà c̣n được vui. Ví dụ ta ra đường, thấy một đứa bé đi học, bị sẩy chân té. Ta liền chạy lại đỡ nó, phủi cho sạch sẽ, rồi lượm tập vở lên gói ghém đàng hoàng, đưa nó ôm đi. Giúp nó qua tai nạn bất thường đó, nó có mang ơn ḿnh không? Tự nhiên khi b́nh tĩnh lại, nó biết cám ơn ḿnh. Chúng ta làm được việc đó có vui không? Làm cho người ta bớt khổ, đó là nguồn vui của ḿnh rồi. Mai chiều gặp lại, nó biết xá, biết cám ơn, th́ càng vui hơn.

Nên làm được một chút điều lành là tạo một cơ hội vui cho ḿnh. Ḿnh vui người cũng vui. Đó là tu. Trên đường tu chúng ta phải hiểu thấu đáo, tường tận ư nghĩa đó. Đừng nghĩ rằng miễn được phần ḿnh th́ thôi, c̣n ai khổ mặc họ. Phải nghĩ rằng, tất cả đau khổ của người chính là đau khổ của ḿnh. Giúp cho người là giúp cho ḿnh. Nhớ nghĩ như vậy, chúng ta sẽ vui hoài, đi đâu làm ǵ chúng ta cũng vui. Ngược lại, chúng ta khó làm được các điều vui.

Trong lá phái qui y của quí Phật tử có bốn câu kệ của Phật Ca-diếp:

Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ư

Thị chư Phật giáo.

Dịch:

Không làm các điều ác

Vâng làm các điều lành

Giữ tâm ư trong sạch

Là lời chư Phật dạy.

Không làm các điều ác là giữ giới luật, ngăn ngừa không tạo các tội lỗi. Vâng làm các điều lành là sống với tâm đạo đức. Việc lành lớn, việc lành nhỏ nào, ḿnh cũng sẵn sàng làm, sẵn sàng giúp người. Đó là tu. Chớ c̣n tu mà cứ nghĩ đi chùa tụng kinh lạy Phật đủ rồi, ai khổ mặc họ th́ chưa phải thật tu.

Chúng ta sống trong ḷng xă hội, nên mỗi cái xấu, mỗi cái dở của xă hội đều liên hệ, ảnh hưởng tới ḿnh. Cho nên người khổ th́ ḿnh cũng khổ. Người vui ḿnh cũng vui. V́ vậy mà chia sớt nhau cho bớt khổ để được vui. Đó là chúng ta tu trong thực tế. Đừng nghĩ chỉ có cúng Phật, tụng kinh mới là tu. Hiểu như vậy là hẹp ḥi, chưa thông suốt.

Thêm một việc nữa, có nhiều Phật tử biết làm lành lánh dữ, mà cứ gặp tai họa liên miên. Người ấy tự nghĩ: "Cả đời ḿnh làm lành, mà sao nay cứ tai họa này, mai tai họa kia? " Nghĩ như vậy nên thối tâm, hết muốn tu. Bởi thấy tu cũng không đi tới đâu, khổ cũng vẫn khổ, vậy th́ tu làm chi.

Tôi thường nói, nếu quí Phật tử chưa bao giờ bị người đó làm phiền, th́ khi gặp mặt họ, ta có giận không? Chắc chắn là không. C̣n nếu người đó từng làm phiền ḿnh, th́ khi gặp mặt họ, ta thấy dễ thương hay dễ ghét? Thấy dễ ghét ngay. Như vậy do có sự oán hờn, nên khi gặp lại chúng ta bực bội, không vui, có khi c̣n muốn làm cho họ đau khổ nữa. Đó là tôi thí dụ.

