[Trang chu] [Kinh sach]

KINH PHÁP BẢO ĐÀN

[mucluc][loidausach][p1][p2-d1][p2-d2]

[p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7][p8-d1][p8-d2][p9][p10][p11-d1][p11-d2]


PHẨM THỨ SÁU: SÁM HỐI 

DỊCH

Khi ấy Tổ thấy sĩ thứ bốn phương từ Quảng Châu, Thiều Châu đua nhau đến trong núi nghe pháp, Tổ mới đăng ṭa bảo chúng: “Đến đây, các Thiện tri thức, tánh này phải từ trong tự tánh mà khởi, trong tất cả thời, mỗi niệm tự tịnh tâm kia, tự tu, tự hành, thấy Pháp thân của ḿnh, thấy tâm Phật của ḿnh, tự độ, tự giới mới được, không nhờ đến đây. Đă từ xa đến, một hội ở đây đều cùng có duyên, nay có thể mỗi vị qú gối, trước tôi v́ truyền cho Tự Tánh Ngũ phần Pháp thân hương, kế đó là trao Vô tướng sám hối.”

Chúng đều qú gối, Tổ bảo:  

“Một là Giới hương, tức là trong tâm ḿnh không có quấy, không có ác, không tật đố, không tham sân, không cướp hại, gọi là Giới hương.

Hai là Định hương tức là thấy các cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn gọi là Định hương.

Ba là Tuệ hương là tâm ḿnh không ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo các ác, tuy tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, kính bậc trên thương kẻ dưới, cứu giúp người cô bần, gọi là Tuệ hương.

Bốn là Giải thoát hương tức tự tâm ḿnh không có chỗ phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại gọi là Giải thoát hương.

Năm là Giải thoát tri kiến hương tự tâm đă không có chỗ phan duyên thiện ác, không thể trầm không trệ tịch, tức phải học rộng nghe nhiều biết bản tâm ḿnh, đạt được lư của chư Phật, ḥa quang tiếp vật, không ngă không nhân, thẳng đến Bồ-đề, chân tánh không đổi, gọi là Giải thoát tri kiến hương.

Này Thiện tri thức, hương này mỗi người tự huân ở trong, chớ hướng ra ngoài t́m.

Nay tôi v́ các ông trao Vô tướng sám hối để diệt tội trong ba đời, khiến được ba nghiệp thanh tịnh. Này Thiện tri thức, mỗi người đồng thời nói theo lời tôi :

Đệ tử chúng con, từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị ngu mê làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, ngu mê v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, hằng không khởi lại.

Đệ tử chúng con từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị kiêu cuống làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, kiêu cuống v.v...các tội, thảy đều sám hối, nguyện một thời tiêu diệt, hằng không khởi lại. Đệ tử chúng con từ niệm trước, niệm hiện tại và niệm sau, mỗi niệm không bị tật đố làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, tật đố v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, hằng không khởi lại.

Này Thiện tri thức, về trước là Vô tướng Sám hối. Thế nào gọi là sám ? Thế nào gọi là hối ? Sám là sám những lỗi về trước, từ trước có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v... các tội, thảy đều sám hết hằng không khởi lại, gọi đó là sám. Hối là hối những lỗi về sau, từ nay về sau có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v... các tội, nay đă giác ngộ, thảy đều hằng đoạn, lại không tạo lại, ấy gọi là hối, nên gọi là sám hối. Người phàm phu ngu mê, chỉ biết sám lỗi trước, chẳng biết hối lỗi sau, do v́ không hối nên tội trước chẳng diệt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đă chẳng diệt, lỗi sau lại sanh, sao gọi là sám hối được.

Này Thiện tri thức, đă sám hối xong, v́ Thiện tri thức phát Tứ hoằng thệ nguyện, mỗi người phải dụng tâm chánh lắng nghe:

Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,  Tự tâm phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn,           

            Tự tánh pháp môn vô tận thệ nguyện học,

            Tự tánh Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.

Này Thiện tri thức, cả thảy đâu chẳng nói: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, nói thế ấy, vả lại không phải là Huệ Năng độ. Này Thiện tri thức, chúng sanh trong tâm, chỗ gọi tâm tà mê, tâm cuống vọng, tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm ác độc, những tâm như thế trọn là chúng sanh, mỗi người nên tự tánh tự độ, ấy gọi là chân độ. Sao gọi là tự tánh tự độ ? Tức tự trong tâm những chúng sanh tà kiến, phiền năo, ngu si, đem chánh kiến mà độ. Đă có chánh kiến bèn sử dụng trí Bát-nhă đánh phá những chúng sanh ngu si mê vọng, mỗi mỗi tự độ, tà đến th́ chánh độ, mê đến th́ ngộ độ, ngu đến th́ trí độ, ác đến th́ thiện độ, độ như thế gọi là chân độ. Lại phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn, đem tự tánh Bát-nhă trí trừ tâm tư tưởng hư vọng ấy vậy. Lại pháp môn vô tận thệ nguyện học, phải tự thấy tánh của ḿnh, thường hành chánh pháp, ấy gọi là chân học. Lại Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành, đă thường hay hạ tâm hành nơi chân chánh, ĺa mê, ĺa giác, thường sanh Bát-nhă trừ chân trừ vọng, tức thấy được Phật tánh, liền ngay nơi lời nói, liền thành Phật đạo, thường nhớ tu hành, ấy là pháp nguyện lực.

Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại v́ Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,

                        Qui y Giác Lưỡng túc tôn,

                        Qui y Chánh Ly dục tôn,

                        Qui y Tịnh Chúng trung tôn.

Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng qui y tà ma ngoại đạo, dùng tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện tri thức qui y tự tánh Tam Bảo.  Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh vậy. Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc hay ĺa tài sắc, gọi là Lưỡng túc tôn. Tự tâm qui y Chánh, niệm niệm không tà kiến, v́ không tà kiến tức là không nhân ngă cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn. Tự tâm qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, tự tánh đều không nhiễm trước gọi là Chúng trung tôn. Nếu tu hạnh này, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ sáng đến tối, thọ tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào ? Nếu chẳng thấy Phật th́ nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng. Này Thiện tri thức, mỗi người tự quan sát, chớ lầm dụng tâm, kinh văn rơ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác, tự Phật mà chẳng qui th́ không có chỗ nào mà y được. Nay đă tự ngộ, mỗi người phải qui y tự tâm Tam Bảo, trong th́ điều ḥa tâm tánh, ngoài th́ cung kính mọi người, ấy là tự qui y vậy.

Này Thiện tri thức, đă qui y tự Tam Bảo xong, mỗi người phải chí tâm, tôi v́ nói một thể ba thân tự tánh Phật, khiến các ông thấy được ba thân rơ ràng tự ngộ tự tánh. Phải nói theo tôi:

            Nơi tự sắc thân qui y Thanh Tịnh Pháp Thân Phật,

            Nơi tự sắc thân qui y Viên Măn Báo Thân Phật,

            Nơi tự sắc thân qui y Thiên Bá Ức Hóa Thân Phật.

Này Thiện tri thức, sắc thân là nhà cửa không thể nói qui hướng, ba thân Phật ở trong tự tánh người đời thảy đều có, v́ tự tâm mê không thấy tánh ở trong nên chạy ra ngoài t́m ba thân Như Lai, chẳng thấy ở trong thân có ba thân Phật. Các ông lắng nghe tôi nói khiến các ông ở trong tự thân thấy được tự tánh có ba thân Phật. Ba thân Phật này từ nơi tự tánh sanh, chẳng phải từ ngoài mà được.

Sao gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật ? Người đời bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc ác tức sanh hạnh ác, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các pháp ở trong tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, v́ mây che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên trời kia. Này Thiện tri thức, trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm che phủ tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi tự tánh muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.

Này Thiện tri thức, tự tâm qui y tự tánh là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ bỏ trong tự tánh tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngă, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm lấn người, tâm tà kiến, tâm cống cao và hạnh bất thiện trong tất cả thời, thường tự thấy lỗi ḿnh, chẳng nói tốt xấu của người khác, ấy là tự qui y. Thường tự hạ tâm, khắp hành cung kính tức là thấy tánh, thông đạt  lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y.

Sao gọi là Viên Măn Báo Thân Phật ? Thí như một ngọn đèn hay trừ ngàn năm tối, một trí tuệ hay diệt muôn năm ngu. Chớ suy nghĩ về trước, đă qua không thể được. Thường phải nghĩ về sau, mỗi niệm mỗi niệm tṛn sáng, tự thấy bản tánh. Thiện ác tuy là khác mà bản tánh không có hai, tánh không hai đó gọi là tánh thật. Ở trong thật tánh không nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên Măn Báo Thân Phật. Tự tánh khởi một niệm ác th́ diệt muôn kiếp nhân lành, tự tánh khởi một niệm thiện th́ được hằng sa ác hết, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy chẳng mất bản niệm gọi là Báo thân.

