[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập III)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


TU LÀ NGUỒN HẠNH PHÚC

Giảng tại chùa Khánh Sơn - Sóc Trăng
ngày 19-6-2000 - Canh Th́n

 

Hôm nay, chúng tôi thể theo lời mời của Ban trị sự Phật giáo tỉnh hội Sóc Trăng, đến đây giảng cho Tăng Ni, Phật tử một thời pháp. Chánh pháp của Phật cao siêu diệu vợi, muốn thấm nhuần được không phải là việc đơn giản. Nhưng nếu chúng ta đă có tâm quyết tu, cố gắng lắng nghe th́ sẽ lănh hội, được phần lợi ích trong sự tu hành. Bài pháp hôm nay có tên: Tu là nguồn hạnh phúc.

Người xưa hay nói tu là cội phúc, t́nh là dây oan. Nhưng ở đây, tôi chỉ nói phân nửa tu là nguồn hạnh phúc thôi. Chúng ta tu là để t́m con đường an lành hạnh phúc, thảnh thơi tự tại. Không phải tu để mà tu, chẳng biết lợi ích ǵ trong cuộc sống. Cho nên chúng tôi muốn làm sao Tăng Ni, Phật tử đều thấy được lợi ích thiết thực trong việc tu hành của ḿnh. Nếu không như thế th́ lâu ngày chúng ta sẽ đâm ra chán nản trong việc tu hành.

Tất cả chúng ta đă được duyên lành xuất gia, học đạo, tu theo Phật. C̣n quư Phật tử tuy chưa xuất gia, nhưng cũng có tâm hâm mộ, kính mến Phật pháp. Quư vị đến với đạo để trở thành con người hữu ích cho gia đ́nh, xă hội và làm đẹp cuộc đời cho ḿnh, cho người.

Chúng ta là đệ tử Phật, tu theo Phật để chuyển một con người phàm tục trở thành con người trí tuệ. Đó là quá tŕnh tự chuyển hóa đời ḿnh từ xấu trở thành tốt, từ phàm trở thành Thánh. Như vậy tu là chuyển đổi chứ không phải tu để cầu xin ân huệ của Phật. Đa số Phật tử có ḷng tin Phật rất sâu, nhưng tin bằng cách cầu xin chứ không phải tin bằng sự cố gắng tu hành. Ví dụ chúng ta muốn được b́nh yên th́ giữ tâm luôn định tỉnh sáng suốt trong mọi lúc mọi thời. C̣n khi bị người ta chọc tức, ḿnh nổi sân lên mắng chửi đánh đập người ta, th́ làm sao Phật gia hộ được.

Cũng như cha mẹ có một đứa con trai, hết mực cưng chiều. Khi nó lớn lên, cha mẹ dạy bảo không được ra đường đánh lộn chửi lộn, không được hút thuốc, uống rượu, cờ bạc hoặc chơi với những đứa du đăng. Đó là cha mẹ thương, muốn cho con được yên ổn để học hành. Nhưng khi ra đường nó ngỗ nghịch, đánh lộn với người ta. Bị người ta đập lại đau quá, nó kêu: "Ba ơi, mẹ ơi, cứu con! ". Khi đó cha mẹ cứu kịp không? Cứu không kịp. Rồi nói cha mẹ không thương, con kêu cứu mà không chịu cứu nó. Lời nói đó có căn cứ hay vô căn cứ?

Cũng vậy, Phật thương chúng sanh đáo để, lúc nào cũng hết ḷng chỉ dạy, giáo hóa chúng ta. Song chúng ta không nghe theo lời Phật chỉ dạy th́ làm sao Phật cứu được. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có kể lại rằng: Đức Phật đi giáo hóa trong xóm theo đạo Bà-la-môn. Dân chúng nghe pháp rồi kéo nhau theo Ngài nên bỏ đạo của họ. Khi đó vị lănh đạo Bà-la-môn tức quá, ông đón đường Phật, kêu tên Phật chửi từ đầu tới cuối xóm. Chửi đến khô cổ họng mà Phật vẫn cứ ung dung, không trả lời ǵ hết. Ông càng tức, nên chận Phật lại hỏi:

- Cù Đàm! Ngài có điếc không?

