[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập III)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


CHỮ KHÔNG

TRONG BÀI KINH BÁT NHĂ

Chùa Tam Bảo Hà Tiên - 1999.

 

Đề tài tôi nói hôm nay là chữ Không trong bài kinh Bát Nhă. Tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử đến chùa thường đọc tụng thuộc ḷng bài kinh Bát Nhă. Học kinh Bát Nhă mà không hiểu chữ Không của kinh Bát Nhă sẽ dẫn đến hiểu lầm, có thể đâm ra hoang mang. Tại sao vậy? Bởi v́ trong chùa thường nói câu "chẳng thà chấp có bằng núi Tu Di, chớ nên chấp không bằng hạt cải. "

Người tu chấp có, không thể tột được lư đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn. V́ vậy người xưa hay nhắc nhở chúng ta đừng nên chấp không, thế mà trong Bát Nhă nói cái ǵ cũng không hết. Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, không sắc, thinh, hương, vị, xúc v. v… Trong kinh nói không mà các vị tiền bối bảo đừng chấp không. Vậy hai chữ không đó khác nhau chỗ nào? Đây là điều tôi muốn giảng trạch cho tất cả Tăng Ni, Phật tử nắm cho vững, để đường tu chúng ta không bị trở ngại lại c̣n có thể tiến nhanh hơn.

Muốn biết chữ Không trong kinh Bát Nhă hay cả hệ thống Bát Nhă, trước hết chúng ta phải nắm thật vững giáo lư nhân duyên. Người không nắm vững giáo lư nhân duyên th́ không bao giờ hiểu được chữ Không trong kinh Bát Nhă. Chữ Không của Bát Nhă đứng vững là dựa trên lư nhân duyên, nếu lư nhân duyên là chân lư th́ chữ Không cũng sẽ là chân lư.

Trước hết chúng ta thử xem xét các pháp trên thế gian này có pháp nào không phải nhân duyên sanh hay không? Như chúng ta nh́n thấy ngôi chùa, vậy ngôi chùa từ đâu mà thành? Ai cũng biết đều do nhân công, thợ, thầy, gạch, cát, đá, xi măng v. v… hợp lại thành ngôi chùa. Chớ không bao giờ bỗng dưng nó tự thành, phải đủ nhân, đủ duyên hội hợp mới có. Nhân duyên th́ không phải một thứ mà rất nhiều thứ tụ hợp lại thành sự vật. Cũng vậy, tất cả muôn sự muôn vật trên thế gian này có cái nào vượt ngoài ṿng nhân duyên đâu.

Gần đây các nhà khoa học khi t́m hiểu đạo Phật, thấy rơ chủ trương các pháp do nhân duyên sinh của đạo Phật rất phù hợp với khoa học. Bởi v́ khoa học là môn học phân tích sự vật, mà phân tích sự vật th́ không vật nào tự nó có, tất cả đều do sự kết hợp nhiều thành phần mà có. Như vậy vật nào cũng không đơn độc một nhân một duyên có thể thành. Mà chúng rất phức tạp, do nhiều nhân nhiều duyên tụ lại. Chúng ta mới thấy cái nh́n của đức Phật hơn hai ngàn năm về trước rơ ràng, tường tận như thế nào.

Sự vật không tự có, không phải ngẫu nhiên có, cũng không do ai làm ra, chỉ khi nhân duyên tụ hội th́ sự vật hiện có, thiếu duyên th́ sự vật ly tán. Giáo lư Phật chỉ rơ cho chúng ta không c̣n mê lầm, nghĩ rằng sự vật do người nào hoặc ngẫu nhiên nó có. Từ cái nhà chúng ta nh́n tới cái bàn, cái ghế, vật nào không phải từ nhân duyên sinh? Cây cối trước mắt chúng ta cũng là nhân duyên sinh, rồi đến con người có phải từ nhân duyên sinh không? Nếu nói đơn giản là do tinh cha huyết mẹ kết tụ lại thành thân con người. Ngày nay với con mắt y học, người ta phân tích có bao nhiêu tỷ tế bào, phân ra từng loại rồi phối hợp lẫn nhau. Nhờ chúng phối hợp sinh hoạt, phát triển th́ thân chúng ta c̣n sống, nếu chúng hư hoại th́ thân này tan nát. Như vậy tất cả sự vật trên thế gian không có cái nào thoát ngoài lư nhân duyên.

