[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập IV)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


PHÁP TU CĂN BẢN CỦA HỆ NAM TÔNG VÀ

PHÁP TU CĂN BẢN CỦA HỆ BẮC TÔNG

Giảng tại chùa Dược Sư - TP. HCM 12-2000

 

Hôm nay, tôi giảng buổi cuối năm với đề tài Pháp tu căn bản của hệ Nam tông và pháp tu căn bản của hệ Bắc tông. Qua đó, đối chiếu cho quí vị thấy mỗi phái có một hướng nh́n khác nhau, v́ vậy chia thành Nam tông, Bắc tông riêng biệt.

Hệ Nam tông lấy Tứ đế làm pháp tu căn bản. Trong Tứ đế, phần Đạo đế tức Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, th́ Bát chánh đạo là phần căn bản tu hành. Bắc tông có nhiều pháp nhưng lấy Lục độ làm căn bản tu hành. Như vậy chúng ta đối chiếu pháp Lục độ của Bắc tông và Bát chánh đạo của Nam tông, để thấy tinh thần khác nhau của mỗi bên.

Nói về Nam tông, Bát chánh đạo là pháp căn bản, v́ vậy người tu phải nắm vững pháp này. Tôi hiểu và dịch Bát chánh đạo là tám đoạn đường ngay thẳng đưa chúng ta đến Niết-bàn. Tám đoạn đường chớ không phải tám nẻo đường. V́ mỗi một đoạn đường là một chặng, chúng ta đi từ chặng số một đến chặng số hai số ba, cuối cùng đến chặng số tám th́ viên măn sự tu hành, tức viên măn con đường đi đến Niết-bàn. Cho nên tôi gọi là tám đoạn đường đưa đến Niết-bàn.

Tám đoạn đường đó là ǵ? Thứ nhất là Chánh kiến, thứ hai là Chánh tư duy, thứ ba là Chánh ngữ, thứ tư là Chánh nghiệp, thứ năm là Chánh mạng, thứ sáu là Chánh tinh tấn, thứ bảy là Chánh niệm, thứ tám là Chánh định.

Chánh kiến là nhận định đúng đắn chân chánh. Nhận định đúng đắn từ đâu mà ra, hàng phàm phu có nhận định này không, muốn có chánh kiến phải làm sao? Chỗ này lâu nay nhiều người lúng túng khi nghiên cứu nó. Ai cũng có thể nhận định thế này thế kia, nhưng làm sao biết đó là nhận định đúng đắn. Nếu không nắm vững chỗ này, tự nhiên chúng ta sẽ lúng túng, không biết thế nào là nhận định đúng đắn, tư duy đúng đắn. Nếu nhận định sai lầm th́ tư duy cũng sai lầm. Vậy nhận định đúng đắn phát nguồn từ đâu?

Chúng ta nhớ trong Tam tuệ học, thứ nhất là Văn tuệ. Có Văn tuệ rồi mới tới Tư tuệ. Ở đây cũng vậy, muốn có nhận định đúng đắn trước hết phải học Kinh tức lời Phật, Tổ dạy. Nhờ học kinh, chúng ta thấm nhuần giáo pháp chân chánh, từ đó nhận định mới đúng, tư duy mới đúng. Đó là điều hết sức rơ ràng. Nếu không học kinh Phật th́ khó có chánh kiến được. Pháp tu này thuộc về Thanh văn thừa, nên bước đầu là nghe lời Phật dạy. Văn là nghe, thanh là âm thanh, nghe được âm thanh Phật dạy mới thấu hiểu. Nhờ thấu hiểu mới có trí tuệ nhận định đúng đắn.

V́ vậy muốn tu theo Nam tông, trước hết chúng ta phải học kinh tức có Văn tuệ, rồi mới đến Tư duy tuệ, và sau cùng là Tu tuệ. Thế nên Văn tuệ là bước đầu để có Chánh kiến. Chúng ta tu, làm việc, phải có nhận định đúng đắn mới suy nghĩ đúng đắn. Suy nghĩ đúng đắn mới có ngôn ngữ đúng đắn, tức Chánh ngữ.

Suy nghĩ đúng là suy nghĩ như thế nào? Có phải suy nghĩ làm ăn thế này mau giàu, thế kia mau phát tài không? Không phải vậy. Giáo lư căn bản trong hệ A-hàm luôn chỉ cho chúng ta thấy tất cả pháp là vô thường, khổ, không, vô ngă. Nghĩ như thế là suy nghĩ đúng với những ǵ Phật dạy. Đó là Chánh tư duy. Nhờ có chánh kiến nên mới có Chánh tư duy.