Phật đáp:

- Ta không có điếc.

- Ngài không điếc tại sao tôi chửi Ngài không trả lời?

Phật liền đưa ví dụ:

- Như ở nhà ông có đám giỗ, ông mời bà con đến. Khi dự tiệc xong, ra về. Ông đem tặng bà con, mỗi người một gói quà. Họ không nhận, th́ quà đó thuộc về ai?

Vị Bà-la-môn trả lời:

- Tôi tặng họ mà họ không nhận, th́ quà đó thuộc về tôi chớ về ai!

Phật nói:

- Cũng vậy, ông chửi ta mà ta không nhận, th́ những lời chửi ấy có dính dáng ǵ với ta.

Phật chỉ nói một câu nhẹ nhàng như vậy. Quư vị thấy Phật thiệt tḥi hay ông Bà-la-môn thiệt tḥi? Chửi người ta mà người ta không nhận th́ phần đó thuộc về ḿnh. Nhờ vậy mà đến bây giờ chúng ta lạy Phật hoài. Nếu lúc đó Phật dừng lại, căi lộn với ông Bà-la-môn, th́ bây giờ chúng ta đâu có thờ, có lạy Ngài. Nhẫn nhịn, không chống cự, không phản đối, đó là tư cách của người tu. Cho nên dù xuất gia hay tại gia mà khéo nhẫn nhịn, đó là người có sức mạnh.

Người tu phải tập, đối với những ǵ trái ư nghịch ḷng, chúng ta vẫn thản nhiên bỏ qua. Thường chúng ta nhịn không được là v́ bản ngă mà ra. Thí dụ nghe người ta nói: "Anh ngu quá" hay "Thầy ngu quá" th́ nổi nóng lên liền, cự lại để tỏ rằng ḿnh khôn. Nhưng cự với người ta để thành khôn là ngu hay khôn? Tôi thường nói nếu có ai bảo tôi ngu th́ tôi trả lời: "Phải, tôi là người ngu". Bởi v́ trong thế gian này, có vô số điều mà ḿnh chỉ biết có ít điều thôi th́ không ngu sao được? Thí dụ ḿnh học được nghề thợ hồ th́ biết trong nghề thợ hồ, chớ qua nghề điện, ḿnh đâu có biết. Trên thế gian này có trăm ngàn muôn ức nghề, trăm ngàn muôn ức môn học, ai mà học hết cho được. Như vậy làm sao dám tự xưng là khôn được.

Chúng ta chỉ biết một phần trong triệu triệu phần, là khôn hay chưa khôn? Là chưa khôn. Thế nên người ta nói ḿnh ngu, ḿnh nhận là ngu, v́ ḿnh biết ít quá. Biết rơ như vậy th́ ngu hay khôn? C̣n nếu nghe ḿnh ngu liền nổi tức lên chửi lộn, đánh lộn với người ta là khôn hay ngu? Như vậy mà thế gian có ai chịu ngu đâu. Lúc nào cũng nghĩ ḿnh khôn. V́ vậy h́nh ảnh đức Phật ung dung đi khất thực, bị người ta chửi Ngài vẫn thản nhiên không giận không hờn. Đó là tấm gương sáng cho tất cả chúng ta noi theo.

Như vậy chúng ta biết tu, trước những cảnh thách đố, bị người ta nhục mạ, ḿnh vẫn thản nhiên tự tại, đó là hạnh phúc. Người tu mới nh́n qua thấy như thiệt tḥi, nhưng chính sự thiệt tḥi đó lại là điều tốt. V́ qua những nghịch cảnh ấy, chúng ta mới biết được nhẫn lực của ḿnh tới đâu, việc tu tiến hay lùi.