Như xét cái đồng hồ, vật ǵ là chủ thể của nó? Chúng ta không thể nói cây kim là chủ thể, số là chủ thể. Bộ phận nào là chủ thể cũng không được, mà do đủ các bộ phận ráp lại thành cái đồng hồ. Như vậy duyên hợp th́ nó có, nếu các bộ phận phân tán ra th́ đồng hồ cũng không. Trước mắt chúng ta thấy có đồng hồ, nhưng thực thể cái đồng hồ có hay không? Chỉ là duyên hợp tạm có chớ không thật, v́ nó không có chủ thể. Bởi không có chủ thể nên đủ duyên nó c̣n, thiếu duyên nó mất, không có ǵ cố định hết. Như vậy làm sao nói đồng hồ là thật được. Đă không thật th́ cái ǵ là chủ thể của nó, chẳng qua duyên hợp tạm có, duyên hết hoàn không.

Trong kinh A Hàm đức Phật có dạy, người nào thấy được lư nhân duyên th́ người đó thấy được pháp. Thấy được pháp tức là thấy đạo hay thấy Phật. Qua đó chúng ta thấy tầm quan trọng của lư nhân duyên như thế nào rồi. Cũng như vậy, con người do nhân duyên sinh nên không chủ thể, không cố định. Muôn vật trên thế gian này do nhân duyên sinh cũng không chủ thể, không cố định. Tuy không cố định, không chủ thể nhưng đồng hồ vẫn có, đủ duyên th́ nó hiện tiền. Hiểu lư này rồi chúng ta mới bước qua bước thứ hai là chữ Không trong kinh Bát Nhă.

Chúng ta đừng lầm chữ Không trong kinh Bát Nhă là trống rỗng, không có ǵ hết. Không là đối với có. Nhưng chữ Không đây là ngay nơi sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được song chủ thể nó là không, không cố định. Như vậy dù mắt thấy, tay sờ mó được mà nói là Không, đó là không chủ thể, không cố định. Bát Nhă nói Không v́ nó do nhân duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ Không trong kinh Bát Nhă c̣n gọi là tánh Không. Hệ thống Bát Nhă gọi đó là tự tánh Không. Tức là không có chủ thể, không tự tánh nhưng sự vật vẫn có giả tướng của nó khi đủ duyên tụ hội.

Con người chúng ta cũng do nhân duyên sinh, không có chủ thể, cố định. Vậy gọi ta được không? Chỉ là cái ta tạm bợ, c̣n mất theo duyên, không có giá trị thật. Thế mà lâu nay chúng ta cứ lầm nhận ta là thật, sự vật là thật. Nhà Phật gọi lầm nhận đó là vô minh, là si mê. Người học Phật phải có trí tuệ sáng suốt, thấy đúng như thật. Những ǵ Phật dạy chúng ta quán sát, thấu suốt mới đem ra hướng dẫn chỉ dạy cho người khác, chớ không phải học hiểu suông mà thấy được lẽ thật.

Chúng ta thử nghiệm lại thân ḿnh có phải là tạm bợ hay không? Nếu thân chắc chắn chân thật th́ không bao giờ hoại. V́ do duyên hợp nên thiếu duyên th́ nó sanh ra bệnh tật rồi đi đến bại hoại. Đó là lẽ thật, không c̣n ǵ nghi ngờ nữa. V́ vậy chữ Không của Bát Nhă là không có thực thể, chớ không phải không ngơ giữa có và không. Người ta cứ ngỡ cái bàn trước mắt là có, hư không trống rỗng là không. Đó là cái có không của người đời, c̣n Không của Bát Nhă là không tự tánh, không tự tánh tức là không thực thể. V́ vậy đức Phật nói thân này vô ngă. V́ vô ngă nên không chủ thể, bởi không chủ thể nên tùy duyên mà thành, tùy duyên mà hoại, không phải lúc nào cũng nguyên vẹn. Đó là ư nghĩa cụ thể của đạo Phật.

Chúng ta thấy rơ ư nghĩa của chữ Không rồi th́ đối với sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được là thật có hay thật không? Nói thật có hay thật không đều sai cả v́ nó tạm bợ, chỉ có giả tướng hiện tiền. Như vậy phải nói sao? Nói các pháp không thật có, do duyên sinh, chỉ tạm có nên nhà Phật gọi như huyễn, như hóa. Đến đây tôi nhớ Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở đời Lư có bài kệ:

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không Hữu không như thủy nguyệt

Vật trước hữu không không.