Suy nghĩ đúng rồi, chúng ta nói năng hay dạy bảo ai cũng đúng với chánh pháp của Phật dạy, đó là Chánh ngữ. Hành động đúng như chánh pháp là Chánh nghiệp. Sống cuộc đời an lành giải thoát không bị các nghiệp ác trói buộc là Chánh mạng. Từ Chánh mạng chúng ta cố gắng tinh tấn tiến lên là Chánh tinh tấn. Từ Chánh tinh tấn, chúng ta chuyên tâm niệm các pháp như Tứ niệm xứ… là Chánh niệm. Có Chánh niệm mới đi tới Chánh định. Trong chánh định, định cuối cùng là Diệt tận định. Được Diệt tận định, cũng gọi là Diệt thọ tưởng định, tức giải thoát sanh tử chứng Niết-bàn.

Ngoại đạo cũng có những thứ định như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, nhưng không có Diệt tận định. Chỉ những người tu Phật, sắp chứng A-la-hán mới đi tới Diệt tận định. Diệt tận định th́ nhập Niết-bàn, vô sanh, giải thoát sanh tử.

Cho nên Chánh kiến là chặng đường ban đầu, chặng đường học Phật. Chúng ta học được chánh pháp của Phật, hiểu đúng rồi mới suy nghĩ đúng. Nhưng không phải học như con vẹt, học rồi c̣n suy gẫm, t́m hiểu. Suy gẫm thấy đúng chúng ta mới có lời nói và hành động đúng. Người đến với đạo Phật, tu theo Thanh văn th́ sở nguyện phải chứng quả Niết-bàn, giải thoát sanh tử. Muốn thế cần có đủ tám điều này: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Mỗi một điều là một chặng đường. Đó là đại cương giáo lư căn bản của hệ Nam tông.

Bắc tông th́ lấy Lục độ làm căn bản. Lục độ tức sáu điều cứu thoát: Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Sáu điều này có công năng chuyển xấu dở thành tốt đẹp nên gọi là Lục độ. V́ vậy dùng Lục độ để độ lục tệ. Lục tệ tức là sáu điều xấu: san tham, phá giới, sân nhuế, giải đăi, tán loạn, ngu si. Bố thí độ san tham, tŕ giới độ phá giới, nhẫn nhục độ sân nhuế, tinh tấn độ giải đăi, thiền định độ tán loạn, trí tuệ độ ngu si. Kiểm lại chúng ta có đủ cả sáu tệ, cho nên phải dùng Lục độ để cứu ḿnh từ xấu tệ trở thành hay tốt.

Tôi sẽ đối chiếu Bát chánh đạo của Nam tông và Lục độ của Bắc tông cho quí vị thấy. Bát chánh đạo mở đầu là chánh kiến, c̣n Lục độ mở đầu là bố thí. Hai bên khác nhau thế nào? Nam tông là phải thấy đúng như chánh pháp của Phật, c̣n Bắc tông đầu tiên phải có đủ ḷng từ bi. Có từ bi mới bố thí, không có từ bi làm sao bố thí.

Như vậy với Bắc tông, bước đầu phải có ḷng từ bi thương người. Bởi thương người nên ai khổ ḿnh giúp, ai đói ḿnh cho cơm gạo. Nhưng đói có đói của thân và đói chánh pháp. Người muốn nghe chánh pháp mà không được nghe là đói chánh pháp, hạng này phải bố thí chánh pháp. Đói cơm th́ cho cơm, đói pháp th́ cho pháp, nên nói bố thí tài, bố thí pháp. Bố thí pháp thuộc về tinh thần, bố thí tài thuộc về vật chất. Người cần những điều thiết yếu nào chúng ta giúp thứ ấy, đó là tâm bố thí. Tâm bố thí đó phát nguồn từ ḷng từ bi. Do thương người nghèo thiếu, ta chịu không nổi nên cứu giúp.

Bố thí trừ bệnh bỏn sẻn tham lam. Ta có tiền của, người ta đói không cho là bỏn sẻn. Ta biết pháp biết đạo, người ta thèm khát muốn được nghe, mà không chịu giảng dạy là bỏn sẻn. Cho nên nhờ có tâm từ bi, chúng ta giúp người bằng những phương tiện vật chất cho người được an ổn. Kế đến giúp phần tinh thần là chánh pháp. Như vậy là chúng ta tu hạnh bố thí, để tiêu diệt ḷng tham lam.

