[Trang chu] [Kinh sach]

KINH PHÁP BẢO ĐÀN

[mucluc][loidausach][p1][p2-d1][p2-d2]

[p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7][p8-d1][p8-d2][p9][p10][p11-d1][p11-d2]


PHẨM THỨ BA: NGHI VẤN 

DỊCH

Một hôm Vi Thứ sử v́ Tổ thiết đại hội trai, trai xong, Thứ sử thỉnh Tổ đăng ṭa, quan liêu sĩ thứ đều thành kính lễ bái, hỏi rằng: “Đệ tử nghe Ḥa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có một ít nghi, cúi mong Ngài đại từ đại bi đặc biệt v́ giải nói.”

Tổ bảo: “Có nghi liền hỏi, tôi sẽ v́ các ông mà nói.”

Thứ sử thưa: “Ḥa thượng nói pháp, đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt-ma ư ?”

Tổ bảo: “Đúng vậy !”

Thứ sử thưa: “Đệ tử nghe Tổ Đạt-ma khi mới đến vua Lương Vơ Đế, Vơ Đế hỏi: Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức ǵ ? Tổ Đạt-ma bảo: Thật không có công đức. Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Ḥa thượng v́ nói.”

Tổ bảo: “Thật không có công đức, chớ nghi lời của bậc tiên Thánh. Vơ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong pháp thân, không phải do tu phước mà được.” Tổ lại nói: “Thấy tánh là công, b́nh đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể ĺa niệm là đức; không ĺa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu t́m công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngă không dứt tức là không công, tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, v́ ngô ngă tự đại thường khinh tất cả. Này Thiện tri thức, mỗi niệm không có gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này Thiện tri thức, công đức phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Vơ Đế không biết chân lư, không phải Tổ Sư ta có lỗi.”

Thứ sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Ḥa thượng nói, được sanh nơi cơi kia chăng ? Nguyện  v́  phá cái  nghi  này.”

Tổ bảo: “Sử quân khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ v́ nói. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương dẫn hóa, văn kinh rơ ràng cách đây không xa. Nếu luận về tướng mà nói, số dặm có mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có mười ác và tám tà, liền là nói xa, nói xa là v́ kẻ hạ căn, nói gần là v́ những người thượng trí. Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ, mê ngộ có khác, thấy có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về cơi kia, người ngộ tự tịnh tâm ḿnh, sở dĩ Phật nói: Tùy tâm tịnh liền được cơi Phật tịnh. Sử quân, người phương Đông chỉ tâm ḿnh tịnh liền không có tội, tuy người phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây, c̣n người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cơi nào ? Phàm ngu không rơ tự tánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy, cho nên Phật nói: Tùy chỗ ḿnh ở hằng được an lạc. Sử quân, tâm địa chỉ không có bất thiện th́ Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm ḷng chẳng thiện, niệm Phật văng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành b́nh trực, đến như trong khảy móng tay, liền thấy đức Phật A-di-đà. Sử quân, chỉ hành mười điều thiện đâu cần lại nguyện văng sanh, không đoạn tâm thập ác th́ Phật nào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảng sát-na. C̣n chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh th́ con đường xa làm sao đến được ! Huệ Năng v́ mọi người dời cơi Tây phương trong khoảng sát-na ở trước mắt khiến cho quí vị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng ?”

Chúng đều đảnh lễ thưa rằng: “Nếu ở cơi này mà thấy được th́ đâu cần phải nguyện văng sanh, nguyện Ḥa thượng từ bi liền hiện Tây phương khiến cho tất cả được thấy.”

Tổ bảo: “Này Đại chúng ! Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ư. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh c̣n th́ vua c̣n, tánh đi mất th́ vua mất; tánh ở th́ thân tâm c̣n, tánh đi th́ thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, b́nh trực tức là Phật Di-đà. Nhân ngă ấy là Tu-di, tà tâm là biển độïc, phiền năo là sóng ṃi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Này Thiện tri thức, thường làm mười điều lành th́ thiên đường liền đến, trừ nhân ngă th́ núi Tu-di ngă, dẹp được tham dục th́ biển nước độïc khô, phiền năo không th́ sóng ṃi mất, độc hại trừ th́ rồng cá đều dứt. Ở trên tâm địa ḿnh là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hay phá sáu cơi trời dục, tự tánh trong chiếu ba độïc tức liền trừ địa ngục v.v... các tội một lúc đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cơi Tây phương, không chịu tu như thế này làm sao đến được cơi kia ?”

Đại chúng nghe nói rồi đều rơ ràng thấy được tự tánh, thảy đều lễ bái, đều tán thán: “Lành thay !” Thưa rằng: “Khắp nguyện pháp giới chúng sanh nghe một thời liền ngộ hiểu.”

Tổ bảo: “Này Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần ở chùa, người tại gia mà hay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, c̣n người ở chùa mà không tu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tức là tự tánh Tây phương.”

Thứ sử Vi Cừ lại hỏi: “Người tại gia làm sao tu hành ? Cúi xin Ngài v́ chỉ dạy.”

Tổ bảo: “Tôi v́ Đại chúng làm một bài tụng Vô Tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùng tôi đồng ở không khác, nếu không tu như thế này dù có cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng không có ích ǵ. Tụng rằng:              

                       Tâm b́nh không nhọc giữ giới,

                        Hạnh thẳng không cần tu thiền,

                        Ân th́ nuôi dưỡng cha mẹ,

                        Nghĩa th́ trên dưới thương nhau.

