[Trang chủ] [Kinh sách]

THẬP NHỊ MÔN LUẬN

[Mucluc][TNML][Phần1][Phần2][Phần3][Phần4][Phần5]

[Phần6][Phần7][Phần8][Phần9][Phần10][Phần11][Phần12][VSPNTNNTNM]


VÔ SANH PHÁP NHẪN THỐNG NHIẾP NGHĨA THẬP NHỊ MÔN

 

Thái Hư Ðại Sư

Xem toàn bộ THẬP NHỊ MÔN LUẬN, chỉ là một pháp môn thôi. Riêng nói mười hai, là đến cùng nguồn tột đáy khả dĩ dùng lại mà nói. Song ngộ nhập pháp môn bất nhị, đường nói nghĩ bặt, chỗ tâm hành diệt, huyễn khởi không tánh, các pháp không tịch. Lặng lẽ mà thường hiện huyễn có, cái có này sở dĩ diệ?, huyễn có mà thường ở chỗ lặng lẽ, cái không này sở dĩ chơn. Cho nên chính con mắt thế tục thấy tướng núi sông quả đất ta người chúng sanh. hay kỹ càng quán sát tinh nghĩa nhập thần, biết các pháp duyên khởi không tánh, xưa kia chẳng có nay chẳng quyết định, trong mỗi sát na biến thiên thay đổi, nghiên cứu tột lẽ thật của nó, rõ ràng tức tục mà chơn. Vì cớ sao ? Vì quán kỹ thực tại, muôn pháp không tự tánh. Như thế, chơn đế chẳng lìa tục đế, chẳng phải lìa ngoài tục đế riêng có một chơn đế để nói, cũng như chẳng phải hai đế chơn tục có cách nhau bằng hạt cải để nói ; dù cho cách nhau, đâu phải hai pháp. Huống là diệu pháp như như, chơn như thế, tục cũng như thế, song ngại cái tục kia không phải đế, che ngăn vạn hữu, mà mọi người chẳng biết ra ! Thật được hồi quang phản chiếu, trăng nước hoa không tánh đều chẳng định, ấn mắt nhìn nhau riêng thấy rõ ràng. Chơn cùng với tục là danh từ đối đãi, tục tức chẳng phải tục thì chơn còn đâu đối đãi ? Thế nên, đứng về không gian mà nói, không có chỗ nơi chừng hạn của một lân hư trần, chơn có khác tục sao ? Ðứng về thời gian mà nói, không có điểm đồng hồ một sát na chi phối, tục có khác với chơn sao ? Ðây là căn cứ chơn tánh pháp ấy sẵn vậy mà nói. Xét lẽ thật kia, nói là chơn là tục, chỉ có sai biệt trên danh tướng, không có khác lạ nhau chỗ lý thật tế. Quyển THẬP NHỊ MÔN LUẬN cốt phát huy nghĩa này để chỉ dạy người sau, nói rằng chỉ một pháp môn, pháp quả thật có một sao ? Ðây cũng thuộc gượng nói mà thôi. Gượng nói chỉ, có một, một là cái gì ? Là vô sanh pháp nhẫn.

Quyển luận này chia mười hai môn, môn là thông suốt không ngại, tức là tất cả pháp lành do đây mà được cứu cánh viên mãn, chẳng phải tự cuộc nơi hóa thành, luốn rơi vào nhị thừa. Môn lại đóng kín không cho vào thì, tất cả pháp ác do đây mà được cứu cánh dứt sạch, chẳng phải lửa đồng chưa tắt, gặp gió xuân liền phát cháy. Thật thà mà nói, không hoạn nào chẳng đoạn, không đức nào chẳng tròn, đức Phật nơi đây chứng tịch diệt, Bồ Tát do đây tu chơn thật. Quyển THẬP NHỊ MÔN LUẬN này chỗ lập giáo hóa, gồm xưa nay tất cả chư Phật, Bồ tát trong ba đời thảy đều thực hành đặc sắc, bao gồm trùm hết tất cả hữu tình trên quả đất đồng tụ hợp về trong biển Vô Thượng Tát Bà Nhã.

Trước ba môn, môn thứ nhất (m.1) quán nhơn duyên không tanh, huyễn có chẳng thật. Môn thứ hai (m.2) suy quán pháp không tánh này, là trước có mà sanh ? Là trước không mà sanh ? Bên có, không đều thuộc vô sanh. Môn thứ ba (m.3) lại suy quán đến duyên đều giả, cũng không tự tánh, tổng nhiếp là không môn, vào vô sanh nhẫn, nhẫn được duyên sanh này không tánh, sanh tức là không.

Giữa sáu môn, môn thứ nhất (m.4) quán nhơn duyên đã không chỗ sanh, các tướng cũng xưa nay chẳng có. Môn thứ hai (m.5) suy quán tướng chung vạn pháp, thảy đều không tướng ; mà tướng đã biểu hiện là có tướng mà tướng ? Là không tướng mà tướng? Xét cùng tự tánh đều không, hai chẳng thành lập. Môn thứ ba (m.6) lại suy quán tướng chung là một, tướng riêng là khác, tức một tức khác, tức khác tức một, bởi trọn không có pháp nào có tự tánh. Môn thứ tư (m.7) suy cứu vạn pháp, nếu chỗ đồng chẳng có, chỗ dị cũng không để rõ cứu cánh không hai tướng có thể được. Môn thứ năm (m.8) như TRUNG LUẬN nói : "Pháp nhơn duyên sanh ra, ta nói tức là không", cho nên quán tánh đều không thể được. Môn thứ sáu (m.9) tổng quán nhơn quả, khảo xét tất cả pháp thảy thuộc không tịch, không có một chút pháp có thể được, nửa lời có thể chấp. Tổ?g nhiếp là môn vô tướng, vào vô sanh pháp nhẫn, nhẫn được tất cả pháp không này, tất cả tướng lần lượt suy khảo trọn không thể được.