Như vậy chúng ta nghĩ rằng ḿnh chưa từng làm xấu, chưa từng hại người đó, mà tại sao họ lại hại ḿnh? Sự thật, hiện tại ḿnh chưa từng làm ǵ xấu với họ, nhưng biết đâu những năm về trước hay những đời trước, ḿnh đă từng làm khổ họ. Bây giờ gặp lại, tự nhiên họ có ác cảm với ḿnh ngay. Đó, là v́ chúng ta đă gieo nhân từ trước. Rồi cũng có những người chưa từng là bà con thân quyến ǵ của ḿnh, chưa từng là bạn thân của ḿnh, mà tại sao thấy mặt họ ta thương liền.

Vậy tâm dễ thương dễ ghét đối với mọi người đó là do đâu? Ngay đời này họ chưa tạo nhân tốt hay nhân xấu với ḿnh, nhưng nhân đời quá khứ c̣n thừa, cho nên gặp lại thấy dễ thương hoặc dễ ghét ngay. Người ḿnh thấy dễ ghét đó, người khác lại thấy dễ thương. Chớ nếu người ta ghét nhau hết chắc trần gian này khó có chồng có vợ, phải không? Như vậy để thấy rằng có nợ nần, oan trái với nhau nên mới gặp lại.

Nên nhiều người kể lại trong một xóm mà có chị xin việc làm, tới đâu cũng được nhận hết. C̣n có chị xin chỗ thấp nhất cũng không được nhận. Do đó chị oán trách xă hội bất công. Mà không biết tại nhân xấu của ḿnh đă tạo từ trước. Có lẽ đời trước ḿnh làm cho nhiều người ghét quá, nên bây giờ ai thấy mặt ḿnh cũng không thèm nh́n, không thèm thương. C̣n chị kia từng giúp đỡ kẻ này, người nọ nên đời này sanh ra, ai nh́n cũng thấy dễ thương.

Như vậy dễ thương, dễ ghét đều có nguyên nhân. Nguyên nhân ấy từ ai? Cũng từ ḿnh mà ra. Chúng ta hiểu được lư nhân quả trong ba đời, th́ sẽ không c̣n thắc mắc điều này nữa. Được tốt hay bị xấu, đều có nguyên nhân của nó, chớ không phải ngẫu nhiên mà ra. Nhưng người thế gian không hiểu như vậy, do đó cứ oán trách xă hội bất công, ưu đăi người này bạc đăi người kia. Ai được ưu đăi đều do phước lành của họ. Ai bị bạc đăi đều do những tội lỗi của họ mà ra.

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy sống trong cuộc đời, ḿnh không oán trách, hờn giận ai hết. Người xử sự xấu, ḿnh không trách họ, mà trách ḿnh hồi xưa không khéo tu, nên bây giờ bị người ta bạc đăi. Cứ tự nhắc: "Tại hồi xưa ḿnh không khéo tu, nên bây giờ bị người bạc đăi, cũng đúng thôi. " Đối với người được ưu đăi, th́ ḿnh khen hồi xưa chị (anh) ấy khéo tu, nên bây giờ được người ưu đăi, đó là gương cho ḿnh bắt chước. Nhờ nghĩ như vậy nên không ghét người được ưu đăi, cũng không buồn v́ ḿnh bị bạc đăi. Như vậy là người biết tu.

Chẳng những giới cư sĩ mà giới xuất gia cũng vậy. Có người ở trong chúng ai cũng thương, có người ai cũng ghét. Cứ mỗi khi người ta ghét, nói nặng nói nhẹ ḿnh, th́ ḿnh tự nhủ: "Cũng phải thôi, tại hồi xưa ḿnh không khéo tu. " Như vậy sẽ không giận, không phiền ai hết. Thấy người ta được thương, ḿnh mừng theo và bắt chước, ráng tu để về sau sẽ được như vậy. Tu là không có tâm oán hờn, không có tâm đố kỵ. Nếu không khéo chúng ta cũng giống như người đời thôi. Ở trong chúng thấy ai được thầy thương, huynh đệ rủ nhau ghét cay ghét đắng người ta. Đó là tâm đố kỵ, rồi nói xấu, kiếm cách này cách kia hại người ta. Như vậy th́ thật là tệ, không xứng đáng với tư cách một người xuất gia chút nào cả. Do biết rơ được lư nghiệp báo, nhân quả trong ba đời, chúng ta mới không hờn giận, không oán trách. C̣n không biết th́ chúng ta dễ hờn giận, oán trách. Như vậy là chướng trên đường tu.