                        Nhường th́ trên dưới ḥa mục,

                        Nhẫn th́ các ác không ồn,

                        Nếu hay dùi cây ra lửa,

                        Trong bùn quyết mọc sen hồng.

                        Đắng miệng tức là thuốc hay,

                        Nghịch tai là lời ngay thẳng,

                        Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ,

                        Giữ quấy trong tâm không hiền.

                        Mỗi ngày thường làm lợi ích,                                              

                        Thành đạïo không do thí tiền,                                              

                        Bồ-đề chỉ hướng tâm t́m,                                        

                        Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền.

                        Nghe nói y đây tu hành,                                

                        Cực lạc chỉ ngay trước mắt.”

                        (Tâm b́nh hà lao tŕ giới,

                        Hạnh trực hà dụng tu thiền,

                        Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,

                        Nghiă tắc thượng hạ tương lân.

                        Nhượng tắc tôn ti hoà mục,

                        Nhẫn tắc chúng ác vô huyên,

                        Nhược năng toản mộc xuất hoả,

                        Ứ nê định sanh hồng liên.

                        Khổ khẩu đích thị lương dược,

                        Nghịch nhĩ tức thị trung ngôn,

                        Cải quá tức sanh trí tuệ,

                        Hộ đoản tâm nội phi hiền.

                        Nhật dụng thường hành nhiêu ích,

                        Thành đạo phi do thí tiền,

                        Bồ đề chỉ hướng tâm mích,

                        Hà lao hướng ngoại cầu huyền.

                        Thính thuyết y thử tu hành,

                        Tây phương chỉ tại mục tiền.)

Tổ lại bảo: “Này Thiện tri thức, thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy tự tánh, thẳng đó thành đạo. Pháp không đợi nhau, mọi người hăy giải tán, tôi trở về Tào Khê, chúng nếu có nghi, lại đến hỏi nhau.”

Khi ấy Thứ sử quan liêu ở trong hội, kẻû thiện nam  tín  nữ  mỗi  người  đều  được  khai ngộ, tin thọ vâng làm. 

GIẢNG 

Một hôm Vi Thứ sử v́ Tổ thiết đại hội trai, trai xong, Thứ sử thỉnh Tổ đăng ṭa, quan liêu sĩ thứ đều thành kính lễ bái, hỏi rằng: “Đệ tử nghe Ḥa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có một ít nghi, cúi mong Ngài đại từ đại bi đặc biệt v́ giải nói.”

Tổ bảo: “Có nghi liền hỏi, tôi sẽ v́ các ông mà nói.”

Thứ sử thưa: “Ḥa thượng nói pháp, đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt-ma ư ?”

Tổ bảo: “Đúng vậy !”

Thứ sử thưa: “Đệ tử nghe Tổ Đạt-ma khi mới đến vua Lương Vơ Đế, Vơ Đế hỏi: Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức ǵ ? Tổ Đạt-ma bảo: Thật không có công đức. Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Ḥa thượng v́ nói.”

Tổ bảo: “Thật không có công đức, chớ nghi lời của bậc tiên Thánh. Vơ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong pháp thân, không phải do tu phước mà được.”

Phẩm thứ ba là phẩm Nghi Vấn tức là nếu có những điều nghi ngờ, đem ra hỏi Lục Tổ.

Điều nghi đầu tiên là khi Tổ Bồ-đề Đạt-ma sang Trung Hoa, đến yết kiến vua Lương Vơ Đế, vua liền hỏi: Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức ǵ ? Tổ Đạt-ma bảo: Thật không có công đức. Chính câu nói này khiến nhiều người nghi, không biết tại sao làm những điều đó mà không công đức. Theo sử ghi: Vua Vơ Đế thời đó cất mấy trăm ngôi chùa, độ Tăng tu hành rất đông, thiết trai bố thí và chính nhà vua giảng được kinh. Như vậy Vơ Đế cho rằng những việc làm ấy là đầy đủ công đức, nhưng không ngờ khi hỏi Tổ, Tổ bảo: Không công đức. Đó là tạt một gáo nước lạnh vào mặt Vơ Đế, nhà vua nản quá không thiết nói chuyện nữa. V́ thế đang đêm Tổ phải lén bỏ đi qua nước Ngụy, đến chùa Thiếu Lâm, ngồi trong động đến chín năm...

Nhắc lại câu Tổ Đạt-ma trả lời vua Lương Vơ Đế, người học Phật chúng ta không ai không nghi ngờ, cất chùa, độ chư Tăng tu hành, làm nhiều việc phước mà Tổ bảo không công đức. Thật là vô lư ! Khi làm các việc như vậy, các chùa thường bảo là công đức vô lượng vô biên, v́ sao Tổ Đạt-ma lại nói không công đức ? Trong phần này Lục Tổ giản trạch: Công đức thuộc về nội tâm, không phải ở bên ngoài. Công đức là do ngộ đạo đạt được tự tánh, rồi từ tánh khởi dụng, những dụng ấy gọi là công đức. C̣n phước đức là do việc làm bên ngoài mà được, như cúng dường, bố thí v.v... Vua Vơ Đế lầm nghĩa phước đức và công đức là một nên Tổ nói không công đức.

Tổ lại nói: “Thấy tánh  là công, b́nh đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể ĺa niệm là đức; không ĺa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu t́m công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngă không dứt tức là không công, tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, v́ ngô ngă tự đại thường khinh tất cả. Này Thiện tri thức, mỗi niệm không có gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này Thiện tri thức, công đức phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Vơ Đế không biết chân lư, không  phải Tổ Sư  ta có lỗi.”