Ví dụ quí Phật tử mỗi tháng làm được một triệu bạc, nuôi sống ḿnh khoảng bảy tám trăm, c̣n dư vài trăm. Có người đói thiếu quá, họ cần một trăm để qua cơn đói, ḿnh nghĩ sao? Ta dư để dành khi bệnh hoạn có tiền xài nên không giúp. Như vậy là tâm keo kiệt, ích kỷ chỉ biết nghĩ tới ḿnh. Ta chưa đau đă lo để dành, người ta đói không thèm cho. Người đang đói và ḿnh chưa đau, việc nào cần hơn? Cứu người hết đói là một nhu cầu cấp bách. C̣n ḿnh chưa đau mà để dành th́ xa quá, như vậy là ích kỷ, keo kiệt rồi. Ta có dư, thấy người khác đang cần ḿnh giúp. Nhờ thế tâm tham lam của ḿnh không c̣n. Nếu cứ lo để dành, tích lũy hoài, được một đ̣i hai, được hai đ̣i ba, cho tới trăm ngàn muôn ức, để dành hoài không chán, đó là đại tham. Nên bố thí để diệt tâm tham lam keo kiệt. V́ vậy nói bố thí độ san tham. Đó là pháp tu thứ nhất của Lục độ.

Thứ hai, Tŕ giới độ phá giới. Nghĩa là chúng ta giữ giới để tiêu diệt lỗi phá giới của ḿnh. Bởi v́ người tu thọ giới rồi, tuy có giữ nhưng tương đối thôi, chớ không trọn vẹn tuyệt đối. Thí dụ hàng xuất gia thọ Sa-di, chiều Phật không cho ăn cơm. Nhưng đói quá cũng lén ăn cháo hoặc mua bánh ḿ, như vậy có phá giới không? Có. C̣n hàng cư sĩ tại gia có giữ tṛn năm giới không? Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Giả sử giữ được các giới khác, nhưng tới giới nói dối th́ sao? Nhiều Phật tử làm ăn buôn bán bảo muốn có lời phải nói dối, như vậy có phá giới không?

Quí vị mới thấy chúng ta thọ giới của Phật là để khuôn ḿnh trong ṿng đạo đức, để thoát khỏi những khổ đau, nhưng thật sự chúng ta khuôn trong đó không nổi, nên cứ xé rào hoài. Xé rào gọi là phá giới, v́ giới là hàng rào. Thường trong luật dạy "pḥng phi chỉ ác" tức là ngừa đón lỗi lầm, xấu ác. Cho nên giới là hàng rào bao bọc để chúng ta đừng rớt vào hố tội lỗi. Nhưng nếu ḿnh xé rào th́ phải rớt thôi.

Phật v́ thương nên dạy chúng ta tu để đạt được bản nguyện giải thoát sanh tử, chấm dứt khổ đau. Nhưng chúng ta tu th́ tu, mà những điều Phật răn Phật cấm cũng cứ lén lén làm. Lén lén chớ không phải công khai, song cũng gọi là phá giới. Phá giới th́ nhất định rơi vào hố tội lỗi. Bởi giới này phá được th́ giới khác cũng phá. Như phá giới nối dối được, lâu lâu có tiệc tùng ai mời uống rượu, ḿnh tự nghĩ uống chút chút chắc không sao, nên phá thêm giới thứ hai nữa. Đó là lư do khiến chúng ta rơi vào hố tội lỗi. Giới là nền tảng bảo bọc chúng ta không rơi vào tội lỗi. Nếu người tu rơi vào tội lỗi th́ làm sao bố thí lợi ích chúng sanh. Cho nên muốn bố thí tốt chúng ta phải giữ giới, giữ giới th́ không có lỗi phá giới. Cho nên độ thứ hai là tŕ giới.

Thứ ba là Nhẫn nhục. Trong chúng ta có ai không nóng giận đâu. Nóng giận là bệnh phổ thông, ai cũng có hết. Bởi vậy Phật dạy phải tu nhẫn nhục để trị bệnh nóng giận, nên nói nhẫn nhục độ sân nhuế. Bố thí phá được tệ tham lam, giữ giới phá được tệ phá giới. Nhẫn nhục phá được tệ nóng giận. Ai cũng biết nóng giận là tệ, nhưng sao lại chứa, nó là tệ th́ bỏ đi.