Hiểu như vậy tất cả chúng ta tu, nếu gặp cảnh không vui không thuận, chúng ta vẫn thản nhiên, cố gắng làm chủ được ḿnh, thắng được ḿnh. Đó mới thật là người tu. Ngược lại chúng ta thua giặc nóng giận, đó là chúng ta chưa khéo tu.

Trong kinh, Phật dạy: "Thắng một vạn quân không bằng thắng ḿnh, thắng ḿnh mới là chiến công oanh liệt nhất! " Chúng ta vào các chùa cổ, thường thấy tấm bảng để trên điện thờ: "Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi". Đại hùng là sức mạnh phi thường. Đại lực cũng là sức mạnh không có ǵ đương nổi. Như vậy, người có sức mạnh phi thường, không ǵ đương nổi là một vị anh hùng.

Đức Phật đă cầm binh đánh giặc bao nhiêu lần mà chúng ta gọi Ngài là đấng Đại hùng? Thường ở thế gian hay nói ai thắng được kẻ địch, đó là người anh hùng. Như vậy Phật đă thắng được kẻ địch nào? Đức Phật không thắng ai bên ngoài hết, mà Ngài thắng được chính ḿnh. Ngài không bị nóng giận, tham lam, si mê chi phối, làm chủ được nó là thắng ḿnh. Thắng được ḿnh là chiến công lớn nhất.

Chúng ta nhớ lại bao nhiêu vị anh hùng trên thế gian được nhân loại quư trọng, đều do sức mạnh thắng được người ngoài. Nhưng sự quư trọng đó chỉ một lúc, một thời nào thôi. C̣n đức Phật tới ngày nay, đă trên hai mươi lăm thế kỷ mà toàn thế giới đều quư trọng. Bởi Ngài đă từng thắng được ḿnh. V́ vậy mà nói Phật là đấng Đại Hùng.

Muốn thắng được ḿnh phải nhờ công phu tu. Nhờ tu chúng ta thắng được tất cả tâm xấu xa, những ư niệm không tốt. Nhờ tu chúng ta dẹp bỏ được phiền năo. Nhờ tu chúng ta mới có trí tuệ sáng suốt. Như vậy tu là hạnh phúc. Cho nên người tu hành mà nóng nảy th́ không thể gọi là tu hành. Như vậy muốn cho bảo đảm trên đường tu chúng ta được an lành tự tại, th́ cần phải sáng suốt, thấy đúng lẽ thật, đừng bị ngoại cảnh lôi dẫn, đừng bị những việc thách đố nghịch ḷng làm cho chúng ta mất hết tư cách người tu. Chúng ta tu là đem lại sự an lành, tự tại cho chính ḿnh.

Hàng cư sĩ tại gia nếu biết tu, sẽ có những hạnh phúc ǵ? Phật tử tại gia, sau khi quy y Tam Bảo rồi, đức Phật dạy phải giữ năm giới cấm. Tôi trở lại ví dụ trước. Như cha mẹ v́ thương con, muốn bảo vệ cho con được an lành, nên cấm không được đánh lộn chửi lộn, hút thuốc, uống rượu, hoặc chơi với mấy đứa du đăng v. v… Đó là t́nh thương của cha mẹ muốn bảo vệ con, nên mới cấm như vậy.

Có nhiều người đặt câu hỏi: "Đạo Phật là đạo giải thoát, đạo tự do tại sao bước chân vào đạo, Phật bắt giữ giới. Như vậy là mất tự do rồi". Quư vị xét kỹ chúng ta giữ giới như cư sĩ th́ năm giới; xuất gia Sa di th́ mười giới, Tỳ-kheo hai trăm năm mươi giới, Tỳ-kheo Ni ba trăm bốn mươi tám giới v. v… Giữ giới là tự do hay mất tự do? Thường người ta nói tự do là không bị ràng buộc. Có ràng buộc là mất tự do. Nhưng tôi đặt trường hợp: Thí dụ như đi đường, nhất là ở thành phố, xe cộ nườm nượp. Nếu người đi đường không giữ luật đi đường, người ta đi tay phải, ḿnh đi tay trái v. v… th́ tai nạn xảy ra nhiều hay ít? Chúng ta không giữ luật đi đường, đó là chúng ta gây tai nạn cho ḿnh, cho người. C̣n nếu người giữ đúng luật đi đường, th́ không gây tai nạn cho ai cả. Như vậy ḿnh b́nh yên, người khác cũng b́nh yên.