Thấy tánh tức là đạt được bản tánh ḿnh là công, hành hạnh b́nh đẳng là đức. Trong tâm không ngô ngă rồi hành những hạnh cung kính mọi người đó là công đức v.v.... Như vậy công đức là nhằm thẳng bản tâm ḿnh, ngộ được tự tánh ḿnh rồi từ đó khởi dụng làm những hành động hợp đạo lư, thuyết pháp độ sanh hay tu các công hạnh, đó gọi là công đức.

Chúng ta ngày nay hay lầm lẫn cho rằng cất chùa, giúp chư Tăng, bố thí cúng dường là lập nhiều công đức và tự hào rằng ḿnh làm công đức vô lượng vô biên cần phải được tán thán, không ngờ làm những việc ấy chỉ là tạo phước đức mà thôi. Lục Tổ giảng cho Thứ sử Vi Cừ và cả hội chúng hiểu rơ, đừng lầm phước đức với công đức.

Thứ sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Ḥa thượng nói, được sanh nơi cơi kia chăng ? Nguyện v́ phá cái nghi này.” 

 Điều nghi thứ hai là người tu  hành  niệm Phật A-di-đà cầu văng sanh về Tây phương Cực Lạc, việc ấy như thế nào ?

Tổ bảo: “Sử quân khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ v́ nói. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương dẫn hóa, văn kinh rơ ràng “cách đây không xa”. Nếu luận về tướng mà nói, số dặm có mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có muời ác và tám tà, liền là nói xa, nói xa là v́ kẻ hạ căn, nói gần là v́ những người thượng trí. Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ, mê ngộ có khác, thấy có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về cơi kia, người ngộ tự tịnh tâm ḿnh, sở dĩ Phật nói: Tùy tâm tịnh liền được cơi Phật tịnh. Sử quân, người phương Đông chỉ tâm ḿnh tịnh liền không có tội, tuy người phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây, c̣n người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cơi nào ?

Tổ giải thích: Niệm Phật cầu sanh về Tây phương là v́ người hạ căn; Tây phương cách chúng ta mười muôn ức cơi, nói xa như vậy là v́ kẻ hạ căn. Nếu nói gần là v́ người thượng trí, nói gần là: Tâm ḿnh tịnh là cơi Phật tịnh, nếu tâm ḿnh thanh tịnh th́ ngay đây là Tịnh độ. Như vậy nói xa hay gần là tùy căn cơ, người mê hay người hạ căn niệm Phật cầu sanh về Tây phương tức về một cơi xa tít mù; người ngộ hay người thượng trí niệm Phật để tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức cơi Phật thanh tịnh, vậy cơi Phật thanh  tịnh  ở  ngay  tâm  thanh  tịnh  của ḿnh.

Tổ lại bảo: Từ đây đến cơi Cực Lạc cách xa mười muôn tám ngàn, là chỉ cho mười ác và tám tà. Nếu chúng ta hành Thập thiện và tu tám điều chánh (Bát chánh đạo) là chúng ta qua được mười muôn tám ngàn, đến được cơi Cực Lạc. Cơi Cực Lạc là do chúng ta hành thiện và thấy đúng, chớ không phải do chúng ta bay qua không gian đến cơi ấy. Tổ lại nêu vấn đề như chúng ta hiện nay ở cơi Ta-bà mê lầm tạo tội, nên cố gắng niệm Phật để sanh về Tây phương cho hết tội lỗi; Tổ bảo người mê tạo tội ở phương Đông, niệm Phật cầu sanh về phương Tây, nếu người phương Tây lỡ tạo tội, niệm Phật cầu sanh về đâu ? Chẳng lẽ cầu sanh trở lại phương Đông ? Như vậy điều cần yếu là hết tội chớ không phải cầu sanh về nơi nào. Nếu chúng ta ở phương Đông mà hết tội th́ phương Đông là Cực Lạc; nếu ở phương Đông tạo tội, cầu về phương Tây, chúng ta mang tâm tham sân si về cơi Cực Lạc th́ cơi Cực Lạc cũng trở thành ô uế. Thí dụ quí Phật tử ở thành phố ồn náo, lâu lâu lên núi thấy cảnh núi thanh tịnh, mong được lên núi cho thanh tịnh. Nếu khoảng một trăm vị lên núi, các vị này hay rầy rà gây gổ th́ cảnh núi sẽ biến thành ồn náo như dưới chợ. Như vậy cảnh thanh tịnh là do tâm người thanh tịnh, sự thanh tịnh cốt ở tâm ḿnh chớ không phải ở cảnh. Chúng ta ngày nay v́ yếu đuối nên ỷ lại, niệm Phật cầu về Cực Lạc; tội lỗi không trừ dẹp, hung dữ vẫn c̣n, dù niệm Phật được nhiều chuỗi, thử hỏi có sanh được về cơi kia không ? Trong kinh A-di-đà có câu: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc”, nghĩa là không thể lấy một chút ít phước đức nhân duyên mà được sanh về cơi kia. Như vậy muốn được sanh về cơi kia, phải đầy đủ phước đức nhân duyên, tức là ngay đây phải hiền lành, phải thuần thiện mới được. Tổ chỉ thẳng cho chúng ta phải tịnh tâm ḿnh th́ cơi này là Tịnh độ. Nếu không tịnh tâm mà cầu sanh về cơi kia, điều đó khó thực hiện.