Sao gọi là Thiên Bá Ức Hóa Thân Phật ? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp th́ tánh vốn như không, một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác là hóa làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện th́ hóa làm thiên đường, độc hại th́ hóa làm rồng rắn, từ bi th́ hóa làm Bồ-tát, trí tuệ th́ hóa làm thượng giới, ngu si th́ hóa làm hạ giới. Tự tánh biến hóa rất là nhiều, người mê không hay tỉnh giác, mỗi niệm khởi ác thường đi trong con đường ác, xoay về một niệm thiện, trí tuệ liền sanh, đây gọi là tự tánh Hóa thân Phật.

Này  Thiện  tri  thức, từ  Pháp  thân   suy nghĩ tức là Hóa thân Phật, niệm niệm tự tánh tự kiến tức là Báo thân Phật, tự ngộ tự tu, tự tánh công đức, ấy là chân thật qui y. Da thịt là sắc thân, sắc thân đó là nhà cửa, không nói là qui y vậy. Chỉ ngộ tự tánh ba thân tức là biết được tự tánh Phật. Tôi có một bài tụng Vô Tướng, nếu người hay tŕ tụng, ngay nơi lời nói liền khiến cho ông, tội  mê từ  nhiều  kiếp, một lúc liền tiêu diệt. Tụng rằng:

                        Người mê tu phước chẳng tu đạo,

                        Chỉ nói tu phước liền là đạo,

                        Bố thí cúng dường phước vô biên,

                        Trong tâm ba ác xưa nay tạo.

                        Nghĩ muốn tu phước để diệt tội,

                        Đời sau được phước, tội vẫn c̣n,

                        Chỉ hướng trong tâm trừ tội duyên,

                        Mỗi người tự tánh chân sám hối.

                        Chợt gặp Đại thừa chân sám hối,

                        Trừ tà hành chánh tức không tội,

                        Học đạo thường nơi tự tánh quán,

                        Tức cùng chư Phật đồng một loại.

                        Tổ ta chỉ truyền pháp đốn giáo,

                        Khắp nguyện kiến tánh đồng một thể,

                        Nếu muốn đời sau t́m Pháp thân,

                        Ĺa các pháp tướng trong tâm sạch.

                        Nỗ lực tự thấy chớ lơ là,

                        Một niệm chợt dứt một đời thôi,

                        Nếu gặp Đại thừa được thấy tánh,

                        Thành tâm cung kính chấp tay cầu.”

                        (Mê nhân tu phúc bất tu đạo,

                        Chỉ ngôn tu phúc tiện thị đạo,

                        Bố thí cúng dường phúc vô biên,

                        Tâm trung tam ác nguyên lai tạo.

                        Nghĩ  tương tu phúc dục diệt tội,

                        Hậu thế đắc phúc, tội hoàn tại,

                        Đăn hướng tâm trung trừ tội duyên,

                        Các tự tánh trung chân sám hối.

                        Hốt ngộ Đại thừa chân sám hối,

                        Trừ tàø hành chánh tức vô tội,

                        Học đạo thường ư tự tánh quán,

                        Tức dữ chư Phật đồng nhất loại.

                        Ngô Tổ duy truyền thử đốn pháp,

                        Phổ nguyện kiến tánh đồng nhất thể,

                        Nhược dục đương lai mích Pháp thân,

                        Ly chư pháp tướng tâm trung tẩy.

                        Nỗ lực tự kiến mạc du du,

                        Hậu niệm hốt tuyệt nhất thế hưu,

                        Nhược ngộ Đại thừa đắc kiến tánh,

                        Kiền cung hiệp chưởng chí  tâm cầu.)

Tổ nói: “Này Thiện tri thức, phải tụng lấy, y đây tu hành, ngay nơi lời nói mà thấy tánh, tuy cách tôi ngàn dặm như thường ở bên cạnh tôi; nơi lời nói này mà chẳng ngộ tức là đối diện với tôi mà cách xa ngàn dặm, đâu cần từ xa đến đây. Trân trọng đi được an vui.”

Cả chúng nghe pháp rồi không ai mà chẳng khai ngộ, đều hoan hỷ phụng hành.

 

GIẢNG

Khi ấy Tổ thấy sĩ thứ bốn phương từ Quảng Châu, Thiều Châu đua nhau đến trong núi nghe pháp, Tổ mới đăng ṭa bảo chúng: “Đến đây, các Thiện tri thức, tánh này phải từ trong tự tánh mà khởi, trong tất cả thời, mỗi niệm tự tịnh tâm kia, tự tu, tự hành, thấy Pháp thân của ḿnh, thấy tâm Phật của ḿnh, tự độ, tự giới mới được, không nhờ đến đây. Đă từ xa đến, một hội ở đây đều cùng có duyên, nay có thể mỗi vị qú gối, trước tôi v́ truyền cho Tự Tánh Ngũ phần Pháp thân hương, kế đó là trao Vô tướng sám hối.”

Trong phẩm Sám Hối này Tổ dạy những phần sau đây: Ngũ phần Pháp thân hương, Vô tướng sám hối, Tứ hoằng thệ nguyện v.v...

Trước hết chúng  tôi  giảng  về  Ngũ  phần     Pháp thân hương. Đầu tiên Tổ thấy sĩ thứ từ xa đến núi nghe pháp, Ngài mới bảo: Tánh này ở ngay trong tánh của ḿnh mà khởi, không phải từ ngoài. Như vậy muốn sống được tự tánh của ḿnh th́ trong tất cả thời mỗi niệm tự tịnh tâm ḿnh, tự tu, tự hành, thấy được Pháp thân,thấy được tâm Phật của ḿnh, tự độ, tự giới mới được, không phải nhờ đến núi này.

Bây giờ quí vị đă lỡ đến đây rồi, không lẽ làm thinh. Lẽ ra mỗi người phải tự tu, tự độ, nhưng quí vị đă đến đây tức là có duyên với nhau. Vậy quí vị hăy qú gối xuống, trước tôi sẽ truyền cho Tự tánh Ngũ phần Pháp thân hương, rồi sau sẽ trao cho Vô tướng sám hối.

 Chúng đều qú gối, Tổ bảo:

“Một là Giới hương, tức là trong tâm ḿnh không có quấy, không có ác, không tật đố, không tham sân, không cướp hại, gọi là Giới hương.

Hai là Định hương tức là thấy các cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn gọi là Định hương.

Ba là Tuệ hương là tâm ḿnh không ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo các ác, tuy tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, kính bậc trên thương kẻ dưới, cứu giúp người cô bần, gọi là Tuệ hương.

Một là Giới hương, là ngay ở trong tâm ḿnh không có quấy, không có ác, không có tật đố, không có tham sân và không có cướp hại. Hai là Định hương, tức là thấy những cảnh tướng tốt xấu lành dữ ở bên ngoài mà tâm ḿnh vẫn an nhiên bất động. Ba là Tuệ hương, đến đây Tổ dạy từ cao đến thấp, cao là tâm ḿnh vô ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh, kế đó là không tạo những điều ác, và tuy làm các điều lành mà tâm không chấp trước. Không tạo ác có khi làm được, c̣n khi tạo các điều lành mà không chấp th́ dễ hay khó ? Tỉ dụ như có nhiều người thật tốt hay làm những điều lành, thấy ai gặp nguy hiểm hoặc nghèo đói, liền theo khả năng giúp đỡ, thật là tốt, nhưng giúp rồi th́ nhớ hoài, giúp người này, lại kể cho người kia nghe. Như vậy tốt th́ tốt, điều thiện th́ có làm mà tâm vẫn c̣n chấp trước. Cho nên khi ḿnh giúp đỡ ai, rồi mai chiều họ có vẻ quên ân bạc nghĩa th́ ḿnh tức giận. V́ vậy trước là làm điều thiện rồi sau lồng cái ác vào, đến khi tức giận th́ nói nặng lời, hoặc có thể hại người nữa; cho nên trong cái thiện mà chấp th́ nó dễ biến thành ác. V́ vậy chúng ta không làm ác là tốt rồi, mà khi làm thiện cũng đừng chấp nữa mới thật là hay, c̣n làm thiện mà chấp cũng không được. Chính điều này chúng tôi đă thấy khá nhiều qua kinh nghiệm sống. Có một vị có phương tiện sống dễ dàng, đem một đứa cháu mồ côi về nuôi nấng cho nó ăn mặc rất là đầy đủ, học hành đàng hoàng. Duy có một điều là khi nổi giận kể công ơn nuôi dưỡng đủ điều; khi đứa bé lớn lên nghe măi lời kể ơn nó sanh chán nản, tự ái, chịu không nổi, rồi bỏ đi. V́ vậy làm ơn mà sau trở thành oán, là v́ chấp vào việc làm thiện của ḿnh. Cho nên chúng ta phải biết rơ điều thiện chúng ta làm rất tốt, rất đáng khen, nhưng không chấp nữa th́ cái tốt mới thật là tốt, đó gọi là Tuệ hương. Nếu làm thiện mà c̣n chấp chưa phải là Tuệ hương. Điều ác không làm, và làm tất cả điều lành lại không có chấp lành đó mới thật là tốt. Kế đến, trên th́ kính người trưởng thượng, dưới th́ thương kẻ thấp kém hơn ḿnh, tức là người trên ḿnh cung kính, kẻ dưới ḿnh thương yêu, đồng thời gặp ai côi cút cô bần ḿnh giúp đỡ, được như vậy gọi là Tuệ hương.