Đức Phật nói pháp Tứ đế: một là Khổ đế, hai là Tập đế, ba là Diệt đế, bốn là Đạo đế. Khổ đế là cái khổ của kiếp người. Sanh, già, bệnh, chết v. v… là khổ. Các thứ khổ này tự nhiên hay có nguyên nhân? Có nguyên nhân. Nguyên nhân là Tập đế, nhiều thứ hợp lại thành nguyên nhân đau khổ. Biết nguyên nhân đau khổ rồi, chúng ta phải làm sao? Phải tiêu diệt nó, cho nên gọi là Diệt đế. Diệt đế là tiêu diệt hết nguyên nhân đau khổ. Nếu diệt hết nguyên nhân đau khổ, th́ quả đau khổ chấm dứt. Muốn diệt hết khổ th́ phải dùng phương pháp để tiêu diệt, đó là Đạo đế.

Như vậy Khổ, Tập là nhân và quả của đau khổ. Diệt, Đạo là nhân và quả của Niết-bàn giải thoát. Nếu dùng Đạo đế tiêu diệt hết nguyên nhân Tập đế th́ chúng ta sẽ hết khổ. Hết khổ là Niết-bàn, cho nên gọi là Diệt đế. Diệt đế là diệt hết nguyên nhân đau khổ, nên được an vui. Như vậy kinh điển Phật dạy chúng ta tu, phải lấy nhân quả làm nền tảng. Cái khổ nào cũng có nguyên nhân. Biết nguyên nhân rồi phải tiêu diệt nguyên nhân th́ khổ mới hết.

Phật tử chúng ta thường hiểu lầm. Do chúng ta có gây tạo nhân tham lam, nóng giận, nên bị người ta trả lại những nỗi đau khổ. Lúc đó ḿnh cứ trách ta khổ là do người khác làm ra, mà không nghĩ v́ nhân tham lam, nóng giận của ḿnh mà chuốc khổ về sau. Như vậy tu là phải diệt nhân tham lam, diệt nhân nóng giận th́ khổ mới không c̣n. Ba thứ tham lam, nóng giận, si mê không c̣n th́ hết khổ ngay. Sở dĩ chúng ta c̣n khổ là v́ ba thứ đó c̣n.

Như vậy muốn hết khổ phải diệt Tập nhân gây ra đau khổ. Diệt hết Tập nhân đau khổ th́ được an lạc. Nhưng diệt không có nghĩa là nói suông mà phải có phương pháp. Phương pháp đó gọi là Đạo đế. Tôi thường hay nói: "Đạo Phật là thực tế, là cụ thể, chớ không phải huyền bí, xa xôi. Nhưng Phật tử chúng ta bây giờ biến đạo Phật trở thành huyền bí hết. " Tại sao?

Như quí Phật tử biết ḿnh c̣n nóng giận, c̣n tham lam là c̣n đau khổ. Như vậy đau khổ là bệnh. Bệnh đó phát nguồn từ sự nóng giận, tham lam. Như từ vi trùng sanh ra các bệnh khổ. Biết được vi trùng gây bệnh rồi th́ phải kiếm thuốc trị vi trùng. Thuốc trị vi trùng là Đạo đế. Tiêu diệt được vi trùng làm cho ḿnh khổ th́ quả khổ mới hết. Ví dụ người bị bệnh rét, bác sĩ xem thấy bệnh này thuộc về vi trùng nào, t́m được vi trùng sanh ra bệnh rét này rồi mới cho toa thuốc. Bệnh nhân theo toa thuốc ấy, mua thuốc về uống th́ vi trùng sẽ chết, bệnh được hết. Nhưng có người tới bác sĩ chẩn mạch, lại không chịu xem bệnh, không chịu xin toa thuốc, mà cứ chắp tay thưa bác sĩ: "cho tôi lành bệnh! " lúc đó bác sĩ nói sao? Chắc bác sĩ cũng chắp tay vái lại: "Tôi xin bái. "