Phàm ngu không rơ tự tánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy, cho nên Phật nói: Tùy chỗ ḿnh ở hằng được an lạc. Sử quân, tâm địa chỉ không có bất thiện th́ Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm ḷng chẳng thiện, niệm Phật văng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành b́nh trực, đến như trong khảy móng tay, liền thấy đức Phật A-di-đà. Sử quân, chỉ hành mười điều thiện đâu cần lại nguyện văng sanh, không đoạn tâm thập ác th́ Phật nào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảng sát-na. C̣n chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh th́ con đường xa làm sao đến được !

 Người phàm phu ngu muội không nhận được tự tánh của ḿnh, ngay trong thân ḿnh đă có sẵn Tịnh độ mà không biết, cứ cầu Tịnh độ ở ngoài. C̣n người trí ngộ được tự tánh của ḿnh, liền thấy tự tánh là Tịnh độ. Nếu chúng ta được chừng năm phút trong tâm không có niệm thương ghét buồn giận, th́ ngay lúc ấy thấy đây là cơi tịnh. Trái lại nếu trong tâm c̣n buồn giận thương ghét th́ đến chỗ nào cũng thấy toàn là phiền năo. V́ thế chủ yếu của việc tu hành là tịnh ngay tâm ḿnh, nhận được tự tánh thanh tịnh của ḿnh và sống với nó, đó là Tịnh độ. Người không biết tu, cứ chạy t́m cầu bên ngoài, rốt cuộc không đi đến đâu, v́ làm sao t́m được lẽ thật ở bên ngoài !

Ví dụ như người học tṛ khôn rán học bài thuộc, đi thi đậu; người học tṛ biếng nhác không chịu học bài, khi gần thi lo chạy t́m các thầy giáo năn nỉ xin giúp đỡ, như vậy làm sao bảo đảm được thi đậu ? Nếu người có thiện chí giúp, ít nhất chúng ta phải có khả năng tương đương, c̣n dốt mà muốn thi đậu, việc ấy rất khó. Sự tu hành cũng như thế, nếu chúng ta không siêng năng hành thiện, dẹp trừ tội lỗi mà cứ cầu sanh về Cực Lạc, chờ Phật rước, làm sao Phật rước chúng ta về cơi Phật được, không sợ chúng ta làm nhơ cơi ấy hay sao ? Như hiện nay có người hung dữ vào chùa xin tu, tuy chúng tôi phải độ người tu hành, nhưng chúng tôi phải dè dặt v́ người hung dữ quá vào chùa làm ồn, chúng tu không được; huống là cơi Phật thanh tịnh mà đem những người ô uế về làm rối loạn nơi thanh tịnh sao ? Thế nên phải biết rơ, điều cốt yếu là phải tịnh ngay tâm ḿnh, đó là Tịnh độ.

Huệ  Năng  v́  mọi  người  dời   cơi  Tây phương trong khoảng sát-na ở trước mắt khiến cho quí vị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng ?”

Chúng đều đảnh lễ thưa rằng: “Nếu ở cơi này mà thấy được th́ đâu cần phải nguyện văng sanh, nguyện Ḥa thượng từ bi liền hiện Tây phương khiến cho tất cả được thấy.

Tổ bảo: “Này đại chúng ! Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ư. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh c̣n th́ vua c̣n, tánh đi mất th́ vua mất; tánh ở th́ thân tâm c̣n, tánh đi th́ thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, b́nh trực tức là Phật Di-đà. Nhân ngă ấy là Tu-di, tà tâm là biển độïc, phiền năo là sóng ṃi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Này Thiện tri thức, thường làm mười điều lành th́ thiên đường liền đến, trừ nhân ngă th́ núi Tu-di ngă, dẹp được tham dục th́ biển nước độïc khô, phiền năo không th́ sóng ṃi mất, độc hại trừ th́ rồng cá đều dứt. Ở trên tâm địa ḿnh là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hay phá sáu cơi trời dục, tự tánh trong chiếu ba độïc tức liền trừ địa ngục v.v... các tội một lúc đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cơi Tây phương, không chịu tu như thế này làm sao đến được cơi kia ?”

Đại chúng nghe nói rồi đều rơ ràng thấy được tự tánh, thảy đều lễ bái, đều tán thán: “Lành thay !” Thưa rằng: “Khắp nguyện pháp giới chúng sanh nghe một thời liền ngộ hiểu.” 

Đến  đây  Tổ  hỏi  đại  chúng:  Các người muốn thấy cơi Cực Lạc không ? Cả chúng đều hoan nghinh, xin được thấy, nghĩ rằng Tổ có thần thông hiện cơi Cực Lạc ngay trước mắt. Tổ mới dạy: Muốn thấy cơi Cực Lạc phải ngay nơi tâm ḿnh thanh tịnh, trừ dẹp những tâm xấu xa ác độc th́ cơi Cực Lạc hiện tiền, không phải cầu sanh về nơi nào khác. Ngài bảo dẹp tham sân th́ địa ngục mất, hết ngu si th́ súc sanh không c̣n, dẹp phiền năo th́ sóng ṃi lặng, dẹp tâm ác th́ biển độc khô, dứt ngô ngă th́ núi Tu-di ngă. Nếu dẹp sạch được các điều xấu xa nhơ nhớp th́ cơi Cực Lạc hiện tiền, không cần chạy đi đâu để t́m Cực Lạc. Thế mà người thế gian không chịu dẹp cái xấu, cứ một bề đ̣i về Cực Lạc th́ làm sao đến được cơi ấy ! Có nhiều vị tu hành cũng lâu, cũng khá rồi nhưng tâm sân chưa dẹp sạch. Mỗi khi nghe lời trái tai liền nổi giận rồi bảo: Tánh tôi như vậy ! Nếu thật tánh ḿnh là sân, như thế là chấp nhận ḿnh ở địa ngục măi sao ? Đâu biết cái giận chỉ là một thói quen lâu ngày, biết nó là xấu phải mạnh dạn chừa bỏ, không nên chấp nhận và bảo đó là tánh của tôi. Điều cốt yếu của sự tu là tịnh tâm ḿnh, tâm ḿnh thanh tịnh rồi, dù  ở  đâu  cũng là cơi thanh tịnh.