Chúng ta thường tự cho rằng ḿnh làm chủ ḿnh, vậy những ǵ tệ sao không đuổi nó ra, những ǵ tốt mới nên nuôi dưỡng. Ḿnh làm chủ mà cái tệ th́ chứa, như vậy ông chủ này đă dung ăn trộm trong nhà. Nóng giận là tệ mà chúng ta dung dưỡng th́ làm sao về Cực lạc, làm sao được Niết-bàn. Muốn được Niết-bàn, muốn về Cực lạc phải bỏ nóng giận. Muốn bỏ nó phải có phương pháp. Phương pháp ấy là nhẫn nhục.

Sao gọi là nhẫn? Không giận là nhẫn. Làm sao để không giận? Ví dụ người ta chửi ḿnh, lúc đó chúng ta nổi nóng lên miệng sắp la. La th́ hiền hay dữ. Vừa nổi nóng lên mở miệng nói là dữ. Bây giờ muốn nhịn làm sao đây? Có người bảo nóng, uống ly nước lạnh cho nó mát lại. Như vậy được chưa? Uống vô mát, một lát nóng lại nữa th́ sao? Chẳng lẽ uống cả chục ly nước sao, như vậy chắc bể bụng. Có người bảo nóng quá niệm Phật. Niệm Phật một hồi hết niệm, nhớ lại nổi nóng nữa. Như vậy niệm Phật th́ bớt, buông ra th́ nóng lại. Đó là điều rất khó giải quyết.

Theo tôi th́ thế này. Có hai trường hợp, khi chúng ta nổi nóng lên trước nhất là phải nhịn. Làm sao để nhịn? Lúc đó quí vị thử đọc câu thần chú này "Nói là dại, nhịn là khôn". Nghĩa là khi nóng trong bụng quá, sắp la th́ đọc câu thần chú trên. "Nói là dại, nhịn là khôn"… đọc một hồi quên giận. Lúc đó mở miệng ra th́ nói bậy, nói bậy là gây chuyện thương tổn với nhau, là dại rồi.

Đọc như thế để qua cơn nóng, nhưng muốn tẩy hết nóng giận phải khởi "Quán Từ Bi". Quán từ bi là quán thế nào? Ta nên xem xét như vầy, người đang nổi nóng chửi ḿnh, gương mặt dễ thương không, lời nói dễ nghe không? Mặt họ đỏ, miệng nói bậy. Mặt đỏ nói sàm có phải là người điên chưa? Họ đang điên.

Chúng ta khởi nghĩ họ đang bệnh, đang điên cuồng; mà người bệnh, người điên cuồng đáng thương hay đáng giận? Ḿnh tỉnh sáng, người ta bệnh th́ phải thương mà tha thứ họ. Như vậy nhờ khởi ḷng từ bi, chúng ta bỏ qua được hết. Chớ cứ nghĩ họ nói như thế là gác ḿnh, nói nặng ḿnh th́ không bao giờ bỏ được. Nghĩ tới họ là người đáng thương nên hết giận luôn. Đó là lấy nước từ bi tẩy sạch lửa hận trong tâm ḿnh, không trách, không hờn ǵ cả.

Cho nên đối trị nóng giận, trước dùng nhẫn nhục cho qua cơn, đừng nói bậy. Qua cơn nóng giận rồi phải khởi quán từ bi để dẹp sạch ḷng nóng giận. Đó là chúng ta khéo tu, biết tu. Đa số người tu nghe nói nhịn không biết nhịn làm sao? Có người nhịn và bảo "tôi nhịn một lần rồi nghen", người kia vẫn tiếp tục mắng chửi th́ bảo "tôi nhịn hai lần rồi nghen", tới lần thứ ba hết nhịn nổi th́ nổ tung. Như vậy chỉ là kềm chế, chớ chưa biết nhẫn. Kềm chế th́ có giới hạn, tới mức nào đó chịu hết nổi th́ nổ tung. Cho nên chúng ta phải khéo tu. Chúng ta biết nhẫn nhục, biết quán từ bi th́ tâm sân hận sẽ không c̣n, nên nói nhẫn nhục độ sân nhuế. Đó là độ thứ ba.

Thứ tư là Tinh tấn. Tất cả chúng ta ai cũng có bệnh lười biếng, không nhiều th́ ít. Người lười biếng nhiều tới giờ tụng kinh, nhất là buổi khuya nghe đánh kiểng, lăn qua trở lại cựa ḿnh không nổi nên nằm ngủ luôn. Người lười biếng ít lăn qua trở lại năm lần mười lượt rồi cũng ráng trỗi dậy, nhưng uể oải lắm. Người tinh tấn nghe kiểng th́ trỗi dậy liền, không chần chờ, chậm lụt.