Tổ dạy thật là kỹ vừa lư vừa sự đầy đủ, lư tức là tâm vô ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh; sự là không làm ác, hằng làm lành mà không chấp, kính người trên, thương kẻ dưới, cứu giúp người cô bần, như vậy sự lư đầy đủ không thiếu sót. Nhưng có một ít người học đạo không hiểu thấu đáo, nghe lời Phật lời Tổ dạy trong kinh phải sống trở về tự tâm tự tánh của ḿnh, rồi cứ chấp như vậy và nói tôi trở về tự tâm tự tánh, ai làm ǵ th́ làm cũng bất cần. Đó là bệnh chấp lư mà bỏ sự. Người có trí tuệ biết sống trở về tự tâm tự tánh của ḿnh, nhưng đối với người ngoài cũng phải có trí tuệ, bỏ ác làm lành; để cho cái lành được viên măn là đừng chấp; rồi kính người trên thương kẻ dưới, đó mới là đạo đức. Nếu bảo đạo đức là trở về tự tâm ḿnh, rồi đối với thiên hạ ngang ngang ngược ngược không kể ai hết, như vậy gọi là đạo đức chăng? Chúng ta thấy rơ Tổ dạy thật là chí lư, đầy đủ cả hai mặt lư và sự, không thiên lệch một bên nào. Đó là nói về Tuệ hương.

Bốn là Giải thoát hương tức tự tâm ḿnh không có chỗ phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại gọi là Giải thoát hương.

Giải thoát hương là tâm ḿnh không có dính mắc, chữ phan duyên có nghĩa là vin theo, là dính mắc. Chỗ giải thoát này là tâm không dính mắc với ngoại cảnh, cũng không mắc kẹt với điều nghĩ lành nghĩ dữ; giải thoát là như vậy. Đừng nghĩ giải thoát là bay bổng lên mây xanh, mà giải thoát là tâm không chạy theo cảnh, không bị việc thiện việc ác lôi cuốn, được tự tại vô ngại, gọi đó là Giải thoát hương.

Năm là Giải thoát tri kiến hương, tự tâm đă không có chỗ phan duyên thiện ác, không thể trầm không trệ tịch, tức phải học rộng nghe nhiều biết bản tâm ḿnh, đạt được lư của chư Phật, ḥa quang tiếp vật, không ngă không nhân, thẳng đến Bồ-đề, chân tánh không đổi, gọi là Giải thoát tri kiến hương. Này Thiện tri thức, hương này mỗi người tự huân ở trong, chớ hướng ra ngoài t́m. 

Đây là phần sâu hơn khi chúng ta không chạy theo cảnh, không dính cảnh, cũng không nghĩ thiện, không nghĩ ác, rồi ḿnh mắc kẹt, ch́m trong cái lặng lẽ đó, nên gọi là trầm không thủ tịch. Khi đến đây rồi tức phải học rộng nghe nhiều biết bản tâm ḿnh, đạt được lư của chư Phật, ḥa quang tiếp vật. Thế nào là ḥa quang tiếp vật ? Chúng tôi mượn một thí dụ để hiểu: Như mỗi buổi sáng mặt trời lên, nh́n lên trên nhà, nếu là nhà tường nhà ngói, nh́n qua những chỗ kiếng, thấy ánh sáng rọi vào nhà. Nh́n chỗ ánh sáng rọi vào, chúng ta thấy những hạt bụi lẫn lộn bay. Như vậy ánh sáng là quang, bụi ḥa lẫn trong chỗ ánh sáng đó. Nếu là nhà lá, qua mấy kẽ hở ánh sáng rọi vào nhà, chúng ta thấy bụi bay loanh quanh. Như vậy ḥa quang nói cho đủ là ḥa quang đồng trần, tức là đem ánh sáng ḥa với bụi, đó là h́nh ảnh thí dụ để chỉ người đạt được lư đạo rồi, không chấp ở chỗ thanh tịnh của ḿnh mà đi vào trong cuộc đời, lăn ḿnh trong cảnh nhớp nhúa của xă hội, để làm lợi ích chúng sanh. Người đạt đạo thanh tịnh ví dụ như ánh sáng, c̣n chúng sanh mê muội ví như bụi, hai cái ḥa nhau để mà tiếp dẫn tức là tiếp cứu, lợi tha, giúp đỡ họ và đưa họ ra khỏi chỗ mê lầm. Khi cứu giúp đời như vậy, người đạt đạo không có ngă, không có nhân, thẳng đến Bồ-đề, chân tánh không đổi, gọi đó là Giải thoát tri kiến hương.

Hương thứ năm này, mỗi ngày chúng ta thắp hương cầu nguyện mà thật không biết chừng nào chúng ta thực hành được. Hương thứ tư (Giải thoát hương) tuy khó mà c̣n có thể rán làm, c̣n hương thứ năm này đúng ra trong mười mục chăn trâu thuộc mục “buông thơng tay vào chợ”. Chỗ này chúng tôi nhắc lại một lần nữa cho thật rơ: Giải thoát tri kiến hương là ǵ ? Tức là tâm ḿnh đă không có bị phan duyên thiện ác, không nghĩ thiện, không nghĩ ác rồi, mà cũng không mắc kẹt ở chỗ ch́m nơi không, giữ nơi tịch. Không nghĩ thiện, không nghĩ ác rồi, bây giờ phải học cho nhiều, hiểu cho rộng, biết bản tâm ḿnh, và đạt được lư của Phật dạy, gọi đó là tâm thông và thuyết thông. Được như vậy rồi phải lẫn lộn trong quần chúng để d́u dắt và giáo hóa họ. Khi d́u dắt và giáo hóa chúng sanh mà không thấy ngă, thấy nhân, chỉ một bề đưa họ tới Bồ-đề, mới là viên măn bản nguyện. Đó là Giải thoát tri kiến hương. Nếu bây giờ chúng ta qui y cho các Phật tử, lâu lâu kiểm sổ coi năm nay được mấy trăm người qui y, đó cũng là c̣n ngă, c̣n nhân !

Đến đây chúng tôi nhắc lại, mỗi khi quí vị đến chùa thường nghe niệm Ngũ phần Pháp thân hương. Một là Giới hương tức là trong tâm ḿnh không quấy, không ác, không tật đố, không tham sân, không cướp hại, đó là Giới hương. Hai là Định hương, tức là đối với tất cả cảnh tướng ác hay thiện, tốt hay xấu ḿnh đều không có loạn, đó là Định hương. Ba là Tuệ hương tức là nơi tâm ḿnh không có ngăn ngại và thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh của ḿnh, đó là về lư; về sự th́ phải không làm ác, tu các điều lành mà đừng chấp lành, đồng thời kính bậc trên, thương kẻ dưới, cứu giúp kẻ cô bần, đó là Tuệ hương. Bốn là Giải thoát hương, tức là tâm ḿnh không có chỗ phan duyên, nghĩa là không chạy theo cảnh cũng không nghĩ thiện, không nghĩ ác, được tự tại vô ngại, đó là Giải thoát hương. Năm là Giải thoát tri kiến hương tức là tâm ḿnh đă không chạy theo cảnh bên ngoài rồi, lại cũng không ch́m nơi không, kẹt nơi vắng lặng, mà phải học rộng hiểu nhiều, biết bản tâm ḿnh rơ ràng, biết lư Phật một cách thấu đáo, để rồi lăn lộn trong quần chúng tiếp dẫn họ mà không thấy có ḿnh có người, đưa họ thẳng đến Bồ-đề, không có chướng ngại, đó là Giải thoát tri kiến hương.

Đến phần sám hối, mỗi khi chúng ta sám hối phải thế nào cho đúng ?

Nay tôi v́ các ông trao Vô tướng sám hối để diệt tội trong ba đời, khiến được ba nghiệp thanh tịnh. Này Thiện tri thức, mỗi người đồng thời nói theo lời tôi: 

Đệ tử chúng con, từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị ngu mê làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, ngu mê v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một thời tiêu diệt, hằng không khởi lại.

Đệ tử chúng con từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị kiêu cuống làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, kiêu cuống v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một thời tiêu diệt, hằng không khởi lại.