Ví dụ nơi trường học có cậu học tṛ nhỏ vừa bắt đầu học lớp một, rồi muốn vào đại học ngay, việc đó được không ? Dù người cai quản đại học có cảm t́nh với nó, cũng không thể nào đưa đứa học tṛ ấy vào đại học được. Đứa học tṛ phải học từ từ, xong phần trung học rồi có đủ khả năng mới vào đại học. Việc tu hành cũng như thế, dù Phật có ḷng từ vô lượng, muốn độ chúng ta về cơi Phật, nhưng nếu chúng ta xấu xa ô nhiễm, thử hỏi Phật có độ về cơi kia được chăng ? Muốn về cơi Phật, chúng ta phải có đủ khả năng, tức là tâm phải thanh tịnh, th́ Phật sẽ đưa về cơi tịnh, việc ấy là chắc chắn. Tổ lại nói rộng quan niệm của Ngài về việc tu.

Tổ bảo: “Này Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần ở chùa, người tại gia mà hay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, c̣n người ở chùa mà không tu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tức là tự tánh Tây phương.” 

Như vậy người tại gia mong vào chùa để được yên ổn tu hành, dứt bỏ những điều xấu dở, nhưng khi vào chùa lại không bỏ những điều xấu dở ấy, vẫn c̣n phiền năo th́ khi ấy sẽ chạy về đâu ? V́ lẽ đó Tổ mới sách tấn chúng ta: Ở đâu cũng tu được, miễn là biết làm lành, miễn là biết trừ những tâm xấu. Chính việc đó Tổ đă làm, mười mấy năm Ngài sống chung với nhóm thợ săn dưới h́nh thức cư sĩ, tâm Ngài vẫn thanh tịnh. Thế nên Ngài dạy chúng ta ở chùa hay ở nhà mà biết tu cũng đều tốt, cũng đều quí. Tuy nhiên quí vị không nên hiểu lầm rồi sanh tự cao ngă mạn nói rằng: “Tôi ở nhà mà làm lành c̣n hơn các vị ở chùa mà làm ác.” Nếu các vị ở chùa mà làm lành nữa vẫn c̣n hơn các vị ở tại gia làm lành một bậc.

Thứ sử Vi Cừ lại hỏi: “Người tại gia làm sao tu hành ? Cúi xin Ngài v́ chỉ dạy.”

Tổ bảo: “Tôi v́ đại chúng làm một bài tụng Vô Tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùng tôi đồng ở không khác, nếu không tu như thế này dù có cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng không có ích ǵ. Tụng rằng: 

                      Tâm b́nh hà lao tŕ giới,

                        Hạnh trực hà dụng tu thiền,

                        Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,

                        Nghĩa tắc thượng hạ tương lân.

Người nào tâm b́nh rồi không nhọc phải giữ giới, hạnh được thẳng rồi không cần phải tu thiền. Tại sao ? Tâm b́nh nghĩa là tâm không động, tâm không động đâu c̣n tạo nghiệp nữa mà phải tŕ giới. Tâm b́nh ví như mặt nước lặng, bằng phẳng, đâu có sóng gió. Tâm b́nh đâu có dấy niệm tham sân si. Sở dĩ chúng ta giữ giới là để ngừa tham sân si, nếu tâm đă b́nh, đâu c̣n tham sân si để ngừa ! Thế nên nói: Tâm b́nh không cần tŕ giới, hạnh trực không cần phải tu thiền. Hạnh đây cũng là tâm, tức là tâm hạnh nếu ngay thẳng th́ không cần phải tu thiền. Ngay thẳng là thế nào ? Là không vướng bên này, không kẹt bên kia. Thường chúng ta hay dấy niệm chạy theo phải quấy tốt xấu, đó là hai bên. Nếu tâm ḿnh ngay thẳng không kẹt hai bên, c̣n ǵ nữa mà tu thiền ? Tu thiền là dứt tâm lăng xăng, nếu tâm lăng xăng không c̣n nữa, tu thiền là dư, nên nói hạnh trực không cần tu thiền.

Tuy nhiên nếu tâm chúng ta c̣n lăng xăng, nghĩ đây nghĩ kia th́ cần tu thiền không ? Dĩ nhiên là cần. Nếu tâm chúng ta chưa b́nh, gặp việc th́ sân si nổi dậy, có cần giữ giới không ? Tất nhiên là phải giữ giới, nếu không giữ giới, chắc tạo tội không sao kể xiết. V́ thế tâm chưa b́nh th́ giới là quan trọng, hạnh chưa trực th́ thiền rất thiết yếu. Khi nào tâm b́nh hạnh trực mới không cần giữ giới và tu thiền, nếu chưa được như thế mà đem hai câu này ra nói, là một điều lầm lỗi lớn. Tỉ dụ khi nghe ai khuyên tŕ giới th́ nói: “Tâm b́nh cần ǵ tŕ giới, Tổ đă nói rơ ràng, các người c̣n h́nh thức quá !” Nghe ai dạy tu thiền th́ bảo: “Hạnh trực đâu cần tu thiền, Tổ đă dạy rồi mà !” Nhưng thử hỏi tâm chúng ta đă b́nh chưa? Hạnh chúng ta đă trực chưa ? Nếu tự biết tâm ḿnh chưa b́nh, hạnh chưa trực th́ tŕ giới và tu thiền rất cần thiết. Người học pháp thông th́ ít, chấp th́ nhiều, chấp chữ chấp nghĩa, đem kinh ra nói khoác mà không tu, trở thành công kích người khác, tạo tội ác khẩu, vậy chúng ta phải cẩn thận. Tóm lại muốn tu thiền, muốn giữ giới không ǵ hơn là tâm b́nh, hạnh trực. Tâm b́nh, hạnh trực là đủ cả giới, thiền trong đó.