Cũng vậy, v́ chúng ta muốn b́nh yên, tự tại nên Phật bắt phải giữ những giới cấm. Nhờ giữ giới nên chúng ta an vui. Do đó giữ giới không phải là mất tự do, mà giữ giới là tôn trọng tự do. Nhờ giữ giới chúng ta không xâm phạm, không có gây phiền lụy cho ḿnh cho người. Đó là sự tự do. Ngược lại, không giữ giới mới mất tự do, v́ ḿnh và người đều bị thương tổn.

Ở đây tôi dẫn năm giới cho quư Phật tử nhớ. Trong nhà Phật có chia ra Ngũ thừa Phật giáo:

1.Nhân thừa.

2.Thiên thừa.

3.Thanh văn thừa.

4.Duyên giác thừa.

5.Bồ-tát thừa.

Chữ "thừa" nghĩa là cỗ xe, người Bắc đọc là "thặng". Ngũ thừa là năm cỗ xe. Tôi dùng một ví dụ cụ thể cho quư vị dễ hiểu hơn. Như bến xe của tỉnh Sóc Trăng có loại xe chạy gần, có loại xe chạy xa. Quư vị muốn đi gần th́ mua vé xe chạy gần. Muốn đi trung b́nh th́ mua vé xe trung b́nh. Muốn đi xa, th́ mua vé xe xa. Tùy theo ḿnh muốn tới đâu th́ mua vé xe tới đó. Như vậy mỗi xe có lộ tŕnh, có khả năng chuyên chở khác nhau.

Cũng vậy, trên đường tu có người muốn làm Bồ-tát, có người muốn làm Thanh văn, Duyên giác; có người muốn sanh lên cơi Trời, có người muốn trở lại làm người tốt hơn v. v… Phật cũng tùy theo sở nguyện của mỗi người mà dạy các pháp tu khác nhau. Cho nên Phật giáo có Ngũ thừa là vậy. Như người tu Nhân thừa th́ đời này làm một người tốt, đời sau sanh ra lại càng tốt hơn, an lành hơn. Hiện giờ Tăng Ni chúng ta tu là đang đi trên đường nào? Nếu chúng ta tu Thanh văn thừa th́ phải giữ giới Tỳ-kheo. C̣n tu Bồ-tát thừa th́ giữ thêm giới Bồ-tát.

Trở lại năm giới của hàng cư sĩ. Giới thứ nhất không được sát sanh. Trong giới này nói một cách rơ ràng là không được giết người. Nhiều người nói không sát sanh là từ các loài côn trùng vi tế cho đến con người đều không được giết. Như vậy có đúng là giới của Phật tử tại gia không? Cấm sát sanh của Phật tử tại gia trọng tâm là không được giết người. Không được giết người có chia ra ba phần: Một là thân không giết người. Hai là miệng không xúi bảo kẻ khác giết người. Ba là thấy, nghe người ta giết nhau ḿnh không vui. Nếu rộng hơn th́ thêm những con vật lớn như trâu, ḅ, heo, chó v. v… quư vị tránh được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Đó là giữ giới không sát sanh của hàng Phật tử tại gia.

Phật tử tại gia giữ giới không giết người có lợi ích ǵ? Nếu chúng ta không giết người th́ người sẽ không giết lại ḿnh. Không giết người th́ khỏi tù tội. Nếu nóng giận giết người, đó là ḿnh gieo tai họa cho chính ḿnh v́ sẽ bị tù tội, bị người giết lại. Vả như người ta không giết lại th́ cũng oán thù không có ngày trả xong. Do đó giữ giới không sát sanh th́ chúng ta được b́nh an hạnh phúc. Ngược lại th́ suốt đời sẽ bất an, chịu khổ cả thân lẫn tâm.