Tạm dịch:

Có th́ muôn sự có

Không th́ tất cả không

Có không trăng đáy nước

Đừng mắc có không không.

Ngài Từ Đạo Hạnh diễn đạt h́nh ảnh cho chúng ta thấy rất linh động. Tất cả sự vật nếu nói có th́ vật nào cũng có hết. Tại sao? V́ trên giả tướng mắt thấy, tay sờ mó được. C̣n nếu nói không th́ tất cả đều không hết, v́ chúng là duyên hợp không thật. Không thật nên nói là không. Như vậy nói có và không giống như mặt trăng dưới đáy nước. Đêm rằm ta nh́n xuống hồ nước, thấy mặt trăng hiện dưới đáy nước. Mặt trăng ở đáy nước là thực có hay thực không? Nếu thực có sao đưa tay vớt lên không được. Nếu thực không sao mắt chúng ta thấy rơ ràng. Nên gọi là có mà chỉ là cái bóng, chớ không phải không ngơ. Nhưng là bóng th́ nó không thật.

Muôn sự vật ở thế gian này cũng như bóng trăng đáy nước, nh́n thấy như có nhưng rốt cuộc không thực thể. Cho nên có cũng như không, chỉ v́ duyên hợp tạm có. Người ta cứ ngỡ rằng những ǵ mắt thấy tai nghe là thực có, nhưng không ngờ chúng là duyên hợp. Đă là duyên hợp, chúng ta đừng lầm chấp nó thật th́ sẽ không đau khổ. Đây là chỗ khó của người học Phật. Nếu thấy được lư này th́ chúng ta sẽ thấy đạo Phật hay đáo để.

Chúng ta tu khó khăn v́ chúng ta thấy cái ǵ cũng thật nên dễ nhiễm, dễ kẹt. Nhiễm kẹt th́ sự tu không tiến, c̣n thấy các pháp không thật th́ chúng ta không có ǵ để chấp, mà không chấp th́ đường tu hết sức dễ dàng. Cho nên si mê là động cơ chủ yếu đưa chúng ta đến chỗ sai lầm. Từ sai lầm đó khiến chúng ta không thấy lẽ thật, rồi bị ch́m đắm trong sinh tử, kiếp này kiếp nọ không cùng. Tuy nhiên những thứ đó cũng là tướng duyên hợp không thật. Nhưng không khéo tu chúng ta sẽ không ra khỏi nó, chỗ này rất là quan trọng.

Tôi nhấn mạnh lại chữ Không trong kinh Bát Nhă tức là tánh không của các pháp. Từ con người cho tới muôn vật đều giả có, không có thực thể. Đă là giả có mà chúng ta thấy thật th́ đó là mê lầm, giả có mà nói không th́ trái với lẽ thật. V́ vậy không thể khẳng định là không. Phải biết muôn sự muôn vật trước mắt chúng ta là tướng duyên hợp giả có.

Kinh Bát Nhă có câu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhă ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách". Nghĩa là, Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu vào trí tuệ Bát Nhă, Ngài xem thấy tất cả sự vật, tất cả pháp hay nói gọn là con người gồm năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không có thực thể, không cố định. Khi thấy như vậy Ngài liền qua hết thảy khổ nạn.

Ngày nay chúng ta tụng kinh Bát Nhă từ lúc mới vào chùa cho tới năm sáu mươi tuổi, biết bao nhiêu biến? Trăm ngàn biến mà khổ ách vẫn là khổ ách. Bởi v́ tụng Bát Nhă th́ tụng mà nh́n thấy thân năm uẩn thật. Nếu thấy thân năm uẩn duyên hợp hư dối th́ có ai chửi thân năm uẩn này chúng ta thấy sao? Thân năm uẩn đă không thật th́ lời chửi có thật đâu. Chẳng qua cũng là tạm bợ hư giả thôi. Ḿnh hư giả, người hư giả, lời nói hư giả, có ǵ mà khổ, có ǵ mà phiền. Cho tới tất cả những thiệt tḥi, khổ sở khác, nếu xét kỹ chúng có thật không? Cũng không thật. Như vậy có ǵ làm chúng ta khổ sở đâu? Chỉ cần dùng trí tuệ Bát Nhă soi thấu muôn sự vật, soi thấu lại bản thân ḿnh đều là duyên hợp hư giả. Thấy được như vậy th́ khổ ách nào cũng qua hết.