Về cách xử sự tại gia, Tổ dạy: “Ân th́ nuôi dưỡng cha mẹ, nghĩa th́ trên dưới thương nhau.” Nói về ân, không ân nào cao bằng ân cha mẹ. Khi đọc đến đây chúng tôi thấy rơ tâm niệm Phật Tổ không hai. Chính trong kinh Tăng Nhất A Hàm có một bài kinh nói về báo ân, đức Phật bảo: “Người nào biết đền ân, giả sử ở xa ta ngàn dặm, cũng như ở bên cạnh ta, người không biết đền ân, dầu đứng hầu bên cạnh ta, cũng như cách xa ta ngàn dặm.” Phật giải thích: Không ân nào hơn ân cha mẹ, thân này có từ nơi cha mẹ, nên đem cả sanh mạng bù đắp cho cha mẹ cũng không phải là quá ! Thế nên người biết đền ân, trước phải nhớ ân cha mẹ, kế đó biết đền ân những người ḿnh đă chịu ân, những người ấy, Phật bảo là gần với Phật. Trong đoạn này, Tổ cũng dạy: Người biết ân là phải nuôi dưỡng cha mẹ. Người biết ân như vậy đối với Tổ đó là người tốt, đối với Phật đó là người gần với Phật.

Nói về nghĩa, t́nh thâm nghĩa nặng nhất là t́nh nghĩa ruột thịt, không ǵ hơn t́nh nghĩa anh chị em, kẻ trên người dưới đều thương nhau. Tương lân là kẻ trên người dưới đều thương nhau. Như vậy đối với cha mẹ chúng ta hằng nhớ ân để đền đáp, đối với anh chị em hằng có tâm niệm thương nhau, đó là nền tảng đạo đức gia đ́nh. Được như thế mới xứng đáng là người Phật tử biết đạo. Nếu chúng ta đi chùa vái lạy liên miên, khi về nhà gặp cha mẹ th́ ngó ngang không chào hỏi, gặp anh em rầy rà lớn tiếng, người lối xóm nh́n vào sẽ bảo đó là đạo đức giả. Đây là điều không tốt, chúng ta không thể chấp nhận những người như vậy. Muốn đi chùa, muốn lạy Phật, trước hết chúng ta phải biết cha biết mẹ rồi biết anh em. Từ cha mẹ đến anh em chúng ta cư xử tốt, khi vào đạo chúng ta mới là người tốt. Nếu chúng ta là người ngoan đạo mà ở gia đ́nh là kẻ bất hiếu bất nghĩa, sự ngoan đạo ấy chỉ làm tṛ cười cho thiên hạ. Nếu trăm người Phật tử đều như vậy, chắc không ai dám vào đạo Phật nữa, v́ vào đạo mà bất hiếu bất nghĩa th́ vào làm ǵ ? Chúng tôi nhắc lại, người Phật tử chân chánh phải có những bài thuyết pháp sống ngay nơi ḿnh, nghĩa là trong cuộc sống gia đ́nh phải là người mẫu mực biết làm lành, làm phải, biết ân cha mẹ, biết t́nh nghĩa anh em. Nếu chỉ có nếp sống đạo đức ở chùa mà không áp dụng nơi gia đ́nh, đạo đức ấy không phải thật, v́ người Phật tử không ở chùa thường, chỉ đến chùa một hay hai lần trong tháng, mà ở nhà thường trực hơn. Nếu sống thường trực nơi gia đ́nh không ra ǵ th́ sống một, hai ngày ở chùa có nghĩa lư ǵ đâu. Điều quan trọng là cách cư xử tại nhà: hiếu kính cha mẹ, thương mến anh em. Cha mẹ anh em là ân là nghĩa, là người ruột thịt gần gũi, nếu chúng ta không kể đến th́ những người ngoài không có t́nh máu mủ, không ân nghĩa nặng nề, có làm điều trái ư, chúng ta có thể hại họ được. T́nh thương ruột thịt không có th́ t́nh thương xă hội khó mà t́m được. Hiểu được như vậy mới thấy rơ Phật, Tổ đều dạy chúng ta điều căn bản là đối với cha mẹ phải lấy ân để đền  đáp, đối  với anh em phải lấy nghĩa mà thương mến nhau.

                        Nhượng tắc tôn ti ḥa mục,

                        Nhẫn tắc chúng ác vô huyên,

                        Nhược năng toản mộc xuất hỏa,

                        Ứ nê định sanh hồng liên.