Phật tử mỗi tối có một thời kinh hoặc sám hối, nhưng hôm nào trong ḿnh hơi uể oải một chút th́ nghĩ bữa nay mệt quá, thôi để mai sẽ sám hối bù. Đó là hiện tượng giải đăi, lười biếng. Khi thấy trong người uể oải, ḿnh cố gắng thức dậy súc miệng rửa mặt, mặc áo vô lễ Phật sám hối hoặc tụng kinh. Nhờ mạnh mẽ như vậy, xuất hạn mồ hôi hết mệt. Ngược lại, vừa uể oải liền trùm mền là sẽ nằm luôn.

V́ vậy căn bản của sự tu là phải tinh tấn, nhờ tinh tấn chúng ta tiến mới nhanh. Trong kinh kể rằng, đức Di-lặc hồi xưa là bạn đồng tu với Phật Thích-ca. Nhưng ngài Di-lặc bị một lỗi là cầu danh, thường đến nhà quan tướng giáo hóa để được danh lợi, nên việc tu hành chậm trễ. C̣n đức Phật Thích-ca rất tinh tấn, Ngài nỗ lực tu nên thành Phật đă hơn hai ngàn năm rồi, mà đức Di-lặc chưa thành Phật.

Như vậy tinh tấn là gốc để chúng ta đạt được đạo. Đă là người tu th́ phải cố gắng tinh tấn, đừng chần chờ, đừng giải đăi. Giải đăi làm cho ḿnh tốn rất nhiều thời giờ, trải qua nhiều đời nhiều kiếp vẫn chưa đạt đạo. Chúng ta đừng sợ tinh tấn sẽ sanh bệnh hoạn. Tinh tấn đúng thời đúng tiết th́ không bệnh hoạn ǵ hết. Trừ những người tinh tấn quá đáng mới sanh ra bệnh hoạn.

Chúng ta tu phải cố gắng tinh tấn, không nên lười trễ. Bởi v́ con ma lười nó đă nằm sẵn trong tâm ḿnh, chờ có cơ hội nó liền lôi kéo, xúi giục ḿnh ngủ cho ngon, chơi cho khỏe, không chịu cố gắng tu. Nhờ tinh tấn mà ma lười không thể lôi kéo được chúng ta. Nên Tinh tấn là độ thứ tư.

Thứ năm là Thiền định độ tán loạn. Người tu Thiền khi ngồi lại tâm nghĩ tứ tung, người tu niệm Phật cũng thế. Do tâm không chuyên nhất nên vọng tưởng dẫn đi tứ tung. Cho nên phải dùng thiền định để phá tệ tán loạn. Thiền định là thế nào? Đức Phật dạy người niệm Phật muốn Phật Di-đà đón về Cực lạc th́ phải niệm Phật đến nhất tâm. Trong kinh Di-đà nói rơ từ một ngày cho tới bảy ngày, niệm Phật nhất tâm bất loạn, th́ khi lâm chung Phật A-di-đà cùng chư Thánh chúng hiện ở trước mặt đón ḿnh về Cực lạc.

Nhất tâm bất loạn là không c̣n một chút loạn tưởng nào, chỉ có nhất tâm. Có một số người niệm Phật c̣n lầm lẫn nhất tâm với nhất niệm. Nhất niệm là chỉ c̣n một niệm Nam-mô A-di-đà Phật, không có niệm nào chen vô đó cả. Nhưng c̣n niệm th́ chưa phải nhất tâm. Kinh nói niệm tới chỗ vô niệm, nghĩa là không c̣n một niệm nào nữa hết. Nhờ câu niệm Phật ta dứt được những niệm khác, đến khi câu niệm Phật cũng lặng luôn, đó mới gọi là nhất tâm. Được nhất tâm th́ Phật A-di-đà và Thánh chúng mới hiện tiền.

Chư Tổ nói pháp tu Tịnh độ là dùng phương tiện đạp gai lấy gai mà lể. Người lỡ đạp gai trong chân, nên mượn cái gai khác bén hơn để lể bỏ gai cũ. Gai cũ đă bỏ rồi, nếu c̣n để cây gai mới ở đó th́ sao? Th́ cũng như không. Cho nên gai cũ lể được rồi, gai mới cũng phải ném luôn. Hai cây gai ném hết lúc đó chân mới lành. Niệm Phật là dùng câu niệm Phật để trị tâm tán loạn. Tán loạn hết rồi th́ câu niệm Phật cũng buông luôn. Nên nói niệm đến chỗ vô niệm.