Đệ tử chúng con từ niệm trước, niệm hiện tại và niệm sau, mỗi niệm không bị tật đố làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, tật đố v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, hằng không khởi lại.

Đây là Tổ đă trao pháp Vô tướng sám hối, tức Ngài dạy chúng ta sám hối từng tâm niệm, niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm do ngu mê, do kiêu cuống, do tật đố làm ô nhiễm, tạo thành tội, đều xin sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, từ đây về sau không có khởi lại. Như vậy sám hối ngu mê, sám hối kiêu cuống, sám hối tật đố và nguyện không có khởi lại, gọi là “Vô tướng sám hối”. Ngu mê là si, kiêu cuống là tham, tật đố là sân.Tức là sám hối tất cả tội lỗi do tham sân si gây ra đều thanh tịnh.

Sau đây Tổ định nghĩa Sám hối là ǵ.

Này Thiện tri thức, về trước là Vô tướng Sám hối. Thế nào gọi là sám? Thế nào gọi là hối? Sám là sám những lỗi về trước, từ trước có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v... các tội, thảy đều sám hết hằng không khởi lại, gọi đó là sám. Hối là hối những lỗi về sau, từ nay về sau có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v... các tội, nay đă giác ngộ, thảy đều hằng đoạn, lại không tạo lại, ấy gọi là hối, nên gọi là sám hối. Người phàm phu ngu mê, chỉ biết sám lỗi trước, chẳng biết hối lỗi sau, do v́ không hối nên tội trước chẳng diệt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đă chẳng diệt, lỗi sau lại sanh, sao gọi là sám hối được ? 

Như vậy sám hối là ǵ ? Sám là sám những lỗi trước, c̣n hối là chừa những lỗi sau. Tỉ dụ như trong chúng ta có một Phật tử đă nguyện trước Tam Bảo giữ năm giới, trong ấy có giới không uống rượu. Một hôm nhân đi chơi với bạn bè, bất thần bị rủ vào ngồi quán, khi đó từ chối không được, uống hết một chung rượu. Đến khi về nhà, nghĩ lại biết ḿnh có lỗi v́ đă hứa trước Tam Bảo không được uống rượu; bữa nay v́ bị rủ rê, lỡ uống rượu rồi, tức nhiên phải sám, nghĩa là đến trước Phật hoặc chư Tăng thưa rằng: “Con tên ǵ, pháp danh ǵ, trước đă nguyện giữ giới không uống rượu. Hôm nay v́ si mê nên bị bạn bè rủ, con không giữ giới được, ngày nay con xin sám lỗi trước của con đă làm.” Chỉ sám như vậy chưa đủ, mà phải hối nữa: “Con nguyện từ nay về sau chừa cải không dám uống rượu nữa.” Có hối như vậy mới tránh được lỗi trước; nếu chỉ sám lỗi trước thôi, c̣n từ nay về sau không dám hứa chừa lỗi, như vậy không khỏi sẽ tái phạm lỗi cũ. Cho nên chúng ta sám lỗi trước mà cũng phải hứa từ đây về sau nhất định không phạm lại điều đó nữa, th́ mới đủ ư nghĩa sám hối. Đa số chúng ta bây giờ thường sám lỗi trước thôi, c̣n phần sau th́ để dành lại. Cho nên đến ngày ba mươi, ngày rằm đi tới chùa sám hối, vài ngày sau phạm y lỗi cũ; rồi đến ngày ba mươi, ngày rằm lại đi sám hối nữa, như thế hết năm này đến năm kia cũng không hết tội. Đó là v́ lầm lẫn, không hiểu đúng ư nghĩa sám hối. Cho nên phải hiểu sám hối là nguyện sám lỗi trước, và nguyện chừa lỗi sau, như vậy mới gọi là sám hối.

Này Thiện tri thức, đă sám hối xong, v́ Thiện tri thức phát Tứ hoằng thệ nguyện, mỗi người phải dụng tâm chánh lắng nghe: 

Tiếp theo là phần Tứ hoằng thệ nguyện, bài nguyện này chúng ta hằng tụng trong mỗi buổi chiều  tối. Ở đây Tổ dạy chúng ta có khác hơn một chút là:

            Tựï tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

            Tự tâm phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn,

            Tự tánh pháp môn vô tận thệ nguyện học,   

            Tự tánh vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.

Này Thiện tri thức, cả thảy đâu chẳng nói: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, nói thế ấy, vả lại không phải là Huệ Năng độ.

 Tổ dạy như vậy, c̣n chúng ta luôn luôn đọc:  “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ...” như vậy là ai độ ḿnh, hay ḿnh độ ai ? Tổ bảo là không phải Ngài độ chúng ta được, Tổ dạy chúng sanh đây là chúng sanh ở trong tâm, chớ không phải chúng sanh bên ngoài. Chúng sanh trong tâm là ǵ ?

Này Thiện tri thức, chúng sanh trong tâm, chỗ gọi tâm tà mê, tâm cuống vọng, tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm ác độc, những tâm như thế trọn là chúng sanh, mỗi người nên tự tánh tự độ, ấy gọi là chân độ. 

Cho nên chúng ta học Tổ rồi mới hiểu được ư kinh. Như trong kinh Kim Cang Phật bảo: “Độ tất cả chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn.” Nếu hiểu theo nghĩa chúng sanh bên ngoài th́ không bao giờ hiểu nổi ư kinh. Nhờ Tổ giải chúng ta mới hiểu chúng sanh đây là chúng sanh ở trong tâm của ḿnh. Chúng sanh trong tâm ḿnh là chúng sanh nào ? Tức là chúng sanh tà mê, chúng sanh cuống vọng, chúng sanh bất thiện, chúng sanh tật đố, chúng sanh ác độc, chính những tâm đó là chúng sanh, chớ không có chúng sanh nào khác. Tâm tà mê dấy lên là chúng sanh, tâm cuống vọng dấy lên là chúng sanh, tâm bất thiện dấy lên là chúng sanh, tâm tật đố dấy lên là chúng sanh, tâm ác độc dấy lên là chúng sanh, tất cả những tâm đó dấy lên đều là chúng sanh cả, độ hết tất cả những chúng sanh ấy, cho nên gọi là tự tánh tự độ, tức là chúng ta độ ngay trong tự tánh của ḿnh, chớ không phải độ ở ngoài, ấy gọi là chân độ, mới thật là độ chân chánh vậy.

Sao gọi là tự tánh tự độ ? Tức tự trong tâm những chúng sanh tà kiến, phiền năo, ngu si, đem chánh kiến mà độ. Đă có chánh kiến bèn sử dụng trí Bát-nhă đánh phá những chúng sanh ngu si mê vọng, mỗi mỗi tự độ, tà đến th́ chánh độ, mê đến th́ ngộ độ, ngu đến th́ trí độ, ác đến th́ thiện độ, độ như thế gọi là chân độ. 

Độ như vậy mới gọi là độ chân thật. Trong chúng ta đâu có người nào ích kỷ, phải vậy không ? Ngày nào chúng ta cũng độ chúng sanh bên ngoài, nhưng chúng sanh ngay trong tâm ḿnh, ḿnh không độ. Độ được chúng sanh trong tâm, mới độ được chúng sanh ở ngoài; chúng sanh trong tâm mà độ không được, th́ chúng sanh ở ngoài không bao giờ độ được, tại sao   vậy ? Tỉ dụ chúng sanh tật đố, chúng sanh sân hại mà ḿnh chưa độ hết, lại độ người ở ngoài, khi tật đố hay sân hại dấy lên th́ thế nào ? Lúc ấy muốn đánh họ, muốn giết họ. Thành ra không thể nào độ được chúng sanh ở ngoài, nếu chúng sanh ở trong chưa độ được. V́ vậy ở đây chúng ta phải độ chúng sanh ở trong trước, đó mới thật là độ. Nhưng khổ thay người tu chúng ta hiện nay muốn làm Bồ-tát quá sớm, lo độ chúng  sanh  ở  ngoài  mà  chúng  sanh  ở  trong không chịu độ, cho nên làm Bồ-tát một lúc rồi sanh sân hận, là v́ độ ở ngoài rồi bị kẹt, ban đầu th́ rất tốt nhưng sau hết tốt đi, đó là chỗ lầm lẫn của ḿnh. Cho nên chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng độ chúng sanh, mà gần nhất là chúng sanh trong tâm ḿnh phải rán độ nó trước, sau đó độ chúng sanh ở ngoài mới được. Độ chúng sanh trong tâm mới là chân độ, đó là tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

Lại phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn, đem tự tánh Bát-nhă trí trừ tâm tư tưởng hư vọng ấy vậy.

Tức là đem trí tuệ Bát-nhă của tự tánh ḿnh trừ dẹp những tâm tư hư vọng v.v… Độ hết những tâm đó gọi là Tự tâm phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn.

Lại pháp môn vô tận thệ nguyện học, Phải tự thấy tánh của ḿnh, thường hành  chánh pháp, ấy gọi là chân học.