Phật tử không trộm cướp của người th́ không bị tù tội, khinh khi. Quư vị tưởng tượng trong xóm, trong làng có kẻ trộm, kẻ cướp th́ được người ta khen hay bị người ta phỉ nhổ, được b́nh an hay sống trong hồi hộp lo âu? Nên giữ giới không trộm cướp là chúng ta bảo vệ giá trị của ḿnh, bảo vệ sự b́nh yên của ḿnh. Đó là nền tảng để được an vui, hạnh phúc.

Phật tử không được tà dâm. Giới này có nhiều người coi thường. Nhưng sự thật, nó rất quan trọng. Bởi v́ đạo Phật là đạo đem lại hạnh phúc cho mọi người. Tà dâm tức là ngoại t́nh, người chồng hoặc người vợ ngoại t́nh với kẻ khác gọi là tà dâm. Nếu trong một gia đ́nh đang b́nh an, vui vẻ, bỗng người chồng hoặc vợ ngoại t́nh với kẻ khác th́ gia đ́nh đó có c̣n b́nh an, hạnh phúc không? Gia đ́nh đó sẽ tan nát, con cái khổ sở. Như vậy, không giữ giới tà dâm là làm cho ḿnh khổ, người khổ, cha mẹ phiền hà, xă hội khinh bỉ. Nếu Phật tử khéo giữ giới này th́ chẳng những bảo vệ được hạnh phúc gia đ́nh, mà c̣n góp phần làm cho xă hội văn minh tốt đẹp hơn.

Phật tử không nói dối. Giới này, có nhiều người giải thích là tất cả mọi việc đều không được nói dối. Nhưng tôi nh́n khác hơn một chút. Không nói dối là không tự ḿnh nói những lời dối trá, gạt gẫm người để thu lợi về ḿnh, làm cho người phải thiệt tḥi. Cho nên phạm tội nói dối có ba động cơ:

Một là nói dối do ḷng tham. Hoặc tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi v. v… nói dối để gạt gẫm người, đó là phạm tội nói dối. Ví dụ có nhiều người đă lập gia đ́nh rồi, khi đi xa gặp ai vừa ư, họ nói với người ấy chưa có gia đ́nh, chưa thương ai v. v… Đến chừng sau phát giác ra đă có gia đ́nh, có con cái, th́ đủ chuyện rắc rối xảy ra phải không? Đó là do tham sắc mà nói dối. Tham tài, tham danh… mà nói dối cũng như vậy.

Hai là nóng giận mà nói dối. Nóng giận mà nói dối nghe vô lư quá. Nhưng thật ra thế này, khi nổi giận lên, ḿnh biết người đối diện là anh A, anh B ǵ đó, nhưng lại gọi người ta là đồ chó, đồ trâu. Như vậy có đúng sự thật không? Người ta là người mà nói là chó là trâu, làm sao người ta không bực tức. V́ giận mà ḿnh nói những lời không đúng lẽ thật gây phiền năo cho người, gọi là phạm tội nói dối.

Ba là v́ tâm ác độc, tâm oán thù muốn hại người mà nói dối. Ḿnh biết người ta không phạm luật pháp, nhưng v́ thù riêng nên làm đơn vu oan, để họ bị giam cầm khổ sở. Đó là phạm tội nói dối.

Tóm lại, tội nói dối do ba động cơ: tham lam, nóng giận, ác độc.