Như vậy chúng ta chỉ cần tụng một câu đó cũng hết khổ rồi, đâu cần phải tụng nhiều. Chủ yếu là biết vận dụng lời Phật dạy vào việc tu của ḿnh. Lời Phật dạy rất chí lư nhưng chúng ta cứ đọc thuộc ḷng. Đọc lại cho Phật nghe phải không? Chúng ta đọc kinh đúng ra là đọc cho ḿnh nhớ và thực hành theo lời Phật dạy. Nhưng thường Phật tử cứ nghĩ rằng đọc như vậy có phước. Đọc hai lần phước nhiều hơn một chút. Do không biết lời Phật dạy để ứng dụng quán chiếu lại bản thân và mọi vật chung quanh, thấu triệt được lẽ thật của nó nên chúng ta cứ đọc cho Phật nghe hoài, c̣n ḿnh th́ không dính dáng ǵ hết. Phật nói chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách, chúng ta tụng hoài sao không qua được khổ ách? Bởi v́ có chiếu kiến đâu! Chiếu kiến là soi sáng, mà chúng ta không chịu soi sáng th́ làm sao thấu tỏ được. Đó là lầm lẫn của chúng ta.

Đức Phật dạy thân này được kết hợp từ năm uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, hành uẩn, tưởng uẩn, thức uẩn. Sắc uẩn là tứ đại đất nước gió lửa hợp lại. Thọ uẩn là những cảm giác của chúng ta như đang nóng có ngọn gió thổi qua nghe mát, cảm giác ấy gọi là thọ. Lưỡi chúng ta nếm một món ăn nghe ngọt, nghe đắng v. v… cảm giác ấy là thọ. Mắt chúng ta nh́n thấy người thấy vật, nhận ra đẹp xấu. Thân xúc chạm sanh thích hoặc chán v. v… Đó là cảm giác của thọ. Sáu căn tiếp xúc sáu trần có cảm giác khổ vui, không khổ không vui. Đó gọi là thọ. Tưởng uẩn là tâm ḿnh tưởng tượng việc quá khứ vị lai. Hành là suy tư, những ư niệm nhẹ nhàng tế nhị. Có chỗ nói hành cũng là ư chí. Ư chí vươn lên hay ư chí mạnh mẽ. Thức uẩn, phân biệt cái này tốt, cái kia xấu, cái này phải, cái kia quấy v. v…

Như vậy thân chúng ta có năm phần. Một phần thuộc về sắc chất, bốn phần kia thuộc về tinh thần. Có chỗ khác lại chia thân này do bốn thứ hợp lại là sắc. Sắc đó gồm bốn thứ đất nước gió lửa. Phần tinh thần bốn thứ: thọ, tưởng, hành, thức. Hai thứ cộng lại thành tám thứ đều nhau.

Tóm lại, thân này từ vật chất cho đến tinh thần đều do duyên hợp, không có ǵ cố định. Xưa Thiền sư Lương Giới, Tổ tông Tào Động, lúc mới cạo tóc vào chùa, đọc kinh Bát Nhă, Ngài thấy kinh nói: "Vô nhăn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp", Ngài bạch với thầy:

- Con có mắt tai mũi lưỡi thân ư, nhưng sao trong kinh nói không có. Nghĩa này thế nào?

Vị thầy lắc đầu bảo Ngài đi t́m học chỗ khác, v́ thầy giải nghĩa không nổi. Người học đạo thấy kinh nói sao là hay như vậy, không thắc mắc t́m hiểu nghĩa lư th́ chúng ta không tiến bộ được. Ngài Lương Giới đọc kinh không hiểu liền sinh nghi nên Ngài phăng t́m cho ra. Sau này ngộ đạo Ngài mới thấy được lư chân thật của Phật dạy. Tất cả lời Phật dạy không có câu nào, lời nào là vô ư vô nghĩa, tất cả đều chỉ lẽ thật cho chúng ta. Nhưng v́ tŕnh độ thấp nên chúng ta không nắm vững thành ra cứ mê muội măi.