 Học đây là học ngay nơi tự tánh của ḿnh, tức là học pháp môn nào mà ngộ được tự tánh của ḿnh, chớ không phải học những ǵ khác ở ngoài. Cho nên nói pháp môn vô tận thệ nguyện học là như vậy.

Lại vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành, đă thường hay hạ tâm hành nơi chân chánh, ĺa mê, ĺa giác, thường sanh Bát-nhă trừ chân trừ vọng, tức thấy được Phật tánh, ngay nơi lời nói, liền thành Phật đạo, thường nhớ tu hành, ấy là pháp nguyện lực. 

Tức là phải thấp tâm hạ ḷng ḿnh xuống, ĺa hai bên mê giác, chân vọng, nghĩa là không bị mắc kẹt hai bên; ngay nơi một câu hay một lời nói liền thành Phật đạo. Đó là sức mạnh của nguyện ḿnh.

Tóm lại trong phần “Tứ hoằng thệ nguyện”, Lục Tổ dạy chúng ta thệ nguyện như sau: Tự tâm chúng sanh của ḿnh, ḿnh phải độ, tự tâm phiền năo của ḿnh, ḿnh cũng phải đoạn. Rồi nguyện học vô tận pháp môn tức là học pháp môn tự thấy tánh (kiến tánh), do thấy tánh để hành chánh pháp. Rồi do không mắc kẹt hai bên mê giác, chân vọng, ngay nơi đó liền thành Phật đạo   Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệnguyện rồi lại v́ Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,

                        Qui y Giác Lưỡng túc tôn,

                        Qui y Chánh Ly dục tôn,

                        Qui y Tịnh Chúng trung tôn.

Kế đến Tổ trao Vô tướng Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: Qui y Phật Lưỡng túc tôn, Qui y Pháp Ly dục tôn, Qui y Tăng Chúng trung tôn. Nhưng Lục Tổ lại dạy khác: Qui y Giác Lưỡng túc tôn, Qui y Chánh Ly dục tôn, Qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy Giác là giác của tự tâm, Chánh là chánh của tự tâm, và Tịnh là tịnh của tự tâm, đây là Phật Pháp Tăng của tự tâm; c̣n chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài, cho nên khác nhau ở chỗ đó.

Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng qui y tà ma ngoại đạo, dùng tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện tri thức qui y tự tánh Tam Bảo: Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh vậy.

 Như vậy qui y Giác là qui y Phật, đó là Phật của chính ḿnh, không phải Phật nào khác. Giác, Chánh, Tịnh là sẵn nơi tự tâm của ḿnh, chớ không ở đâu xa.

Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay ĺa tài sắc, gọi là Lưỡng túc tôn.

 Chữ túc là chân, cũng có nghĩa là đủ. Lưỡng túc tôn là hai cái đầy đủ tức là tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc hay ĺa tài và sắc, ĺa tài ĺa sắc đó là lưỡng túc, hai cái đủ, ĺa tà mê là hai cái đủ. Hai cái đó đều ĺa được gọi là Lưỡng túc tôn.

Tự tâm qui y Chánh, niệm niệm không tà kiến, v́ không tà kiến tức là không nhân ngă cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn.

 Chánh tức là chánh kiến; bởi chánh kiến nên không có tà kiến; bởi không tà kiến nên ḿnh không có chấp nhân, chấp ngă, cống cao, tham ái, chấp trước, ĺa những tham dục, đó gọi là Ly dục tôn.

Tự tâm qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, tự tánh đều không nhiễm trước gọi là Chúng trung tôn.

Qui y Tịnh tức là trở về tâm thanh tịnh của ḿnh, th́ tất cả các trần lao, ái nhiễm v.v... ngay tự tánh ḿnh đều không nhiễm trước, gọi đó là Chúng trung tôn. Như vậy Tổ đều qui hướng Phật, Pháp, Tăng trở về tự tâm ḿnh.

Nếu tu hạnh nầy, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ sáng đến tối, thọ tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật th́ nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng. 

 Tổ giải thích, như chúng ta phát nguyện trước Tam Bảo: Qui y Phật, thử hỏi Phật ở đâu ? Nếu nói Phật trên bàn thờ th́ Phật có nói câu nào mà nương với Ngài được ? C̣n nếu nói Phật ở Ấn Độ th́ Ngài đă tịch hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Như nói qui y là nương về, nương về với h́nh tượng không biết nói năng, hay nương về với Phật xa xưa đă mất từ lâu rồi, đó là nương về cái rỗng. Cho nên Tổ bảo nương về tánh giác của ḿnh, đó là qui y Phật. Tánh giác nơi ḿnh mới là thật, mới là chỗ để trở về. Nếu chúng ta không đạt được lư nầy, thành ra nói rỗng, không có lẽ thật.

Qui y Pháp, pháp tức là Chánh, đây là chánh kiến, hằng thấy được điều tà ngoại không theo, đó là qui y Pháp. Qui y Tăng, tăng tức là Tịnh, đó là tâm thanh tịnh của ḿnh. Như vậy Tổ muốn dạy chúng ta xoay trở về tự tâm thanh tịnh của ḿnh, có đầy đủ Tam Bảo, đó mới là qui y chân thật, đó mới là chỗ qui hướng đạt đạo; c̣n nếu chúng ta cứ hướng về bên ngoài khơi khơi như vậy, th́ biết đến bao giờ đạt đạo ! Đó là điều căn bản cần phải hiểu. Cho nên trong mỗi thời khóa tụng kinh đều có hai đợt lạy Tam Bảo: Phần đầu sau khi tán dương Phật rồi, chúng ta lạy ba lạy là lạy Tam Bảo ở ngoài, tức là Tam Bảo mười phương đă có công giáo hóa chúng ta. Đến phần cuối khi chấm dứt thời kinh, chúng ta lạy ba lạy: Tự qui y Phật, tự qui y Pháp, tự qui y Tăng, là lạy Phật, Pháp, Tăng của ḿnh. Đức Phật xa xưa là bậc trưởng thượng chúng ta lạy là phải, nhưng v́ sao ḿnh lạy ḿnh ? Tự qui y là:

“Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.” Chúng tôi giải thích ư nghĩa của buổi lễ. Tự qui y Phật là trở về nương tựa ông Phật của ḿnh, tức là tánh giác. Đương nguyện chúng sanh là nguyện cho tất cả chúng sanh. Thể giải đại đạo là thể nhập và hiểu thấu đạo lớn. Phát vô thượng tâm là phát tâm vô thượng. Phần trước chúng ta lạy Tam Bảo ở ngoài là v́ ḷng thành kính và ngưỡng mộ, c̣n ở đây ḿnh lạy với tánh cách thệ nguyện, ḿnh biết trở về Phật của ḿnh, rồi nguyện cho tất cả chúng sanh đều hiểu được đạo lớn và phát tâm vô thượng. V́ biết trở về ông Phật của ḿnh, mà chúng sanh chưa biết, nên ḿnh lạy nguyện với Tam Bảo cho tất cả chúng sanh sẽ được như con, tức là trở về Phật của ḿnh, hiểu được đại đạo và phát tâm vô thượng như con vậy.

“Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải”. Tức là ḿnh biết trở về với Pháp của nội tâm ḿnh là chánh kiến, nhưng nhớ đến chúng sanh chưa biết điều đó, nên ḿnh nguyện tất cả chúng sanh đều thâm nhập được kinh tạng, vào trí tuệ rộng  như biển cả.

“Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng nhất thiết vô ngại.” Khi biết trở về với vị Tăng của ḿnh, tức là tâm thanh tịnh của ḿnh, chúng ta nguyện tất cả chúng sanh thốâng lư đại chúng tức là quản lư tất cả chúng, mà không có chướng ngại. Thường trong nhà Phật nói rằng chúng ta tu làm lợi ích cho ḿnh cho người th́ dễ, nhưng nhiếp chúng là cả một vấn đề. Nhiếp chúng tức là coi chúng để dạy họ sống ḥa thuận an vui không bị phiền năo rắc rối, đó là một chuyện hết sức khó. Cho nên nguyện tất cả chúng sanh quản lư hết chúng mà không có chướng ngại.

Như vậy mỗi khi lễ Phật rồi, chúng ta đều trở về Tam Bảo của tự tâm, và không quên nghĩ đến chúng sanh nên nguyện cho tất cả đều được ba điều lớn lao đó. Mỗi một lần tự qui y rồi, chúng ta lạy Phật một lạy để thệ nguyện của ḿnh được thực hiện. Biết được ư nghĩa tự qui y là trở về qui hướng với Tam Bảo nơi ḿnh, đó mới là nghĩa chân thật vậy.

Này Thiện tri thức, mỗi người tự quan sát, chớ lầm dụng tâm, kinh văn rơ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác, tự Phật mà chẳng qui th́ không có chỗ nào mà y được.