Đức Phật từng nói Ngài là Vua thầy thuốc, chúng sanh có bao nhiêu thứ bệnh th́ Phật có bao nhiêu thứ thuốc. Chúng sanh có tám muôn bốn ngàn phiền năo th́ đức Phật có tám muôn bốn ngàn pháp môn để trị. Thuốc nào trị bệnh đó. Bây giờ chúng ta tới Phật, không xin thuốc mà cứ chắp tay xin Phật cho con khỏe, cho con vui, cho con hạnh phúc v. v… th́ Phật phải làm sao đây? Chắc Phật cũng lắc đầu thôi. Phật chỉ có khả năng biết bệnh, cho thuốc, c̣n phần lấy thuốc về uống là của chúng ta. Đó là hạng người thứ nhất.

Hạng người thứ hai chịu chẩn bệnh, lấy toa, nhưng đem toa về đọc hoài. Đọc tới đọc lui đến thuộc ḷng mà bệnh vẫn không hết. Kẻ này tới kiện thầy thuốc: "Sao tôi đọc toa hoài mà không hết bệnh! " Bác sĩ sẽ nói sao? Tôi cũng bó tay luôn. Quí Phật tử thấy ḿnh có giống như vậy không? Phật dạy kinh để chúng ta biết phương pháp tu. Bây giờ ḿnh không chịu tu, mà cứ đọc kinh cho Phật nghe hoài. Đọc một thời gian rồi nói, sao tu mấy năm mà không hết phiền năo! Kinh thuộc ḷng mà phiền năo không hết. Đó là tại sao? Tại v́ chúng ta giống hệt người được toa thuốc mừng quá. Có toa thuốc hay cứ đem khoe người này người kia: "Tôi có toa thuốc hay" rồi đọc thuộc ḷng, như vậy hết bệnh sao được?

Trên đường tu chúng ta phải thật tu, chớ không phải chỉ tu mà bằng h́nh thức bên ngoài. Như kinh Bát-nhă, đa số quí vị thuộc ḷng, câu đầu là: Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhă ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Nghĩa là Bồ-tát Quán Tự Tại khi hành sâu trí tuệ Bát-nhă, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ nạn. Quí vị đọc từ trước đến giờ được mấy trăm lần rồi, mà có qua hết khổ nạn chưa? Như vậy là đọc toa thuốc, chớ không phải uống thuốc. Cho nên Phật nói lời vàng lời ngọc, lời đúng sự thật, mà ḿnh chỉ biết đọc lời đó, chớ không chịu ứng dụng tu nên không có hiệu quả. Rồi đổ thừa tu Phật không có kết quả. Lỗi ấy tại ai?

Trong kinh đức Phật dạy về trí tuệ Bát-nhă có chia làm ba phần: Văn tự Bát-nhă, Quán chiếu Bát-nhă và Thật tướng Bát-nhă. Ngài Thái Hư ở Trung Hoa ví Văn tự Bát-nhă như con thuyền, Quán chiếu Bát-nhă như chèo, dầm hay máy đuôi tôm. Thật tướng Bát-nhă như bờ bên kia. Người muốn qua sông, đến bến đ̣, có đ̣ đậu sẵn, thuyền đậu sẵn. Nhưng kẻ ấy bước xuống thuyền cứ ngồi đó hoài, không chịu chèo bơi, không chịu quay máy, th́ chừng nào qua tới bờ bên kia? Chắc tới thuyền mục rồi ch́m luôn, chớ qua bờ không được.