Ngược lại nếu người có ḷng từ bi thương người, thương vật, nói dối để cứu nạn th́ không có tội. Thí dụ có một người hàng xóm bệnh trầm trọng đang nằm ở bệnh viện, chúng ta lại thăm. Nghe bác sĩ nói bệnh này không qua khỏi. Chúng ta biết bệnh này thế nào cũng chết, nhưng khi bệnh nhân hỏi: "Thưa thầy (anh) bệnh tôi có qua khỏi không? " Ḿnh có nỡ khẳng định là anh phải chết không? Biết họ sẽ chết mà chúng ta không dám nói thật. Mà lại nói: "Không sao đâu, uống thuốc từ từ sẽ lành". V́ thương họ, sợ họ khổ mà ḿnh nói dối cho nên không phạm giới. Hoặc như có người thợ săn đến vườn chùa, trong vườn có thỏ chồn. Nhưng khi thợ săn hỏi: "Vườn chùa thầy có thỏ, chồn không? " Ḿnh nói: "Vườn tôi không có thỏ, chồn. " Như vậy nói dối mà không có tội. V́ thương không muốn cho chúng bị giết nên ta nói dối.

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nói dối phạm tội hay không là do nơi tâm. Với tâm tham lam, tâm nóng giận, tâm ác độc mà nói dối th́ phạm tội. Với tâm từ bi thương người thương vật, mà nói dối th́ không phạm. Cho nên việc lợi hại tùy theo quan niệm, tùy theo tâm tư của ḿnh. Không phải bất cứ lúc nào nói dối cũng phạm tội hết.

Phật tử không được uống rượu. Trong giới này chúng ta nên xét đến những trường hợp ngoại lệ. Như người Tây phương ở xứ lạnh, không uống bia họ chịu lạnh không nổi. Bây giờ kể cả rượu mạnh, rượu nhẹ đều cấm không được uống th́ họ giữ không được. Cho nên với tôi, th́ nên châm chước thế này, cấm uống rượu mạnh, cấm uống say. Trong thời đại hiện nay cần phải cấm thêm các chất nữa: không được hút á phiện, x́ ke, ma túy. Hồi xưa không có ba thứ đó, chỉ cấm rượu thôi. Nhưng bây giờ, x́ ke, ma túy, á phiện c̣n nguy hại hơn cả rượu nữa. Cho nên phải cấm hẳn, tuyệt đối không được dùng x́ ke, ma túy, á phiện dù chỉ một chút thôi.

Như vậy giữ giới có giá trị, có lợi ích rất cụ thể. Phật tử không giết người, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không hút á phiện, x́ ke, ma túy th́ gia đ́nh chắc chắn được hạnh phúc. Bây giờ cả xóm, cả làng đều tu theo Phật, đều giữ năm giới trọn vẹn th́ xóm làng đó có sợ ăn trộm, có nghi kỵ nhau về tà dâm hoặc căi vă không? Một xóm làng khéo tu, giữ tṛn năm giới th́ tối ngủ không cần đóng cửa. Trong sinh hoạt không sợ ai lường gạt ḿnh. Tất cả mọi người tin tưởng nhau, không nghi ngờ nhau cũng không có những tai họa như á phiện, x́ ke, ma túy v. v… Đó là một xóm, một làng rất đẹp.

Nên biết Phật tử chỉ cần giữ năm giới là đă đem lại hạnh phúc cho bản thân, cho gia đ́nh và cho xă hội nữa. Đó là điều hết sức cần yếu. Do đó tôi nói: "Người biết tu là người tạo được nguồn hạnh phúc cho ḿnh, cho người". Đó là lợi ích trong đời này. Cho nên tu Nhân thừa Phật giáo, ngay trong đời này chúng ta là một người Phật tử chân chính, mà chết đi đời sau tái sanh lại, càng được tốt đẹp hơn.

Người giữ giới không sát sanh th́ đời sau được tuổi thọ dài. Người giữ giới không trộm cướp th́ đời sau sanh ra được nhiều tiền của. Người giữ giới không tà dâm th́ đời sau sanh ra được đẹp đẽ trang nghiêm. Người giữ giới không nói dối th́ đời sau sanh ra nói năng lưu loát, nói ra điều ǵ người ta cũng tin, cũng quư. Người giữ giới không uống rượu, không hút á phiện, x́ ke, ma túy th́ đời sau sanh ra trí tuệ sáng suốt.