Người tu Thiền, theo kinh Đại Tứ Niệm Xứ của Nam tông dạy rằng: Người quán Tứ niệm xứ từ một ngày, hai ngày, ba ngày đến bảy ngày mà tâm không dời đổi, không xao lăng, người đó sẽ chứng từ Tam quả A-na-hàm đến Tứ quả A-la-hán. A-la-hán là vô sanh. Muốn được quả vô sanh, chứng Niết-bàn th́ cũng phải trụ tâm nơi Tứ niệm xứ. Trụ tâm nơi Tứ niệm xứ tới không c̣n chỗ trụ nữa, đó là Niết-bàn. C̣n người tu theo Thiền tông buông xả tất cả những niệm loạn tưởng. Buông xả tới chừng nào, suốt ngày đi đứng nằm ngồi không c̣n một niệm loạn tưởng, mới ngộ được lư Thiền. Chỗ cứu kính cũng giống pháp môn niệm Phật.

Tóm lại, phương pháp tu nào cũng phải dẹp hết loạn tưởng. Nhờ dẹp bỏ loạn tưởng chúng ta ngộ đạo, nhờ dẹp bỏ loạn tưởng chúng ta được Niết-bàn, nhờ dẹp bỏ loạn tưởng chúng ta được về Cực lạc.

Loạn tưởng xấu dở ở chỗ nào mà chúng ta phải dẹp bỏ? Như chuyện xấu bậy th́ bỏ được, c̣n chuyện hay tốt bỏ uổng quá. Ḿnh nghĩ mai đi làm từ thiện, mốt đi nghe pháp, tốt quá bỏ sao đành. Nhưng c̣n nghĩ là c̣n loạn tưởng. Bởi v́ trong kinh Phật dạy, chúng ta sanh tử luân hồi trong sáu đường, thấp nhất là địa ngục, kế đó là ngạ quỉ, súc sanh, rồi người, a-tu-la, trời. Trong sáu đường đó, ba đường ác, ba đường thiện. Nếu nghĩ xấu ác, tạo tội nặng th́ đọa địa ngục. Nghĩ xấu ác với tâm gian xảo, keo kiệt th́ đọa ngạ quỉ. Nghĩ xấu ác với tâm si mê th́ đọa súc sanh. Đó là ba đường ác. Nếu nghĩ phải, xứng đáng tư cách con người th́ sanh làm người. Nghĩ lành nhưng c̣n nóng giận th́ sanh làm a-tu-la. C̣n nghĩ làm mười điều lành trọn vẹn th́ được sanh cơi trời. Đó là ba đường lành.

Riêng người dứt hết các thứ nghĩ th́ đi đường nào? Đó là chỗ tôi muốn nêu lên để chúng ta nắm cho thật vững. C̣n nghĩ là c̣n niệm, c̣n niệm th́ c̣n tạo nghiệp hoặc nghiệp xấu ác, hoặc nghiệp lương thiện. Nghiệp ác th́ đi ba đường dữ, nghiệp luơng thiện th́ đi ba đường lành, nghĩa là c̣n đi trong lục đạo luân hồi. Bây giờ muốn ra khỏi lục đạo luân hồi th́ phải làm sao?

Chỗ này Lục tổ Huệ Năng đă bảo với Thượng tọa Minh: "Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái ǵ là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh? " Ngay câu đó Thượng tọa Minh liền ngộ đạo. Như tôi đă nói nghĩ ác th́ đi đường ác, nghĩ thiện th́ đi đường thiện. C̣n đi tức là c̣n ở trong lục đạo luân hồi. Bây giờ dừng hết nghĩ thiện, nghĩ ác th́ "Bản lai diện mục" muôn đời của ḿnh hiện ra. Như vậy dứt nghĩ thiện, dứt nghĩ ác th́ tâm không c̣n sanh diệt, tâm không c̣n sanh diệt th́ cái chân thật bất sanh bất diệt hiện tiền.

Chúng ta đă sẵn có cái chân thật ấy gọi là Phật tánh, Chân tâm nhưng v́ nghĩ thiện, nghĩ ác che phủ nên ḿnh không thấy. Bây giờ dừng được hai thứ này th́ nó hiện ra. V́ vậy nghe Lục Tổ nói câu ấy, ngài Huệ Minh liền ngộ. Rơ ràng Tịnh độ hay Thiền Đại thừa, Thiền tông, Thiền Nguyên thủy… đều đi tới chỗ dừng hết các niệm nghĩ tưởng. Tuy phương tiện ứng dụng có khác nhưng chỗ cứu kính không hai. Đó là điểm gặp nhau giữa các pháp tu.