Sau ba môn, môn thứ nhất (m.10) quán tác giả không tạo tác, nói tác giả như có tạo tác, tác giả của tác giả lại là ai tạo tác ? Như thuyết Thượng đế tạo vật ấy, đâu chẳng biết sum la tất cả các pháp thảy không có sở thủy mà thủy, cũng không có sở chung mà chung, thể tánh mỗi mỗi toàn thuộc chẳng có, cho đến một hào ly còn không có chơn thật hiện hữu, làm sao mà quán định là năng tác sở tác ? Môn thứ hai (m.11) quán trước nhơn sau quả, nhơn quả đồng thời, ba thời trước nhơn sau quả toàn là huyễn vọng, tánh đều không thể được. Môn thứ ba (m.12) vì các pháp hoàn toàn không thể được, phát sanh diệu giải mà vào chánh trí. Tác là quán, gọi là cứu cánh, tổng nhiếp là môn vô sanh, vào vô sanh pháp nhẫn, nhẫn được sanh pháp hai không này lấy làm môn, thân chứng chơn như. Tin như thế, thì song ấn ngã pháp đều không, tổng nhiếp quy điểm của toàn bộ Luận.

Ðây nói sanh pháp hai môn cứu cánh đều không, là lời giải quyết căn bản chẳng để lại chi diếp (cành lá). Theo kinh Pháp Hoa nói khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, ngã nhơn do đây mà nhập diệu quán, cùng chánh định tương ưng. Trước nói nhẫn được không, vô trước, vô sanh là triệt ngộ pháp ấy nay do giải khởi tu, do tu đến chứng. Lòng ôm pháp niệm, thảy được tan hoang, được không dính tất cả hý luận phân biệt, mà an trụ vô sanh pháp tánh này ấn khế chơn như, bặt vọng cảnh khi mê dao động. Cốt là chánh quán chẳng lìa chánh định, cho nên gọi trí, chánh định chẳng lìa chánh quán, cho nên gọi nhẫn, chỉ quán không hai, tịch chiếu đều tròn ấy gọi là vô sanh pháp nhẫn, cũng có thể gọi vô sanh pháp trí.

Chỉ là tông Chơn Như sở y viên thành thật tánh trong môn ba tánh, dùng cảnh giới trí huệ Phật căn cứ quả chỉ dạy, pháp môn tối cao, được chúng sanh kiên tín, chúng sanh nhơn vọng tưởng phân biệt thì không thể hiểu được, cho nên công hiệu của nó trừ ngoài bậc căn cơ thượng thượng, người thấm nhuần thật huệ không nhiều. Tông Duy Thức sở y là y tha khởi tánh trong môn ba tánh, tuy y cảnh giới Bồ tát, ở giữa Phật và chúng sanh, chưa hoàn toàn lìa phân biệt hý luận, sở y của nó so ra thì cạn, song tùy tục giáo hóa, dùng giáo để sáng lý, chúng sanh càng được do tin đến hiểu, hiệu dụng của nó cũng nương đây hy vọng được phổ biến. Tông Bát Nhã thì y biến kế sở chấp tánh trong môn ba tánh, rõ tất cả pháp xưa nay cứu cánh không tịch, lời cứu cánh nay thật đủ sức chặt đinh cắt sắt, bởi đều trên biến kế chấp tánh mà giảng. Tuy có các thứ thuốc trị các thứ bệnh, mà bệnh trầm kha vô minh vọng chấp của chúng sanh khó khỏi, chỉ uống thuốc mầu vô đắc chánh quán kia, mỗi mỗi qua đều trị được lành, hoặc một thang liền khỏi, nhiều cũng không uống quá mười hai thang liền được khang kiện. Ðây là hành khởi giải tuyệt, mở dây cởi trói, bỏ tất cả hý luận phân biệt, không các pháp chấp, thêm dễ chứng hội. Vì cớ sao ? Bởi y biến kế sở chấp là chỗ rất gần, khiến đó lần lần lìa xa, rốt sau ngộ nhập mé viên thành thật, biển tánh thênh thang, nương nguyện dạo đi, thành công diệu dụng của nó, đủ muốn nhìn tột muôn dặm, thẳng lên tận ngôi lầu tối cao. Tam Luận là yếu điểm tông Bát Nhã. Thập Nhị Môn Luận thực là gốc quyết trạch của Tam Luận, nghiên cứu phát huy, thật không nên lơ là vậy. Xem đây cốt an trụ vô sanh pháp nhẫn, trách nhiệm khiến người thấm nhuần pháp huệ, lại mong người thấy nghe, tin càng mở rộng, đập mười hai nhơn duyên thả? thành bụi bặm, dìu mười hai loài hữu tình đồng lên Diệu Giác. Ðâu những đọc Thập Nhị Môn Luận tự được thọ dụng mà thôi sao?

 

[Mucluc][TNML][Phần1][Phần2][Phần3][Phần4][Phần5]

[Phần6][Phần7][Phần8][Phần9][Phần10][Phần11][Phần12][VSPNTNNTNM]

[Trang chủ] [Kinh sách]