Nhượng tức là nhường. Nhường nhịn  nhau trên dưới mới được ḥa mục. Anh em thương nhau chưa đủ, c̣n phải nhường nhịn nhau mới ổn, kẻ trên người dưới đều ḥa hợp nhau. Người ẩn nhẫn th́ những việc ác không c̣n làm ồn náo họ nữa. Người không ẩn nhẫn được thường hay mích ḷng, bực tức dễ nổi sân si... nên việc ác làm ồn náo họ măi. Nếu hay nhẫn được th́ mọi sự ồn náo đều dứt sạch. Tóm lại Tổ dạy chúng ta ở tại gia phải làm sao cho t́nh anh em không mất, muốn được như vậy anh em phải nhường nhịn nhau, nhường nhịn nhau mới đem lại ḥa mục, đem lại êm ấm cho gia đ́nh.

Ngài dạy tiếp: Nếu chúng ta hay dùi cây cho ra lửa, trong bùn nhất định hoa sen hồng mọc lên. Ngài muốn chỉ rằng người tại gia ở trong cảnh ồn náo khó tu, nhưng trong cảnh ấy mà vẫn cố gắng tiến tu như dùi cây cho ra lửa, như hoa sen mọc trong bùn. Trong bùn mới có hoa sen c̣n trên tảng đá sạch sẽ này làm ǵ có hoa sen mọc. V́ thế người tại gia gặp nhiều phiền năo mà khéo tu cũng như trong bùn mọc lên hoa sen, cũng như dùi cây ra lửa vậy. Đây là Tổ muốn khuyến khích người cư sĩ tại gia phải nỗ lực tiến tu dù ở hoàn cảnh khó khăn nào, không v́ cảnh khó mà sanh tâm thối chuyển, như vậy mới biến được dở thành hay.

                        Khổ khẩu đích thị lương dược,

                        Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn,

                        Cải quá tất sanh trí tuệ,

                        Hộ đoản tâm nội phi hiền.

Khổ khẩu là đắng miệng. Theo quan niệm xưa, thuốc hay tất phải đắng miệng, lời nói nghịch tai là lời ngay thẳng. Tại sao ? Tỉ dụ chúng ta làm điều ǵ quấy, có người gan dạ chỉ lỗi giùm: Huynh làm điều ấy sai. Nếu chúng ta nghe lời chỉ dạy, biết nhận lỗi, đó là thuốc hay; nếu chúng ta nghe trái tai một chút liền nổi sân lên, đó là không tốt. Nhưng đa số người thế gian, ai cũng như ai đều thích được khen và không chịu bị chê. Giả sử chúng ta làm quấy một trăm phần trăm nhưng được người khác khen, chúng ta cũng vui thích. Ví dụ có người ăn trộm, trong xóm trong làng ai cũng biết mặt. Nếu chú ấy ăn mặc chải chuốt, có người khen: Chà ! Chú mầy giống như một nhà văn, một tài tử v.v... Thử hỏi chú ấy có vui lên không ? Có muốn gây với người khen chú không ? Trái lại, nếu gặp chú ăn trộm ăn mặc chải chuốt, chúng ta liền nói: “Kẻ ăn trộm mà cũng ăn diện bảnh bao.” Tức nhiên chú ấy sẽ gây với ḿnh ngay. Như vậy người đời lúc nào cũng thích được khen dù lời khen không đúng sự thật, c̣n lời nói thẳng dù đúng sự thật một trăm phần, người đời cũng vẫn giận, đây là nói chung cho tất cả mọi người, kể cả chúng ta. V́ thế chúng ta nên tập làm sao trước những lời nói trái tai vẫn vui vẻ nghe để sửa ḿnh. Ai chỉ điều quấy, chúng ta liền nhận lỗi để sửa, như vậy mới là người biết tu. Những lời trái tai là lời trung thực, chúng ta rán nghe để sửa ḿnh.