Nếu người giữ được bốn giới, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu mà không giữ được giới sát sanh; th́ người đó đời sau được trí tuệ thông minh, nói năng lưu loát, đẹp đẽ, giàu sang nhưng lại chết yểu. Được tất cả mà chết yểu, quư vị có muốn không? Chắc không muốn. Cho nên tốt nhất là giữ đủ năm giới.

Hoặc có người giữ giới không sát sanh, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu nhưng lại phạm giới trộm cắp; th́ đời sau được sống lâu, đẹp đẽ, nói năng lưu loát, trí tuệ thông minh nhưng lại nghèo xơ xác, không có gạo ăn. Như vậy quư vị có chịu không? Hoặc được sống lâu, nhiều của, thông minh, nói năng lưu loát nhưng v́ không giữ giới tà dâm nên đời sau xấu xí, không ai muốn nh́n hết. Chắc quư vị cũng không chịu.

Hoặc giữ giới không sát sanh được tuổi thọ dài lâu, không trộm cắp được giàu sang, không tà dâm được đẹp đẽ, không uống rượu được thông minh nhưng v́ không giữ giới nói dối nên đời sau nói ngọng, nói lịu, nói ra điều ǵ người ta cũng chê cười, không tin. Quư vị có chịu không? Chắc cũng không chịu. Hoặc trong bốn thứ: sống dai, có của, nói năng lưu loát, đẹp đẽ nhưng ngu tối, quư vị chịu không?

Nói chung nếu chúng ta giữ tṛn năm giới th́ hiện đời là một người tốt, một người xứng đáng. Khi chết đi, đời sau trở lại sanh làm người được tuổi thọ dài, giàu sang, đẹp đẽ, nói năng lưu loát, trí tuệ thông minh. Chúng ta có muốn thiếu điều nào không? Nếu không muốn thiếu th́ phải giữ đủ năm giới. Nhân thế nào quả sẽ thế ấy. Nên cũng ở thế gian, mà người được điều này, thiếu điều kia, không trọn vẹn. Đó là v́ không khéo tu. Nếu chúng ta khéo tu, giữ tṛn năm giới th́ đời này đă tốt, đời sau sanh ra càng tốt hơn.

Phật tử nào hiện đời tu giữ tṛn năm giới, khi sắp lâm chung, có ai đến hỏi: " Anh hay chị chết rồi sẽ đi về đâu? " Quư vị sẽ trả lời: "Tôi giữ tṛn năm giới nên sẽ ngồi trên cỗ xe Nhân thừa Phật giáo, đời sau nhất định trở lại làm người và tiếp tục tu nữa". Nên người biết tu sẽ nắm rơ ngày mai kết quả ra sao. Chứ không phải tu th́ tu, mà khi gần chết không biết ḿnh đi đâu, rồi đâm ra hoang mang, hoảng hốt.

Chính chỗ này, ngày xưa Ma Ha Nam hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, con giữ tṛn năm giới và tinh tấn tu hành các pháp Phật dạy, như vậy nếu con ra đường lỡ như bị tai nạn chết liền tại chỗ, th́ đời sau con sẽ sanh về đâu?

Khi đó đức Phật đưa tay lên, nghiêng sang một bên và nói:

- Như cây nghiêng như vầy, khi cưa nó sẽ ngă về đâu?

Ma Ha Nam trả lời:

- Nếu cây nghiêng chiều nào, khi cưa nó sẽ ngă theo chiều ấy.

- Cũng vậy, ông đang tu pháp nào, đang gây tạo nghiệp ǵ th́ khi chết sẽ đi theo đường đó.