Trong kinh Bát Nhă có đoạn: "Tướng không của các pháp không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt v. v…" cho tới không mắt tai mũi lưỡi thân ư, rồi không cả sắc thinh hương vị xúc pháp v. v… tất cả đều không. Như vậy tánh Không là thực thể không của các pháp. Trên phương diện không thực thể th́ không có pháp ǵ có thật cả, nên nói không tất cả. Ngũ uẩn không, thập nhị xứ không, thập bát giới không v. v…

Tới đoạn sau "vô vô minh tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc". Nghĩa là tất cả pháp như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Năm uẩn là chỉ thân này, mười hai xứ tức là sáu căn và sáu trần, mười tám giới là căn trần thức cộng lại là mười tám. Vậy th́ thân này, tâm thức này và trần cảnh này trên tánh Không đều không có, không thực thể. Về thế tục đế, những thứ này không thật có.

C̣n như pháp Thập nhị nhân duyên, Tứ đế lẽ ra nhất định phải có. V́ Phật nói pháp Tứ đế là chân lư, không thể sai chạy, pháp nhân duyên cũng chân lư, không thể sai chạy được. Nhưng tại sao kinh Bát Nhă nói cũng không luôn, như vậy chúng ta tu cái ǵ? Điểm này có nhiều người thắc mắc. Không khổ tập diệt đạo, không vô minh và không hết vô minh v. v… th́ chúng ta tu làm sao đây?

Tôi thường hay nhắc, pháp của Phật dạy là phương thuốc trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có bệnh ǵ Phật có thứ thuốc ấy. Vậy nếu bệnh không thật th́ thuốc có thật không? Thân ngũ uẩn này không thật tức là bệnh không thật. Thuốc là để trị bệnh, bệnh đă không thật th́ thuốc làm ǵ có thật. Rơ ràng pháp của Phật dạy chỉ là phương tiện trị bệnh cho chúng sanh. Nếu chúng sanh hết bệnh th́ thuốc cũng không dùng. Chúng sanh không thực thể th́ thuốc cũng không thực thể.

Người đời thường nghĩ lời phàm tục không thật, c̣n lời Phật dạy là chân lư, là thật. Nhưng sự thật Phật chỉ tùy theo bệnh của chúng sanh mà dạy, giúp họ giải trừ được căn bệnh của ḿnh, chớ ngôn ngữ  ấy cũng không thật. Cho nên nói kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng hay chiếc bè đưa người qua sông v. v… Hiểu như vậy chúng ta mới không nghi. Tất cả pháp thế gian (tục đế) và pháp xuất thế gian (chân đế) đều không có thực thể, chỉ là giả tướng tạm bợ, đối bệnh cho thuốc thôi. Thấy rơ như vậy nên không chấp, sẽ đi tới chỗ cứu kính Niết Bàn, không c̣n mê lầm nữa.

Thấy được chữ Không của Bát Nhă rồi th́ chúng ta dễ tu. Bởi v́ chúng ta đang mắc bệnh chấp không. Nói tất cả pháp không có chủ thể liền chấp không ngơ. Nếu ai chấp không ngơ là lầm, bởi sự vật đang có giả tướng hiện tiền làm sao nói không được. Cho nên chúng ta phải hiểu rơ, Không là không chủ thể, không cố định, chớ lầm là không ngơ. Hiểu như vậy chúng ta sẽ không c̣n chấp nữa.

Tất cả sự vật đến với ta, ta không chấp th́ dễ tu biết mấy. Ḿnh có phải khổ sở để dẹp nóng giận, dẹp phiền năo không? Sở dĩ chúng ta phiền năo, chúng ta nóng giận là v́ chúng ta chấp nó thật. Nếu biết rơ nó không thật, chỉ tạm bợ do duyên hợp th́ có ǵ mà chấp. Do không chấp nên thảnh thơi tự tại đi giữa cuộc đời mà chúng ta không dính mắc ǵ cả.