Nhiều người không biết, cứ chỉ trích nhau mà không hiểu ḿnh đang tu thế nào. Đó là sai lầm lớn. Trong đạo Phật, cứu kính không hai đường. Khi nào tâm bặt hết những niệm nghĩ tưởng, bặt hết phải quấy hơn thua, đối đăi th́ cái chân thật hiện ra. Nên nói tu giải thoát sanh tử là vậy, v́ cái đó không sanh không diệt th́ đâu c̣n đi trong lục đạo. Không đi trong lục đạo tức là nhập Niết-bàn, là giải thoát sanh tử.

Thiền định cốt dừng tán loạn, nên niệm Phật được nhất tâm cũng là Thiền định, tu Tứ niệm xứ tới nhất tâm cũng là Thiền định. Khi dứt hết tán loạn th́ được Niết-bàn, không nghi ngờ ǵ nữa. Đó là độ thứ năm, Thiền định độ tán loạn.

Thứ sáu là Trí tuệ độ si mê. Si mê tức là vô minh, nó khiến chúng ta tạo nghiệp rồi luân hồi trong sanh tử. V́ vậy muốn hết luân hồi sanh tử phải có trí tuệ. Bởi chỉ có trí tuệ mới phá tan mê lầm, không mê lầm th́ không c̣n đi trong sanh tử nữa. Bát chánh đạo không nói trí tuệ mà nói chánh kiến. Chánh kiến này từ học mà có, nên thuộc Văn tuệ tức Hữu sư trí. C̣n trí tuệ từ Thiền định phát sanh của Lục độ thuộc về Trí vô sư. Mỗi bên có một hướng khác nhau.

Hệ Nam tông vào đạo bằng trí tuệ hữu sư, nên trong kinh Pháp Cú Phật dạy: "Các ngươi phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp. " Chúng ta mở sáng trí tuệ bằng cách nương theo chánh pháp của Phật. Hệ Bắc tông khai triển trí tuệ vô sư, nên từ Thiền định mà có.

Đức Thích-ca giác ngộ sau khi thiền định dưới cội bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm, cuối cùng Ngài chứng được Tam minh v. v… Giác ngộ do định mà được nên sự giác ngộ đó không có thầy. V́ vậy Phật tuyên bố "Ta học đạo không có thầy". Không có thầy th́ ai dạy? Do Trí vô sư sẵn có vậy. Khi tâm thanh tịnh th́ trí này tự sáng, không phải do học mà được. Trí vô sư là trí bất sanh bất diệt, c̣n Trí hữu sư là trí sanh diệt. Trí vô sư mới cứu chúng ta giải thoát sanh tử. Thượng tọa Minh ngộ được Bản lai diện mục là nhờ đi tới chỗ không nghĩ thiện, không nghĩ ác tức dừng tâm đối đăi, bấy giờ Trí vô sư hay Phật tánh mới hiện ra, rơ ràng như vậy.

Người tu Phật nói tới giải thoát sanh tử là phải dứt hết hai bên, c̣n trong ṿng đối đăi, làm thiện tu phước th́ không bao giờ giải thoát sanh tử, chỉ đi trong ba đường lành thôi. Nam tông tu tới A-la-hán là Diệt tận định th́ nhập Niết-bàn. Các ngài chỉ mong một đời tu chứng được vô sanh, c̣n Bắc tông tu để nhận được Trí vô sư sẵn có. V́ vậy Bồ-tát tu Lục độ lấy trí tuệ tức giác ngộ làm mục đích cứu kính. Đă giác ngộ rồi Bồ-tát thấy mọi chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng v́ quên thành ra mê. Do đó Bồ-tát phát nguyện vào đời độ sanh, giúp tất cả chúng sanh ngộ được tánh Phật sẵn có của ḿnh. C̣n A-la-hán được Diệt tận định rồi thấy chúng sanh mê lầm khó giáo hóa hết được, nên nhập Niết-bàn cho yên. V́ vậy trong kinh thường trách tu theo hạnh Thanh văn là tiêu cực. Đó là v́ các ngài đến được chỗ an lành rồi, an trú một ḿnh mà không phát nguyện vào đời độ sanh.

Tinh thần nhập thế của Bắc tông v́ thế được gọi là tinh thần Đại thừa. Chúng sanh nào cũng có của báu nhưng lại quên. Bồ-tát thấy biết mà không chỉ th́ cảm thấy ḿnh không xứng đáng là người tốt, là người đi trước, nên các ngài đem hết khả năng, sức lực của ḿnh chỉ mọi người cùng thấy cùng biết, cho tṛn bổn phận của ḿnh. V́ vậy Bồ-tát không chấp nhận nhập Niết-bàn.