Chính chỗ này, Phật tử cũng hoang mang lắm. Ḿnh bệnh, có quư thầy quư cô đến nhắc nhở đạo lư, c̣n hy vọng được theo Phật. Nếu ra đường lỡ xe đụng chết bất đắc kỳ tử, chừng đó hoảng hốt không biết đi đâu? Trong đạo Phật nói nghiệp có nhiều thứ, nhưng có hai thứ rất trọng yếu: Một là tích lũy nghiệp, hai là cận tử nghiệp.

Tích lũy nghiệp là nghiệp tích lũy trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta thường làm điều lành, đó là tích lũy nghiệp lành. Khi nhắm mắt nếu không được Tăng Ni trợ niệm hay nhắc nhở đạo lư, nhưng nhờ tích lũy nghiệp đó dẫn chúng ta đi con đường lành. Cũng như cây nghiêng chiều nào th́ nhất định sẽ ngă chiều đó.

Cận tử nghiệp tức là nghiệp lúc gần chết. Trước kia có thể chúng ta phạm nhiều tội lỗi, nhưng khi gần chết năm bảy tháng ǵ đó, lại phát tâm hướng về Tam Bảo, biết ăn năn hối hận những lỗi lầm trước. Từ đó ra sức làm những việc thiện. Đó là cận tử nghiệp thiện. Lúc lâm chung lại được Tăng Ni hộ niệm, người đó lư đáng phải đọa, nhưng nhờ cận tử nghiệp tốt, nên được sanh cơi lành. Song thọ mạng ở cơi lành ngắn ngủi, v́ họ phải đọa vào các đường ác để trả lại nợ trước. Do đó chúng ta thấy có người sanh ra trong gia đ́nh giàu sang, nhưng chừng năm bảy tuổi th́ chết. Bởi v́ họ có phát tâm lành, nên hưởng được quả lành, nhưng quả lành rất ngắn nên họ hưởng cũng ngắn thôi. Hiểu như vậy chúng ta mới không ngạc nhiên tại sao người có phước, sanh ra trong gia đ́nh khá giả mà lại chết yểu.

Như vậy tích lũy nghiệp là nghiệp chúng ta tạo hàng ngày, c̣n cận tử nghiệp là nghiệp gần chết chúng ta mới tạo. Hai nghiệp đó đều có cảm quả. Nhưng quả theo hai hướng khác nhau. Mới thấy lư nghiệp báo trong đạo Phật rất công bằng, rất hợp lư. Chúng ta tạo điều lành th́ được quả lành, tạo điều ác th́ phải bị quả ác. Do tạo nghiệp mà phải chịu quả, chứ không có Phật trời nào can dự vào được.

Chúng ta tu hành, biết hướng về Tam Bảo, cải đổi những thói quen, những tật xấu để trở thành người hay, người tốt. Nhờ vậy sau khi nhắm mắt, ḿnh được đi đường lành. Ngược lại nếu không biết cải đổi, mà cứ xin Phật cho cái này cho cái kia, th́ kết quả không được ǵ cả. Cho nên tu nhiều th́ hạnh phúc nhiều, tu ít th́ hạnh phúc ít. Ḿnh là người chủ tạo duyên lành quả tốt cho ḿnh, chứ không phải ai khác.

Trên đường tu, chúng ta hiểu thấu được lẽ này th́ không c̣n trông chờ đức Phật cứu. Cho dù Phật có cứu mà không chịu tu th́ cũng không bao giờ được hưởng quả tốt. Đó là một lẽ thật. Cho nên nguồn hạnh phúc là ở nơi chính ḿnh, do công của ḿnh chăm sóc, nuôi dưỡng, chứ không phải từ đâu đến. Thế nên chúng ta phải cố gắng tạo cho ḿnh một tương lai tốt đẹp.

Bài giảng hôm nay tôi nói tu hành là nguồn hạnh phúc cho tất cả Tăng Ni, Phật tử hiểu. Để từ đó chúng ta chọn lấy một con đường tốt, dẫn ḿnh tới chỗ an lạc giải thoát. Mong tất cả quư vị sáng suốt chọn lấy cho ḿnh một con đường.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]