Chúng ta học Văn tự Bát-nhă là học lời kinh Phật dạy. Kế đến ḿnh phải soi, phải xem xét tức là Quán chiếu. Quán chiếu là soi sáng lại nơi thân tâm ḿnh do ngũ uẩn gồm: sắc uẩn là đất, nước, gió, lửa tụ họp lại thành thân; rồi thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, đó là tâm. Thân tâm này là tướng duyên hợp. Xem cho thấu đáo chỉ thấy nó là một giả tướng tạm bợ, chớ không có thật. Thấy rơ ràng như vậy, nhất định khổ ách nào cũng qua hết.

Thân đă không thật th́ ai chửi có thậät đâu mà nói tai nạn. Ḿnh đă không thật th́ bệnh hoạn cũng không thật. Do thấy tất cả đều không thật nên khổ nạn nào cũng qua hết, không c̣n bị các thứ trở ngại. Từ không bị trở ngại, chúng ta mới đến được bờ bên kia. Đó là Thật tướng Bát-nhă, là chỗ giải thoát an toàn. Như vậy người tu phải đủ ba chặng: Văn tự, Quán chiếu, rồi mới tới Thật tướng.

Bây giờ chúng ta mới chỉ có Văn tự thôi, mà đă hài ḷng với chỗ Văn tự đó rồi. Thuộc ḷng bao nhiêu kinh, cứ đem ra đọc lại cho Phật nghe. Giống hệt như đứa bé đi học, thuộc bài rồi trả cho thầy cho cô, xong là xếp sách lại. Như vậy làm sao chúng ta hết khổ, làm sao chúng ta qua được bờ bên kia?

Đó là chỗ chân thật mà lâu nay chúng ta quên, cứ hiểu mơ màng rồi ngỡ đọc nhiều kinh là tu giỏi. Cho nên có Phật tử đi chùa năm mười năm, mà hỏi đă hết phiền năo chưa, th́ chỉ bớt chừng hai chục phần trăm, c̣n tám chục phần trăm vẫn như cũ. Mấy cô ở chùa cũng vậy, tu mười năm, hai mươi năm, nếu hỏi hết phiền năo chưa, cũng không dám nói hết.

Tại sao chúng ta tu mà không hết phiền năo? Là v́ không thật t́nh ứng dụng đúng lời Phật dạy. Bởi không ứng dụng đúng nên phiền năo không sạch. Phiền năo không sạch tức tội lỗi không hết. V́ vậy tu mà vẫn khổ hoài. Người đời thường nghĩ quí thầy, quí cô vô chùa th́ lúc nào cũng cười, lúc nào cũng tươi vui. Nhưng có khi bất thần gặp một hai cô ngồi khóc.

Đó là tại sao? Tại v́ c̣n phiền năo, nên chạm tới liền buồn, buồn mới khóc. Tu mà không hết khổ là v́ tu chưa đúng, chưa đến nơi.

Qua pháp Tứ đế, chúng ta thấy rơ Phật nhắm vào nhân đau khổ, tiêu diệt nó, chớ không nói tiêu diệt quả đau khổ. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn có bài kệ, nguyên văn chữ Hán:

Chư hành vô thường

Thị sanh diệt pháp

Sanh diệt diệt dĩ

Tịch diệt vi lạc.

Nói các hành vô thường. Các hành là thân hành động, tâm ư hành động, và tất cả sự sanh diệt của muôn vật đều gọi là hành. Các thứ đó đều vô thường, đều sanh diệt cho nên nói chư hành vô thường. Quí vị thấy như lúc chúng ta c̣n trẻ th́ đầu xanh, rồi lật bật một thời gian nh́n lên đầu thấy vài sợi tóc bạc. Lật bật một lúc nữa, th́ thấy hết phân nửa tóc bạc, chẳng bao lâu sau nh́n lên đầu như là thúng bông. Đó, vô thường chuyển biến dần dần và không bao giờ dừng lại.