Tổ dạy tiếp: Cải quá ắt sanh trí tuệ, c̣n ǵn giữ hay bảo hộ điều quấy trong tâm là không phải người hiền. Người có lỗi mà che giấu là không phải người hiền, trái lại người làm quấy mà biết sửa là người trí tuệ. Đây là điều rất thiết yếu cho việc tu. Đa số chúng ta thường có quan niệm lầm lẫn, cứ nh́n vào người xuất gia, cho là những thần tượng, là những bậc Hiền Thánh, là những vị đă vượt qua người thế gian. Nhưng nếu được ở gần các vị ấy một thời gian, mới thấy các vị ấy thỉnh thoảng cũng lộ ra đôi chút phiền năo; lúc bấy giờ các thần tượng đều sụp đổ, các Phật tử mới than: “Tưởng các vị tu hành là Thánh hết, tại sao c̣n dở quá vậy ?” Rồi chán nản không c̣n muốn tu theo. Như thế, quan niệm đó đúng hay sai ? Đấy là điều tôi muốn nhắc quí vị. Người tại gia, kể cả người xuất gia, quí vị phải quan niệm cho đúng. Chúng tôi chưa có ai được vào hàng Thánh, chúng tôi là phàm Tăng, phàm Ni; đă là phàm tức là đang tu, đang tu tức là chưa sạch. Quí vị nên nhớ rơ, người nào đang tu tức người đó chưa sạch, như chiếc áo c̣n đang giặt chưa phải là áo sạch, nếu sạch rồi không ai giặt nữa. Như vậy c̣n giặt là c̣n nhơ, c̣n tu là c̣n khuyết điểm; c̣n khuyết điểm nên mới tu cho hết điều dở, xấu; hết khuyết điểm th́ tu làm chi nữa, v́ đă là Phật rồi. V́ thế đối với người tu, không nên đ̣i hỏi các vị ấy phải là thần tượng, phải là hiện thân của chân lư. Tuy nhiên có thể đ̣i hỏi các người tu như thế này: Nếu người tại gia xấu một trăm phần th́ ít ra người xuất gia cũng được năm chục phần tốt, chỉ c̣n năm chục phần xấu, điều đó khả dĩ được. Người c̣n tu chưa phải toàn vẹn trăm phần, toàn vẹn là khi nào thành Phật. Người đang tu hơn được quí vị chừng hai, ba mươi phần trăm, hay khá lắm là năm mươi phần trăm là được lắm rồi, không nên đ̣i hỏi quá đáng. Hiểu như vậy, quí vị mới có thể thông cảm được với người tu và ở gần không chán. Nhưng người tu có nhiều điểm khác người thế gian, như người thế gian nghe lời trái tai có thể giận mười năm không bỏ; với người tu th́ khác, trong sách có câu “Tăng hận bất cách túc” nghĩa là Tăng giận không quá một đêm. Như vậy người tu hay người thế gian đều có giận nhưng người tu chỉ giận chốc lát rồi bỏ. Không nên đ̣i hỏi người tu không c̣n tâm giận, v́ tham sân si là ba cái gốc của cơi luân hồi này, c̣n ở cơi này tức là c̣n tham sân si. Khi nào dẹp sạch ba độc này là chứng quả A-la-hán; song hiện nay mấy ai chứng quả A-la-hán ? Nhưng có điều hay là người tu khi làm điều dở bị phê b́nh liền biết hối cải. Tỉ dụ như người biết tu khi vừa nổi sân liền bị người chỉ lỗi “đó là hắc phong”, người biết tu liền hối hận bỏ ngay. Như vậy là tốt, là đáng khen, chớ đừng bảo người tu không có giận. Tất cả quí Phật tử cũng vậy, khi làm việc ǵ dở, được sự chỉ dạy của người trên, hoặc sự nhắc nhở của đồng bạn hay tự ḿnh biết điều đó là dở liền bỏ, đó là người trí tuệ. Đừng bao giờ nghĩ rằng ḿnh không có điều dở, chúng ta có dở, nhưng biết sửa đổi, đó là tốt, là trí tuệ. Nếu dở mà cứ che giấu trong ḷng hoài, đó là người không hiền. Không hiền là người ǵ ? Là kẻ dữ. Người che giấu lỗi hoài là kẻ dữ, c̣n người hiền có lỗi ǵ phơi bày ra rồi chừa bỏ, đó là người tốt, người khôn ngoan, người trí tuệ.

Tóm lại, lời dạy của Tổ thực  tế  vô  cùng,

Ngài chỉ cho chúng ta tu một cách thiết thực. Ngài bảo ở trong gia đ́nh, trên kính thờ cha mẹ, dưới thương anh em và nhường nhịn nhau cho trong nhà được an vui, đem lại sự ḥa mục, nhẫn nhịn để ḷng ḿnh hết ồn náo. Được như vậy là ḿnh khéo ở trong bùn mà mọc hoa sen. Ngài lại dạy lời nói ngay nghe trái tai nhưng có lợi, v́ đó là lời trung thực cũng như thuốc đắng đă tật vậy; có lỗi liền biết sửa, đó là trí tuệ, có lỗi mà che giấu th́ không phải là người hiền, hay nói nặng hơn, đó là kẻ dữ.

                        Nhật dụng thường hành nhiêu ích,

                        Thành đạo phi do thí tiền,

                        Bồ-đề chỉ hướng tâm mích,

                        Hà lao hướng ngoại cầu huyền.

Mỗi ngày thường làm những điều lợi ích cho mọi người, cho chúng sanh. Nhiêu ích là lợi ích cho nhiều người, cho chúng sanh. Người tu thành đạo không phải đem tiền thí mà thành đạo; thành đạo là do tu nơi tâm ḿnh, thí tiền chỉ là phước ở bên ngoài. Thế nên người tu muốn giác ngộ là phải tự tâm ḿnh giác ngộ, chớ không phải cúng thí nhiều mà giác ngộ. Cúng thí là tạo phước để ḿnh được những quả tốt cho đời sau, chớ không phải là thành đạo. Bồ-đề chỉ cho tánh giác. Bồ-đề chỉ hướng trong tâm mà t́m, đâu có nhọc hướng ra ngoài cầu sự huyền diệu. Muốn giác ngộ phải ngay nơi tâm ḿnh giác, đừng mong t́m ở bên ngoài, bên ngoài không có những huyền diệu đó.

                        Thính thuyết y thử tu hành,

                        Tây phương chỉ tại mục tiền.

Nghe nói y đây tu hành, Cực Lạc chỉ ngay trước mắt. Ngài bảo người nào y theo bài kệ Ngài dạy mà tu hành th́ cơi Cực Lạc ở ngay trước mắt, không có xa xôi, không có cách mười muôn ức cơi. Vậy muốn thấy Cực Lạc th́ hằng ngày ứng dụng đúng như bài kệ này sẽ thấy Cực Lạc hiện tiền.

Tổ lại bảo: “Này Thiện tri thức, thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy tự tánh, thẳng đó thành đạo. Pháp không đợi nhau, mọi người hăy giải tán, tôi trở về Tào Khê, chúng nếu có nghi, lại đến hỏi nhau.”

Khi ấy Thứ sử quan liêu ở trong hội, kẻ thiện nam tín nữ mỗi người đều được khai ngộ, tin thọ vâng làm.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2-d1][p2-d2]

[p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7][p8-d1][p8-d2][p9][p10][p11-d1][p11-d2]

[Trang chu] [Kinh sach]