 Tức là ông Phật của ḿnh mà ḿnh không chịu trở về, th́ không c̣n chỗ nào để ḿnh nương được.

Nay đă tự ngộ, mỗi người phải qui y tự tâm Tam Bảo, trong th́ điều ḥa tâm tánh, ngoài th́ cung kính mọi người, ấy là tự qui y vậy.

Này Thiện tri thức, đă qui y tự Tam Bảo xong, mỗi người phải chí tâm, tôi v́ nói một thể ba thân tự tánh Phật, khiến các ông thấy được ba thân rơ ràng tự ngộ tự tánh.

 Sau phần tự qui y Tam Bảo, Tổ nói về một thể ba thân tự tánh Phật. Ba thân là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, ba thân nầy là tự tánh Phật của chính ḿnh, đều là tự tánh ḿnh có sẵn, chớ không đâu khác.

Phải nói theo tôi: Nơi tự sắc thân qui y Thanh tịnh Pháp thân Phật, nơi tự sắc thân qui  y Viên măn Báo thân Phật, nơi tự sắc thân qui y Thiên bá ức Hóa thân Phật.

Này Thiện tri thức, sắc thân là nhà cửa không thể nói qui hướng.

Nghĩa là sắc thân ḿnh mang đây là nhà cửa để ḿnh tạm trú, chớ không phải là chỗ để ḿnh qui y, nay mai nó tan ră, làm sao nương tựa nó được.

Ba thân Phật ở trong tự tánh người đời thảy đều có, v́ tự tâm mê không thấy tánh ở trong nên chạy ra ngoài t́m ba thân Như Lai, chẳng thấy ở trong thân có ba thân Phật. Các ông lắng nghe tôi nói khiến các ông ở trong tự thân thấy được tự tánh có ba thân Phật. Ba thân Phật này từ nơi tự tánh sanh, chẳng phải từ ngoài mà được.

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật ? Người đời bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc ác tức sanh hạnh ác, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các pháp ở trong tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, v́ mây che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên trời kia. Này Thiện tri thức, trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm che phủ tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi tự tánh muôn pháp đều hiện. Người thấy  tánh  cũng  lại  như thế, ấy gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật.

Trong đoạn văn trên Tổ giải thích mỗi người chúng ta ai cũng có đủ ba thân Phật: Thanh tịnh Pháp thân Phật, Viên măn Báo thân Phật, Thiên bá ức Hóa thân Phật. Thanh tịnh Pháp thân Phật là ǵ ? Là chỉ cho mỗi người chúng ta đều có sẵn bản tánh thanh tịnh, từ bản tánh đó dấy niệm nghĩ lành th́ làm lành, dấy niệm nghĩ dữ th́ làm dữ. Tỉ dụ như có mấy đứa bé chừng năm, ba tuổi xuống biển tắm, thấy sóng nó hỏi: Sóng tại sao mà có, hay sóng từ đâu có  ? Người lớn liền trả lời: Sóng từ nước mà có. Rơ ràng sóng từ dưới nước dấy lên, nếu không có nước làm ǵ có sóng được. Nhưng khi nước dấy lên thành sóng rồi, th́ thể lặng của nước không c̣n. Cũng như vậy, niệm thiện niệm ác từ đâu dấy lên ? Rơ ràng là từ tự tánh thanh tịnh dấy lên, nếu không có tánh thanh tịnh sẵn th́ niệm thiện niệm ác đâu dấy được. Nhưng ḿnh chỉ nhớ niệm thiện niệm ác mà quên đi tự tánh thanh tịnh, đó là điều quan trọng của sự tu hành. Bởi có tánh thanh tịnh nên mới dấy niệm thiện niệm ác, dấy niệm thiện rồi làm thiện, dấy niệm ác rồi làm ác. Cho nên người biết nghĩ thiện, biết nghĩ ác, biết nghĩ điều nầy, việc kia v.v... gốc là từ tự tánh sẵn có. Tổ bảo rằng nếu không có tánh th́ người đó chết mất rồi. Khi niệm dấy lên, chúng ta mải chạy theo niệm mà  quên mất tự tánh, nên Tổ dùng ví dụ sau đây hết sức rơ ràng: Như mặt trời mặt trăng trong bầu trời trong chiếu sáng, ánh sáng bủa cùng khắp, chợt có mây kéo đến che phủ mịt mù, nên ở trên sáng ở dưới tối. Khi gió thổi mây tan th́ trên dưới đều sáng tỏ. Bầu trời xanh trong là tỉ dụ cho tự tánh, do tự tánh trong sạch nên trí tuệ mới hiện, mặt trời là trí, mặt trăng là tuệ. Khi bị mây che phủ th́ bầu trời tối lại, khi mây tan th́ ánh sáng mặt trời mặt trăng bủa cùng khắp. Cũng như vậy, tựï tâm chúng ta thanh tịnh, khi vọng niệm vừa dấy khởi th́ trí tuệ bị mờ tối, nếu niệm lặng xuống th́ trí tuệ sáng ngời. Như vậy muốn cho trí tuệ sáng th́ đám mây vọng niệm phải tan. Nếu không hiểu điều nầy, tu hành mà lo luyện phép v.v... làm sao trí tuệ phát hiện được. Khi tất cả mây mù vọng tưởng tan rồi th́ tự tánh Thanh tịnh Pháp thân hiện.

Này Thiện tri thức, tự tâm qui y tự tánh là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ bỏ trong tự tánh tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngă, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm lấn người, tâm tà kiến, tâm cống cao và hạnh bất thiện trong tất cả thời, thường tự thấy lỗi ḿnh, chẳng nói tốt xấu của người khác, ấy là tự qui y. Thường tự hạ tâm, khắp hành cung kính tức là thấy tánh thông đạt lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y.

 Tự qui y là tự tâm ḿnh trở về với tự tánh ḿnh, đó gọi là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ hết trong tâm ḿnh những điều bất thiện như là tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngă, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm mạn người, tâm tà kiến, tâm cống cao, những tâm ác trong tất cả thời ḿnh phải trừ sạch hết. Tổ lại dạy: Thường tự thấy lỗi ḿnh, không nói lỗi xấu của người khác, đó gọi là tự qui y. Rồi phải tập thường hạ tâm ḿnh và cung kính người khác, để thấy được bản tánh, lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y. Ở chỗ nầy nên hiểu, người thấy tánh khác hơn người không thấy tánh, người không thấy tánh mà tu, càng tu càng tự cao tự đại tự măn; c̣n người thấy tánh càng tu lại càng thấp ḿnh, càng khiêm hạ, v́ sao ? Bởi v́ càng tu càng thấy vô ngă, mà vô ngă th́ cái ǵ cao ?  Người không thấy tánh tu một lúc thấy ḿnh được nhiều công đức, ḿnh có những phép lạ, ḿnh có thần thông, thấy những điềm tốt, các người khác chưa được, do đó nên sanh tâm khinh người mà tự cao. Ngược lại người thấy tánh mà tu th́ biết thân này, tâm này là hư giả, bởi biết hư giả nên càng tu càng hạ thấp nó xuống, càng mất nó chớ không cao nó được, cao nó tức là ngă mạn, là tướng của si mê, mà si mê th́ bao giờ giác được. Hiểu đúng như vậy, mới thấy lời Tổ nói là chân lư. Người tu thường phải thấp tâm xuống, cung kính người khác, thấy tánh thông suốt, không có ngăn trệ, ấy là tự qui y.

Sao gọi là Viên măn Báo thân Phật ? Thí như một ngọn đèn hay trừ ngàn năm tối, một trí tuệ hay diệt muôn năm ngu. 

Điều này có tin được không ? Tỉ dụ như cái nhà tối mịt một ngàn năm, bây giờ muốn nó sáng lại th́ phải bao lâu ? Chỉ cần thắp ngọn đèn đem vào nhà th́ sáng ngay, cái tối ngàn năm phút chốc liền mất. Hiện nay chúng ta tu cũng vậy, một phen trí tuệ sáng rồi th́ cái ngu của muôn năm cũng mất. Như khi tất cả chúng ta chưa được duyên học đạo th́ đối với thân này, đối với vọng tưởng này thấy là thật ḿnh. Nhưng khi học đạo rồi, có thể nghe Phật, Tổ nói một câu hai câu, chúng ta thấy rơ thân này và vọng tưởng không phải là thậät ḿnh. Khi thấy rơ như vậy tức nhiên cái ngu ngàn đời tự nó mất. C̣n nếu không mất luôn th́ lâu lâu cái ngu tái lại, ḿnh lại nhận thấy sự thật nữa, măi rồi cái ngu cũng phải tan. Như vậy chúng ta thấy rằng ngọn đèn trí tuệ một phen thắp lên th́ cái ngu không bao giờ c̣n được. Cho nên nói khi trí tuệ phát ra hay diệt được muôn năm ngu  là  như vậy.

