[Trang chu] [Kinh sach]

LĂNG GIÀ TÂM ẤN

[mucluc][p1][p2][p3][p4][c1]

[c2A][c2A1][c2A2][c2B][c2C][c2D][c2E][c2F][c2G][c2H]


I - PHẦN TỰ.

A- DUYÊN KHỞI CỦA KINH.

          Tôi nghe như vầy, một hôm Phật ở trên đảnh núi Lăng-già tại bờ biển Nam, dùng các thứ hoa báu trang nghiêm, cùng với các vị đại tỳ-kheo tăng và chúng đại Bồ-tát câu hội. Chúng đại Bồ-tát ấy ở các cơi Phật khác đến. Các ngài có sức tự tại vô lượng chánh định và thần thông du hư, đại Bồ-tát Đại Huệ làm thượng thủ. Các ngài đă được tất cả chư Phật làm phép quán đảnh, và khéo hiểu nghĩa cảnh giới tự tâm hiện, các loại chúng sanh, các thứ tâm sắc, vô lượng độ môn, tùy loại khắp hiện. Đối với năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngă, các ngài đă thông đạt cứu kính.

          Trên hội Niết-bàn, ngài A-nan hỏi Phật: Khi kết tập các kinh, lấy câu nào để đầu? Phật dạy: Phải dùng câu “Tôi nghe như vầy, một hôm Phật ở…” làm thông lệ cho các kinh. Kinh này Phật chỉ thẳng cho chúng sanh căn thân khí giới hiện tiền đều duy tâm hiện, như mộng như huyễn chẳng phải có chẳng phải không. Một niệm bất giác muôn pháp này đồng hiện. Chính nơi đó mà phát minh th́ chỉ một tâm không có ǵ khác. Đây là cảnh giới bất tư ngh́ của chư Phật, Bồ-tát, không phải chỗ biết của hàng nhị thừa và ngoại đạo. Cho nên những vị đương cơ cùng chư đại Bồ-tát đồng đến trong hội, đều được chánh định tự tại và thần thông du hư, khéo hiểu tất cả cảnh giới tự  tâm hiện. Các ngài tùy các thứ tâm sắc của chúng sanh lập bày phương tiện để độ thoát, và thông đạt cứu kính năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngă. Các ngài đủ khả năng thọ nhận đệ nhất liễu nghĩa của Như Lai, không rơi vào lưới nghi, không bị tất cả ngoại đạo, Nhị thừa làm hoặc loạn. Những vị đại tỳ-kheo chung hợp trong hội này đều là hàng Nhất thừa hóa hiện, không đồng với hàng định tánh Thanh văn, chẳng kham phát tâm Đại thừa. Cho nên phần duyên khởi này cùng với yếu chỉ Duy tâm của bản kinh phù hợp nhau hiển bày.                                                        

  B- ĐƯƠNG CƠ  KỆ  TÁN.

          Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ cùng Bồ-tát Ma-đế hợp nhau dạo tất cả cơi nước chư Phật, nương thần lực của Phật từ ṭa đứng dậy, bày vai áo mặt, quỳ gối mặt xuống đất, chắp tay cung kính dùng kệ tán thán Phật:

          Cơi nước chư Phật tức là cơi nước chúng sanh. Những vị Bồ-tát này hay chính chỗ nhật dụng của chúng sanh mà thông đạt cảnh giới Phật. Bảo rằng “Thấy tất cả sắc đều là sắc Phật, nghe tất cả tiếng đều là tiếng Phật, dạo tất cả cơi nước đều là cơi nước chư Phật”. Do đó các Ngài trên nương thần lực chư Phật, dưới v́ trong hội chúng phát lời tán thán. Những lời tán thán Phật đều hàm súc ư nghĩa kinh, không có chỉ thú riêng.

          Thế gian ĺa sanh diệt

          Ví như hoa hư không,

          Trí chẳng thấy có, không

          Mà khởi tâm đại bi.

          Tất cả pháp như huyễn

          Xa ĺa nơi tâm thức,

          Trí chẳng thấy có, không 

          Mà khởi tâm đại bi.

          Xa ĺa chấp đoạn thường

          Thế gian hằng như mộng,

          Trí chẳng thấy có, không

          Mà khởi tâm đại bi.

          “Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng”, những câu này là tức nơi nhật dụng của chúng sanh liền thấy cảnh giới bất tư ngh́ của Như Lai, chẳng phải do dụng công quán chiếu của trí khiến nó thành có hay thành không. Như Lai thương xót các chúng sanh này không thể tự giác, luống theo tâm thức vọng chấp đoạn, thường. Ngài khởi đại bi lập bày phương tiện để độ thoát. Bồ-tát thâm hiểu được ư này, cho nên trong lời tán Phật riêng bày chỉ thú toàn kinh. Đây là “khéo hiểu nghĩa cảnh giới tùy tâm hiện”    ấy vậy.

          Biết nhân pháp vô ngă

          Phiền năo và sở tri (nhĩ diệm)

          Thường thanh tịnh không tướng

          Mà khởi tâm đại bi.