Thân như vậy, tâm cũng như vậy, một ḍng chuyển biến không ngừng. Muôn sự muôn vật ở trước cũng vậy. Như ngày nay chúng ta xây được căn nhà bê tông, thấy chắc biết mấy. Nhưng năm mươi năm sau nó cũng phải hư. Có cái ǵ không đổi dời, không biến chuyển đâu. Biết rơ như vậy th́ sự vật là thật hay không thật. Nếu thật th́ nó phải nguyên vẹn, không đổi thay; c̣n nó đổi thay th́ hết thật rồi. Cho nên các hành là vô thường là pháp sanh diệt.

Như vậy muôn sự muôn vật ở trên thế gian là vô thường, là sanh diệt. Nếu là vô thường, là sanh diệt tức là đau khổ. Già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Chính v́ vô thường đó mà đi tới bại hoại, bại hoại là đau khổ. Cho nên vô thường là nhân đưa đến quả đau khổ. V́ nó là pháp sanh diệt cho nên chúng ta không c̣n măi măi như vậy được.

Sanh diệt diệt dĩ, là sanh diệt mà diệt rồi th́ tịch diệt vi lạc, tức lặng lẽ là vui. Lặng lẽ đó là Niết-bàn. Khi cái vô thường sanh tử lặng, th́ Niết-bàn an lạc, tức cái vô sanh mới là an lạc chân thật. Như vậy Phật dạy chúng ta tu từ pháp sanh diệt chuyển lần đến vô sanh. Sanh diệt là đau khổ, vô sanh là an vui. Thế th́ tu Phật là t́m vui hay t́m khổ? Mà muốn t́m vui th́ trước phải biết khổ. Biết khổ mới t́m vui. Chớ c̣n ở trong khổ mà không biết khổ; trong khổ mà nghĩ là vui, th́ đâu chịu bỏ khổ.

Cho nên đức Phật nói khổ để chúng ta nhận thức chín chắn cuộc đời là đau khổ, chúng ta mới cố gắng tiêu diệt nhân đau khổ. Diệt hết nhân đau khổ th́ mới thật là vui. Như vậy có thể kết luận đạo Phật bi quan không? Nếu từ khổ đi tới hết khổ, th́ đạo Phật là đạo diệt khổ, đưa chúng ta tới chỗ an vui. Vậy mà nhiều người mới nghe đạo Phật nói Khổ đế - cuộc đời là đau khổ - liền nói đạo Phật bi quan! Mà không ngờ nói khổ là chỉ cho chúng ta nhận thức như vậy, để phăng t́m và tiêu diệt nguyên nhân của nó th́ đau khổ hết. Đau khổ hết th́ được an vui vĩnh viễn, gọi là vui Niết-bàn.

Chúng ta là những hành giả đang cố gắng, đang vươn lên tới mục đích an vui giải thoát. Cũng như người leo núi, từ dưới chân núi muốn leo tới chóp núi, th́ lúc đầu là khổ hay vui? Là nhọc nhằn, là khổ. Nhưng khi lên đến chóp núi rồi, ngồi yên lặng hóng gió mát liền nghe khỏe, thảnh thơi. Như vậy đang leo núi là khổ, nhưng đến chóp núi là vui. Cho nên trên đường tu, chúng ta chịu khó, chịu cực làm cho ṃn, cho tan vỡ các nhân đau khổ, khi hết nhân đó chúng ta sẽ được an vui. Công phu đó gọi là tu hành.

Nhiều người nghe nói tu hành liền nghĩ méo mó là tu th́ phải bị hành. Nên họ bảo vô chùa tu phải thức khuya, dậy sớm, tụng kinh ngồi thiền, phải ăn muối ớt, muối tiêu, hoặc chịu đói chịu khát, vậy mới là tu, v́ tu là hành mà. Chữ tu hành nghĩa là tu phải thực hành lời Phật dạy, chớ không phải tu hành là hành phạt.