  Chớ suy nghĩ về trước, đă qua không thể được. Thường phải nghĩ về sau, mỗi niệm mỗi niệm tṛn sáng, tự thấy bản tánh. 

Ở đây Tổ dạy chúng ta đừng suy nghĩ những lỗi về trước. Giả sử khi trước chúng ta  có làm những điều ǵ sai lầm, nay đă biết lỗi sám hối rồi thôi, không nên nhớ măi các lỗi đă qua rồi buồn tủi tu hành không được. Những lỗi ǵ qua rồi th́ thành tâm sám hối, nguyện từ nay về sau chừa bỏ, không tái phạm, sám hối xong là thôi, nếu c̣n hối hận măi đó là chướng đạo. Cho nên Tổ bảo chúng ta thường phải nghĩ về sau, trong mỗi niệm tṛn sáng, tự thấy bản tánh.

Thiện ác tuy là khác mà bản tánh không có hai, tánh không hai đó gọi là tánh thật.

 Niệm thiện niệm ác tuy là hai niệm khác nhau, nhưng trên bản tánh nó không có hai, tánh không hai đó gọi là tánh thật. Tỉ dụ như khi ngồi tu, niệm niệm dấy khởi, hoặc là niệm lành, hoặc là niệm dữ. Nhưng khi niệm lành hoặc dữ lặng xuống rồi, th́ cái hằng biết đó là lành hay dữ ? Cái hằng biết trong tâm ḿnh nghĩa là hằng biết lúc có niệm, lúc không niệm, cái hằng biết ấy thuộc về lành hay dữ ? - Nó không có lành dữ. Cho nên khi dấy niệm, th́ niệm niệm khác nhau, có lành có dữ, khi niệm lặng xuống, chỉ có cái liễu tri thường hằng không có lành dữ, nên nói tánh không hai mới là tánh thật, c̣n niệm lành hay dữ không phải là cái thật. Tổ chỉ dạy rơ như ban ngày không có ǵ phải nghi ngờ nữa. Dấy niệm lên th́ có thiện ác là thuộc về hai, mà hai th́ không thật; niệm thiện hoặc ác lặng xuống trở về bản tánh, th́ bản tánh là không hai, mà không hai mới là tánh chân thật, thật quá rơ ràng. Thế nên chúng ta muốn sống với tánh chân thật là phải dừng niệm thiện và ác, nếu không hiểu lư này chúng ta sẽ thắc mắc, bỏ niệm ác th́ được, v́ sao lại bỏ niệm thiện ? Bởi v́ thiện là đối với ác, những niệm đó c̣n dấy lên là sanh diệt, lặng những cái sanh diệt ấy mới là chân thật, cái chân thật ở ngay nơi đó, không đâu xa. V́ thế nói bản tánh th́ không hai, tánh không hai đó gọi là thật tánh.

Ở trong thật tánh không nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên măn Báo thân Phật. 

Nghĩa là trong tánh thật  không có  nhiễm thiện ác, đó là Viên măn Báo thân Phật. Như vậy t́m đâu thấy Phật ? Chỉ có lặng hai niệm thiện ác th́ Viên măn Báo thân Phật hiện tṛn đầy, cho nên nói viên là tṛn, măn là đầy, Báo thân Phật là tṛn đầy. Niệm dấy lên là tướng sanh diệt, thiên lệch, hoặc là thiện hoặc là ác, hai cái thiên lệch đó lặng xuống chỉ c̣n một tánh giác tṛn đầy, đó là Viên măn Báo thân Phật. V́ vậy ngay nơi mỗi người đều có Báo thân Phật, v́ chúng ta không lặng được niệm thiện ác cho nên không nhận được, nếu lặng được niệm thiện ác th́ ngay nơi tâm ḿnh đă đầy đủ Báo thân Phật.

Tự tánh khởi một niệm ác th́ diệt muôn kiếp nhân lành, tự tánh khởi một niệm thiện th́ được hằng sa ác hết, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy chẳng mất bản niệm gọi là Báo thân. 

Tự tánh khởi một niệm ác th́ diệt muôn kiếp nhân lành, tự tánh khởi một niệm thiện th́ cái ác dù nhiều như số cát sông Hằng cũng đều hết sạch. Những niệm dấy lên nhưng ḿnh không mất bản niệm, tức là không mất bản tánh hằng tri, đó gọi là Báo thân. Nói tóm lại, Báo thân Phật là ǵ ? Là do hai niệm thiện ác lặng xuống, chỉ c̣n một tánh giác thanh tịnh tṛn đầy, đó là Báo thân Phật.

Sao gọi là Thiên bá ức Hóa thân Phật ? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp th́ tánh vốn như không, một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác là hóa làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện th́ hóa làm thiên đường, độc hại th́ hóa làm rồng rắn, từ bi th́ hóa làm Bồ-tát, trí tuệ th́ hóa làm thượng giới, ngu si th́ hóa làm hạ giới. Tự tánh biến hóa rất là nhiều, người mê không hay tỉnh giác, mỗi niệm khởi ác thường đi trong con đường ác, xoay về một niệm thiện, trí tuệ liền sanh, đây gọi là tự tánh Hóa thân Phật.

Nếu ḿnh không khởi duyên với muôn pháp th́ tánh ḿnh lặng lẽ như hư không, không có tướng mạo, dấy niệm suy nghĩ liền biến hóa. Trăm ngàn muôn ức niệm ác ḿnh biết xoay trở về thiện tức là trở về với tự tánh ḿnh, đó là Hóa thân Phật. Dấy niệm ác bị dẫn đi trong lục đạo, niệm lành th́ dẫn đi đến các cơi lành. Nếu xoay ngàn muôn ức niệm trở về tự tánh, tức là chuyển cái biến hóa trở về cái thật, gọi đó là Hóa thân Phật.

Như vậy Tổ chỉ cho chúng ta thấy rơ ba thân Phật:

- Pháp thân là tánh thanh tịnh của ḿnh.

- Báo thân là do lặng được hai niệm thiện ác, chỉ c̣n cái liễu tri thường hằng.

- Hóa thân tức là xoay tất cả niệm ác trở về tự tánh.

Này Thiện tri thức, từ Pháp thân suy nghĩ tức là Hóa thân Phật, niệm niệm tự tánh tự kiến tức là Báo thân Phật, tự ngộ tự tu, tự tánh công đức, ấy là chân thật qui y. Da thịt là sắc thân, sắc thân đó là nhà cửa, không nói là qui y vậy. Chỉ ngộ tự tánh ba thân tức là biết được tự tánh Phật.

 Nếu căn cứ trên Pháp thân dấy niệm đó là Hóa thân Phật, mỗi niệm ḿnh đều thấy rơ tự tánh của ḿnh, đó là Báo thân Phật. Chúng ta nói tự qui y nghĩa là trở về với Pháp thân, Báo thân, Hóa thân Phật của tự tâm, chớ không phải trở về với thân xác thịt hôi thúi này, thân xác thịt này chỉ là nhà cửa che đậy bên ngoài không phải là thật. Nếu chúng ta ngộ được tự tánh ḿnh có đủ ba thân Phật tức là biết được tự tánh Phật. Để kết thúc Tổ bảo:

Tôi có một bài tụng Vô Tướng, nếu người hay tŕ tụng, ngay nơi lời nói liền khiến cho ông, tội mê từ nhiều kiếp, một lúc liền tiêu diệt. Tụng rằng:

                        Mê nhân tu phước bất tu đạo,

                        Chỉ ngôn tu phước tiện thị đạo,

                        Bố thí cúng dường phước vô biên,

                        Tâm trung tam ác nguyên lai tạo.

Tổ nhắc các cư sĩ tu hành: Người mê chỉ biết tu phước mà chẳng tu đạo, nghĩa là người mê chỉ biết làm phước bên ngoài, mà không biết buông xả các điên đảo vọng tưởng để trở về tâm thể chân thật. Chỉ nói tu phước liền là đạo, chỉ nói chúng tôi làm phước, đó là hợp với đạo rồi, đó là tu rồi. Tổ mới giải thích tiếp: Nếu phát tâm bố thí cho kẻ nghèo, người đói, biết phát tâm cúng dường chư Tăng, chư Ni, đó là có phước nhiều lắm chớ không phải là không, nhưng trong tâm ba ác xưa nay cứ tạo, tức là ba ác tham sân si trong tâm chúng ta c̣n hoài. Biết bố thí, biết cúng dường th́ có phước thật, nhưng chưa hết ba độc. Trong hàng Phật tử chúng ta có nhiều người biết bố thí, biết cúng dường mà ba độc vẫn c̣n nguyên. Muốn hết ba độc tức phải hướng về tâm buông xả mới hết, không phải tu phước cúng dường là hết ba độc. Nếu ba độc không hết th́ làm sao thoát ly sanh tử, v́ vậy nên nói tu phước không phải là đạo. Ai muốn hưởng phước th́ tu hạnh bố thí cúng dường, đó là phước vô biên, đâu phải không có phước. Nhiều người không hiểu, khi nghe Tổ dạy phải quay về tự tánh th́ nói: Như vậy tôi tu phước cúng dường không có phước sao ? Phước th́ vẫn có, nhưng tham sân si th́ không hết. 