          Phàm phu chấp trong thân ngũ ấm là ngă nên phiền năo y đó mà khởi. Nhị thừa quán ngũ ấm vô ngă mà cái sở tri chưa quên. Cả hai đều thuộc về mê, không phải có cạn sâu vậy. Ở đây nói “nhân pháp vô ngă, phiền năo sở tri thường tự thanh tịnh” đều là lời tán Phật. Song cũng chỉ rơ phàm phu Nhị thừa ngay đó toàn không, bởi do bất giác vọng thấy lưu chuyển. Như Lai biết rơ nên khởi đại bi độ thoát. Tuy không có chúng sanh được diệt độ, mà mười câu vô tận bản nguyện sâu rộng vậy. Xét theo Tam tế:

          Y bất giác tâm động gọi là Nghiệp tướng.

          Y tâm động khởi năng kiến gọi là Chuyển tướng.

          Y năng kiến mà cảnh giới vọng hiện gọi là Hiện tướng.

          Ba thứ  này, thuộc về thức thứ  tám, là cái tập khí hư ngụy từ vô thủy. Sau y Hiện tướng đối cảnh phân biệt thành Lục thô.

          Trí tướng tức pháp chấp câu sanh.

          Y trí khởi niệm chẳng dứt gọi Tương tục tướng là pháp chấp phân biệt. Hai cái pháp ngă (chấp) này, tuy thuộc thức thứ bảy, song cội gốc nó thật khó thấy. V́ nó y bất giác mà khởi nên rất vi tế. Đến hàng Thập nhất địa (Đẳng giác) vẫn có hai phần sở tri ngu, cho nên không phải chỗ Nhị thừa thấy được. Chữ sở tri tức là nhĩ diệm vậy.

          Y niệm khởi chấp gọi Chấp thủ tướng, là nhân chấp câu sanh.

          Y chấp khởi kế (tính toán) gọi Kế danh tự tướng, là nhân chấp phân biệt. Hai cái nhân ngă (chấp) này, khởi ra tất cả cội gốc phiền năo, cũng thuộc về thức thứ bảy. Song v́ y cảnh phân biệt làm chỗ chấp giữ, nên hàng Nhị thừa quán nhân vô ngă cũng hay đoạn được mà pháp ngă của thức thứ bảy chẳng đoạn. Ngài Huyền Trang cho phân biệt thuộc thức thứ sáu, câu sanh thuộc thức thứ bảy. Song ở đây xét về nguyên do sanh khởi nên nói chung là thức thứ bảy.

          Y hoặc tạo nghiệp gọi Khởi nghiệp tướng.

          Y nghiệp chiêu báo gọi Khổ hệ tướng.

          Hai phần này thuộc về trời người. Nhưng tóm kết Tam tế và Lục thô thảy đều do bất giác. Nếu giác th́ hoàn toàn không, nên nói “thường thanh tịnh không tướng”.

          Tất cả không Niết-bàn

          Không Niết-bàn của Phật

          Không có Phật Niết-bàn

          Xa ĺa giác, sở giác

          Hoặc có hoặc không có

          Cả hai thảy đều ĺa.  

          Bốn bài kệ trước nói chỗ nhật dụng của chúng sanh thảy là cảnh giới của Như Lai. Bài kệ này nói Như Lai Niết-bàn chẳng khác với chúng sanh sanh tử, nên nói “tất cả không Niết-bàn”. Nếu có Niết-bàn th́ đâu không sanh tử; đă có sanh tử tức có chúng sanh sanh tử và có chúng sanh vào sanh tử. Có chúng sanh sanh tử tức là có Phật Niết-bàn. Có chúng sanh vào sanh tử tức có Phật vào Niết-bàn. Thế là cái năng giác và sở giác rơ ràng thành đối đăi. Đâu biết rằng tất cả chúng sanh đă vào Niết-bàn, chẳng cần lại Niết-bàn. Như Lai thấy rơ nên hay tùy thuận bản tế, sanh tử Niết-bàn đều như mộng huyễn. Đă tuyệt tâm năng, sở th́ không rơi vào cái thấy có, không. Bậc Vô thượng chánh chân không thể đem trọn sự suy xét so lường đến được.

          Quán Mâu-ni tịch tĩnh

          Thế là xa ĺa sanh

          Ấy gọi là chẳng thủ

          Đời này đời sau tịnh.

            Pháp thân không tánh không sanh, chẳng phải tâm chẳng phải thức, đây là Mâu-ni tịch tĩnh, chóng ĺa tất cả kiến, tướng sanh diệt. Nếu khởi cái quán này, trong một sát-na các chấp đều đoạn. Liền đó mắt ḿnh mở rộng thẳng đến vị lai tự nhiên tịnh niệm tương tục. Đó là chỗ Lục tổ nói “niệm trước chẳng sanh, niệm sau chẳng diệt” vậy. Nhân lời tán Phật này để chỉ cho người phải để mắt nơi đây.

 


[mucluc][p1][p2][p3][p4][c1]

[c2A][c2A1][c2A2][c2B][c2C][c2D][c2E][c2F][c2G][c2H]

[Trang chu] [Kinh sach]