Để kết thúc bài này tôi dẫn lời Thiền sư Măn Giác đời Lư, để nhắc cho quí vị thấy kinh Phật và lời Tổ không hai, không khác. Lúc Ngài gần tịch, Ngài làm một bài thơ:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhăn tiền quá

Lăo tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai

Như vậy bài kệ trên có giống bài kệ này không? Một bên là chư hành vô thường, một bên nói Xuân khứ bách hoa lạc, xuân đáo bách hoa khai. Xuân khứ tức là mùa xuân đi rồi th́ trăm hoa rụng. Mùa xuân đến th́ trăm hoa nở. Như vậy hoa rụng, hoa nở, theo ḍng thời gian xuân, hạ, thu, đông. Thời gian chuyển biến th́ sự vật theo đó cũng chuyển biến. Thời gian là vô thường, sự vật cũng vô thường. Như vậy muôn vật trong cơi đời này đều chuyển biến như một ḍng nước. Nó cứ trôi đi không dừng.

Hai câu kế Sự trục nhăn tiền quá, lăo tùng đầu thượng lai. Cây cỏ hoa lá theo thời tiết đổi thay, phai tàn sanh trưởng, th́ con người theo thời tiết cũng như vậy. Mới ngày nào tóc xanh, bây giờ ngó lại trên đầu tóc đă bạc rồi. Như vậy không có ǵ dừng lại được. Bốn câu thơ này nói lên ḍng đời là một ḍng sanh diệt đổi thay. Con người cũng theo đó mà thay đổi không dừng. Nhưng hai câu kết rất lư thú:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai.

Chớ bảo mùa xuân qua rồi th́ hoa rụng hết, bởi v́ đêm hôm ở trước sân, c̣n một cành mai nở trắng xóa. Hoa theo thời mà rụng, tức mùa xuân th́ hoa nở, hết xuân th́ hoa rụng. Đến mùa đông là mùa tàn tạ nhất. Tuy tàn tạ không c̣n hoa, nhưng sự thật, đừng hiểu lầm rằng không c̣n một hoa nào nở, v́ có một cành mai nở trắng xóa trước chùa. Cành mai đó để nói lên điều ǵ? Để nói rằng nơi ḿnh c̣n có cái chân thật. Cái chân thật đó không bị thời gian cuốn đi. Cái chân thật đó không bị vô thường sanh diệt bào ṃn, nó vẫn nguyên vẹn ở nơi ḿnh như cành mai nở vào mùa đông.

Chúng ta thấy cái nh́n của các Thiền sư đúng như cái nh́n của chư Phật. Phật nói sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui. Tới chỗ lặng lẽ chân thật, cái đó không mất, cái đó mới là thật. Ở đây cũng vậy, bản thân con người, bản thân sự vật bị thời gian lôi kéo, vô thường sanh diệt; nhưng trong đó có một cái chưa bị thời gian chi phối, chưa bị tất cả pháp làm cho sanh diệt. Nó c̣n vẹn toàn giống như một cành mai mùa đông. V́ thế chúng ta mới tu, chớ nếu sanh diệt hết th́ c̣n ǵ để tu.

           Trong cái sanh diệt có cái chưa từng sanh diệt. Nhà thiền thường hay ví dụ h́nh ảnh hoa sen trong lửa. Trong ḷ lửa cháy hừng hực, mà hoa sen vẫn tươi thắm, đó là sao? Ḷ lửa chỉ cho thân này vô thường, cảnh đời vô thường, đổi thay giống như ḷ lửa đang thiêu đốt. Tuy nhiên trong đó có một cành hoa sen tươi thắm, không bị thứ ǵ làm cho nó khô héo hết. Đây là chỉ cho cái thật ḿnh, nó sẵn có, vượt qua hết tất cả vô thường, tất cả sanh diệt. Do đó chúng ta mới có khả năng thắng hết, qua hết các vô thường để trở về cái chân thường chân lạc. Đó là mục đích chánh của người tu chúng ta vậy.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]