                        Nghĩ tương tu phước dục diệt tội,

                        Hậu thế đắc phước tội hoàn  tại,

                        Đăn hướng tâm trung trừ tội duyên,

                        Các tự tánh trung chân sám hối.

Các người tu cứ nghĩ rằng ḿnh tu phước bố thí cúng dường là để hết tội, nhưng thật có hết tội chăng ?  Cho nên Tổ dạy tiếp: Tu phước th́ đời sau được phước, nhưng nếu làm tội th́ tội vẫn c̣n, tại sao vậy ? V́ ḿnh làm phước là tạo nhân phước, th́ thọ quả phước, nhưng ba độc vẫn c̣n nguyên. V́ vậy có khi làm phước mà vẫn sân, có khi làm phước mà vẫn có niệm bất b́nh v.v... cho nên tội vẫn c̣n. Nhà Phật thường gọi thân chúng ta hiện tại là thân tổng báo, tổng báo tức là cái quả báo chung trong đó có lành có dữ, có thiện có ác v.v... người làm lành nhiều th́ hiện ra nhiều tướng tốt gặp nhiều phước duyên, người làm lành ít th́ thiếu tướng tốt, và cũng ít gặp phước duyên, nhưng cũng có một chút phước nên được sanh làm người. V́ vậy nhiều người có phước thật nhiều, được sanh trong những gia đ́nh đầy đủ sung sướng, nhưng trái lại họ mang thân tật nguyền, v́ sao ? V́ trong khi làm phước họ vẫn có làm tội, cho nên làm phước th́ hưởng phước, tạo tội th́ đền tội, thân tổng báo của chúng ta là như vậy. Chúng ta có thể trong nhiều đời, làm phước nhiều nên gặp được những điều tốt, điều thiện phù hợp với sở nguyện của ḿnh, nhưng lâu lâu cũng vẫn có xảy ra tai nạn hay có những điều bất như ư, đó là v́ từ đời trước đă tích lũy nhiều tội, nên bây giờ gặp duyên th́ phải trả quả, chớ không có ǵ lạ. Hiểu như vậy chúng ta không c̣n hoang mang trước những sự việc xảy ra trong cuộc đời ḿnh.

Chỉ hướng trong tâm trừ tội duyên, đó mới là chân sám hối. Chúng ta phải nh́n thẳng trong tâm ḿnh trừ những tội duyên như là tâm tật đố, tâm bất thiện, tâm siểm khúc, tâm ngô ngă, tâm hư dối, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm mạn người, tâm tà kiến v.v...  cứ ngay trong tâm ḿnh dẹp sạch những tâm niệm đó, v́ đó là duyên để tạo tội, nếu chúng ta không nhằm vào đó để dẹp nó, th́ làm sao hết tội được ? Chúng ta chỉ biết tu phước làm lành bên ngoài, th́ không bao giờ đời ḿnh được trọn vẹn an lành. Muốn được an lành, chúng ta phải nhắm thẳng trong tâm ḿnh, dẹp sạch các duyên tạo tội th́ đời sau mới được hết tội. Lục Tổ đă chỉ cho người tu chúng ta rơ ràng như vậy.

                        Hốt ngộ Đại thừa chân sám hối,

                        Trừ tà hành chánh tức vô tội,

                        Học đạo thường ư tự tánh quán,

                        Tức dữ chư Phật đồng nhất loại.

Chợt gặp pháp sám hối chân thật của Đại thừa, biết trừ những tâm tà, hành những tâm chánh, đó mới là không tội. Người học đạo thường ở trong tự tánh ḿnh mà quán sát, tức cùng với chư Phật đồng một loại không khác. Nh́n lại ḿnh để quán sát tự tánh ḿnh, bỏ những lỗi lầm, dứt các tội duyên để trở về sống với tự tánh, th́ ḿnh với Phật không hai không khác. Nếu nhắm ra ngoài làm việc th́ sẽ cùng với chư Phật khác xa. Đó là Tổ đă chỉ thẳng pháp sám hối của Đại thừa, và đúng với hạnh của chư Phật.

                        Ngô Tổ duy truyền thử đốn pháp,

                        Phổ nguyện kiến tánh đồng nhất thể,

                        Nhược dục đương lai mích Pháp thân,

                        Ly chư pháp tướng tâm trung tẩy.

Tổ của tôi chỉ truyền pháp đốn giáo này, khắp nguyện người thấy tánh đồng một thể. Nếu muốn đời sau t́m thấy được Pháp thân, tức phải ĺa các tướng ở trong tâm, rửa sạch bóng dáng của sáu trần ngay trong tâm ḿnh. Cho nên người tu diệt vọng là rửa sạch trong tâm ḿnh những niệm tưởng nhớ đến người đến cảnh, đó là bóng dáng của pháp trần rơi vào tâm thức cần phải tẩy trừ, mới thấy được Pháp thân.

                        Nỗ lực tự kiến mạc du du,

                        Hậu niệm hốt tuyệt nhất thế hưu,                

                        Nhược ngộ Đại thừa, đắc kiến tánh,

                        Kiền cung hiệp chưởng chí tâm cầu.

Trong các câu kệ chót của bài tụng, Tổ khuyên chúng ta phải nỗ lực tự thấy chớ có lơ là, du du là lơ là; nỗ lực để tự thấy bản tánh ḿnh, tự biết những niệm mà buông bỏ. Một niệm dứt là chỉ cho hơi thở cuối cùng vừa thở kh́ ra mà không hít lại, th́ một đời buông tay. V́ vậy Tổ bảo chúng ta phải nỗ lực tiến tu, chớ có lơ là, chớ có chần chờ, nếu một phen thở ra mà không hít vào th́ một đời buông xuôi. Nếu gặp những hàng Đại thừa được thấy tánh, phải thành tâm cung kính, hay là cung kính chấp tay, chí tâm cầu pháp Đại thừa, chớ có lôi thôi khinh thường, bởi v́ người học đạo mà không được Thiện tri thức chỉ dẫn th́ một đời tu học cũng khó mà đến đâu.

Tổ nói: “Này Thiện tri thức, phải tụng lấy, y đây tu hành, ngay nơi lời nói mà thấy tánh, tuy cách tôi ngàn dặm như thường ở bên cạnh tôi; nơi lời nói này mà chẳng ngộ tức là đối diện với tôi mà cách xa ngàn dặm, đâu cần từ xa đến đây. Trân trọng đi được an vui.”

Cả chúng nghe pháp rồi không ai mà chẳng khai ngộ, đều hoan hỉ  phụng hành.

Tóm tắt lại, phẩm Sám Hối này gồm phần văn xuôi trong đó Tổ dạy Ngũ phần Pháp thân hương v.v... và phần kết thúc là bài tụng Vô tướng văn vần, dễ hiểu, dễ nhớ, y đó mà tu mới là cái tu chân thật. Tổ dạy rơ ràng tu là phải hướng về ḿnh, không nên chạy ra ngoài, v́ tu bên ngoài không bao giờ hết nghiệp được. Cho nên mỗi buổi tụng kinh chúng ta đều có tự qui y, tự qui y là trở về với ḿnh, tức là trở về ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân nơi ḿnh sẵn có. Tự qui y Phật là trở về với Phật của ḿnh, tự qui y Pháp là trở về với Pháp của ḿnh, tựï qui y Tăng là trở về với Tăng của ḿnh. Nơi ḿnh có đủ ba thân Phật, nơi ḿnh có đủ Tam Bảo, ḿnh phải hướng về đó, nghĩa là phải bỏ hết những niệm xấu như ngă mạn, cống cao, lừa dối, ác độc v.v... bỏ cho hết sạch những niệm đó, là biết tự qui y. Bản tánh thanh tịnh sẵn có gọi là Pháp thân Phật. Buông cả hai niệm thiện ác để thấy Báo thân Phật, rồi xoay các niệm trở về tự tánh đó là Hóa thân Phật, tức là chuyển hóa thân trở về thành Phật. Nói tóm lại tự qui y không phải là tự qui y với thân xác thịt này, mai mốt nó ră rồi c̣n đâu ! Tự qui y là trở về tự tánh thanh tịnh là Pháp thân, trở về nơi tự tánh tṛn đầy không có hai niệm là Báo thân, trở về tự tánh ḿnh bằng xoay mọi niệm về nơi tự tánh đó là Hóa thân Phật.

]


[mucluc][loidausach][p1][p2-d1][p2-d2]

[p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7][p8-d1][p8-d2][p9][p10][p11-d1][p11-d2]

[Trang chu] [Kinh sach]