Như vậy Phật độ chúng ta hết khổ, hay chúng ta dùng trí tuệ thấy muôn sự vật xảy đến với ḿnh không thật, liền vượt qua các khổ. Nỗi khổ không ai cứu ta được mà do ta nhận ra chân tướng của nó không thật th́ có ǵ làm ta phiền hà, khổ sở nữa! Thấy tường tận đạo lư th́ không c̣n chấp. Nên nhớ chấp là gốc từ si mê, là nhân của đau khổ. Nhờ trí tuệ sáng không chấp nên đau khổ cũng không c̣n. Tụng một bài kinh Bát Nhă mà thấu triệt rồi th́ chúng ta tự tại đi trong cuộc đời. Đó là điều chắc chắn vậy.

Nhưng sẽ có người nói thế này, Phật dạy các pháp hư giả tạm bợ như kinh Kim Cang nói: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh". Nếu mọi thứ đều tạm bợ huyễn hóa hết th́ không cần làm ǵ nữa. Cuộc đời cứ thả trôi th́ xă hội sẽ ra sao? Đây là nghi vấn của nhiều người hiện nay. Thật ra người tu Phật phải có đủ hai mặt: Một là trí tuệ tức trí Bát Nhă, hai là từ bi.

Chúng ta quán sát thấy rơ tánh các pháp là không, do duyên hợp tạm có, thấy tường tận như vậy là chúng ta có trí tuệ Bát Nhă. Nhưng giả sử cạnh ta có người đói khổ, chúng ta cũng bỏ mặc chỉ ngồi cười thôi, không làm ǵ hết, như vậy trở thành khô khan tiêu cực. Cho nên phải phát tâm từ bi. Phật dạy có trí tuệ mà không có từ bi là càn tuệ tức trí tuệ khô. V́ vậy trí tuệ phải có từ bi th́ trí tuệ ấy mới tươi nhuần. C̣n từ bi mà thiếu trí tuệ th́ gọi là từ bi mù, nên chúng ta tu Phật phải có đủ từ bi và trí tuệ.

Bởi v́ có trí tuệ rồi chẳng lẽ ngồi không, ai khổ mặc họ không cần biết đến? Như vậy là ích kỷ, không có lợi ích ǵ cả. Cho nên người tu phải phát tâm từ bi, chúng sinh tuy hư giả nhưng lại không biết hư giả. V́ vậy họ khổ, chúng ta phải thương, phải cứu họ, làm cho họ hết khổ. Như vậy nhờ trí tuệ phá kiến chấp sai lầm, phá ngu muội tăm tối. Nhờ ḷng từ bi thương người mê lầm, ta chỉ cho họ thấy được lẽ thật, không c̣n chấp, không c̣n đau khổ nữa. Đó mới gọi là làm tṛn bổn phận người tu.

V́ vậy trí tuệ và từ bi phải nhịp nhàng theo nhau. Người tu Phật dù bậc thượng hay bậc hạ cũng phải đồng thời huân tập hai phương diện đó. Phải có đầy đủ trí tuệ tức trí Bát Nhă và từ bi để độ chúng sanh. Không vị Phật nào chỉ có trí tuệ mà thiếu từ bi. Hiểu như vậy chúng ta mới sẵn sàng lăn vào cuộc đời để cứu khổ, để đánh thức những người mê muội. Không nên nói thân giả, cảnh giả, khổ cũng không thật, có ǵ đâu lo. Thiên hạ đói cũng là chuyện giả thôi, có chi phải bận ḷng rồi ngồi đó không làm ǵ hết.

Nên trong kinh Phật dạy phước và huệ, cả hai phải song hành như nhau, giống con chim có hai cánh. Chim muốn bay được phải đủ đôi cánh, nếu chích đi một cánh th́ chim bay không được. Người tu cũng vậy, phải có trí tuệ để thấy tường tận lẽ thật của cuộc đời và có ḷng từ bi để san sớt, chia xẻ những nỗi khổ của chúng sanh. Đó mới là người tu Phật chân chính.

Mong tất cả quư vị nghe suy ngẫm và ứng dụng giáo pháp Phật dạy vào đời sống tu tập của ḿnh. Nếu ứng dụng được sẽ thấy giá trị cao siêu của Phật pháp, bằng ngược lại chỉ hiểu suông, không thực hành ǵ cả th́ không bao giờ thấy được sự mầu nhiệm của đạo Phật. Và như vậy chúng ta không xứng đáng gọi là đệ tử của đức Phật. Tất cả hăy ghi nhớ và cố gắng nỗ lực thực hành để có niềm vui chân thật ngay trong hiện đời.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]