Chẳng những Bồ-tát mà một vị A-la-hán như ngài A-nan cũng phát nguyện: "Như nhất chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê-hoàn", nếu c̣n một chúng sanh chưa thành Phật, con trọn không nhập Niết-bàn. V́ các ngài thấy ḿnh có ḥn ngọc quí, người khác cũng có mà chưa thấy, th́ nỡ nào làm thinh bỏ đi. Cho nên phải lăn lộn, phải chỉ bảo cho mọi người cùng thấy, cùng biết như ḿnh. Chừng đó thảnh thơi muốn đi đâu th́ đi, muốn nhập hay không nhập Niết-bàn cũng được.

V́ vậy tâm Bồ-tát khác tâm Thanh văn. Thanh văn chứng Diệt tận định rồi nhập Niết-bàn. Bồ-tát chứng ngộ chân lư rồi, luôn luôn giáo hóa không ngừng nghỉ để tất cả chúng sanh cùng ngộ như ḿnh, đó là bản nguyện của các ngài. Nam tông chú trọng sạch phiền năo được vô sanh, nên lấy Chánh định làm gốc. Bắc tông chú trọng giác ngộ, nhận ra tánh Phật sẵn có của ḿnh, nên lấy trí tuệ vô sư làm gốc. Như vậy hai lối tu có những điểm khác nhau, v́ vậy tâm hạnh cũng khác nhau.

Chúng ta học kinh điển Phật, phải hiểu cho tường tận mới thấy đường tu hết sức rơ ràng, không có ǵ nghi ngờ hết. Phật dạy giải thoát không có đâu xa, ngay nơi cơi này mà không bị vướng mắc, sống được với cái chân thật của chính ḿnh đó là giải thoát, là vô sanh. Thế gian thích sống, nên nghe Phật nói chứng được Niết-bàn vô sanh, buồn quá. C̣n tu Tiên, luyện được thuốc trường sanh bất tử, sống hoài không chết nên người ta ham. Nói trường sanh bất tử, nhưng chúng ta xem ngày nay c̣n ông Tiên nào không? Bất tử sao không c̣n, như vậy đâu phải là chân lư.

Phật nói Niết-bàn là vô sanh, không sanh th́ làm ǵ có tử, nếu có sanh th́ có tử. Tử sớm là năm bảy mươi năm, tử muộn là vài trăm năm, cũng tử thôi. Chỉ vô sanh mới là bất tử. Đó là lẽ thật, là chân lư.

Hôm nay tôi giảng về đề tài này để quí vị xét kỹ hai đường lối tu căn cứ vào hai phần giáo điển, một lấy Bát chánh đạo, một lấy Lục độ làm căn bản nên có những điểm sai biệt. Như vậy để nhận ra Bắc tông khác hơn Nam tông ở chỗ nào. Nhiều người nói Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ, Đại thừa là cỗ xe lớn. Nói vậy đúng chưa? Nếu cho rằng Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ độ ít người, Đại thừa là cỗ xe lớn độ nhiều người, như vậy không đúng.

Nhiều vị tu theo Nguyên thủy ngộ đạo, độ cũng rất nhiều người. C̣n vị tu theo Đại thừa mà không tới đâu th́ có độ được ai, làm sao nói nhiều ít. Chỉ khác nhau ở chỗ, người tu chứng Diệt tận định nhập Niết-bàn, ngang đó nghỉ vĩnh viễn không độ sanh th́ mang tinh thần Tiểu thừa. C̣n người tu ngộ được Pháp thân rồi, lăn lộn trong đời để độ chúng sanh không cùng, th́ mang tinh thần Đại thừa. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy giá trị đường lối tu của mỗi bên. Nhưng phải tu tới nơi ḱa, chớ c̣n tu lơ mơ cũng không thấy không biết được ǵ. Giá trị ở sự tu chớ không phải giá trị ở chỗ học nhiều. Học nhiều mà không tu th́ cũng không có kết quả.

V́ vậy tôi mong mỏi tất cả cố gắng hiểu, ứng dụng tu cho được tốt. Như vậy là tự cứu ḿnh và cứu được mọi người. Nếu không chịu tu, bản thân chúng ta không tự cứu được th́ mong ǵ cứu ai. Mong tất cả cố gắng thực hiện tu hành đúng như lời Phật tổ dạy.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]