[Trang chu] [Kinh sach]

LĂNG GIÀ TÂM ẤN

[mucluc][p1][p2][p3][p4][c1]

[c2A][c2A1][c2A2][c2B][c2C][c2D][c2E][c2F][c2G][c2H]


         II - PHẦN CHÁNH TÔNG.

          D- Chỉ tự giác nhất thừa soi sáng các địa, khéo đoạn các lậu, viên măn thân phật, chẳng rơi vào có  không.

            1- CHỈ TỰ GIÁC NHẤT THỪA.

            - CHỈ TỰ GIÁC THÁNH TRÍ.

            Đại Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi mong v́ nói tướng tự giác thánh trí và nhất thừa. Nếu tướng tự giác thánh trí và nhất thừa, con và các Bồ-tát khác rành tướng tự giác thánh trí và nhất thừa th́ chẳng do nơi khác thông đạt Phật pháp. Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ v́ ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Thánh trước biết rơ trao truyền cho nhau, “vọng tưởng là không tánh”, đại Bồ-tát riêng ở chỗ vắng vẻ tự giác quán sát, chẳng do nơi khác ĺa kiến chấp vọng tưởng, tiến thẳng lên trên vào Như Lai địa, ấy gọi là tướng tự giác thánh trí. 

            Đây đáp tự giác thánh trí mà nói thánh trước biết rơ trao truyền cho nhau “vọng tưởng là không tánh”! Cho nên biết, tất cả phàm phu không thể rơ  thấu  được giác tánh đều bị vọng tưởng kềm giữ, lần lượt phá trừ th́ tưởng tế lại sanh. Nếu biết không tánh th́ tức vọng liền chân, chỗ giác tưởng hết, chẳng do nơi khác mà ngộ, nên nói tự giác. Ngài Vĩnh Minh Giác nói: “Đồng một không tánh nên được hiện thành, tánh vọng vốn rỗng chúng sanh nguyên là Phật, chân tánh đă được, đâu phải nay mới thành”. Đây là nhằm vào căn bản trí  vậy.

            - CHỈ NHẤT THỪA.

            Đại Huệ! Thế nào là tướng nhất thừa? Nghĩa là giác ngộ đạo nhất thừa nên ta nói nhất thừa. Thế nào là giác ngộ đạo nhất thừa? Nghĩa là chỗ năng nhiếp sở nhiếp vọng tưởng như thật, chẳng sanh vọng tưởng, ấy gọi là giác nhất thừa. Đại Huệ! Người giác ngộ nhất thừa, chẳng phải chỗ các hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Phạm thiên vương v.v… có thể được, chỉ trừ Như Lai, do đó nên gọi là nhất thừa.

            Chỗ năng nhiếp sở nhiếp vọng tưởng như thật chẳng sanh vọng tưởng là, cảnh giới vọng tưởng của chúng sanh hiện tiền tức là trường đại tịch diệt của chư Phật Như Lai, chân tục không hai, b́nh đẳng một pháp giới không có sai biệt. Kinh Tối Thắng Vương nói: “Người tu hạnh bồ-đề đối với cảnh chư thánh, thể chẳng phải một khác, chẳng bỏ nơi tục, chẳng ĺa nơi chân, y nơi pháp giới. Pháp giới là, tất cả chúng sanh là chân không thường trụ, tự tướng tự tánh bản tế như thật, chẳng sanh chẳng diệt, không có giác tri. Đây là chỗ đi của Như Lai, chẳng phải chỗ hiểu của phàm, chẳng phải chỗ biết của thánh”. Cho nên nói: “Chẳng phải chỗ các hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Phạm thiên vương… có thể được”. Nên nói: “Cứu kính giác” vậy.

            - CHỈ TAM THỪA TÙY CƠ.

          Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cớ sao nói tam thừa mà chẳng nói nhất thừa? Phật bảo Đại Huệ: Chẳng tự vào pháp Niết-bàn, nên chẳng nói nhất thừa với tất cả Thanh văn Duyên giác. Bởi tất cả Thanh văn Duyên giác, Như Lai điều phục trao cho phương tiện tịch tĩnh mà được giải thoát, chẳng phải tự sức ḿnh, thế nên chẳng nói nhất thừa. Lại nữa, Đại Huệ! V́ phiền năo chướng, nghiệp, tập khí chẳng đoạn nên không nói nhất thừa với tất cả Thanh văn, Duyên giác. V́ chẳng giác pháp vô ngă, chẳng ĺa phần đoạn tử nên nói tam thừa.

            Như Lai chẳng v́ Thanh văn Duyên giác nói pháp nhất thừa. Bởi v́ Thanh văn Duyên giác không thể ĺa ngôn thuyết và sở thuyết được tự giác thánh trí, chẳng được pháp tự vào Niết-bàn. Tự vào Niết-bàn là tự tánh Niết-bàn. Sẵn có tự tánh vốn tự vắng lặng chẳng chịu sanh tử. Ở trong sanh tử mà chẳng bị pháp sanh tử chen vào, thường tự vắng lặng, ngay đó là như như. Tánh như như mà không thể tự giác cần nhờ duyên khởi. Gặp duyên thế gian liền khởi phân biệt, bám lấy thanh sắc tạo nhân trong tam giới, chuốc quả luân hồi. Gặp duyên xuất thế liền khởi chán ĺa, bám chặt vào thiền định, tạo nhân tứ đế mười hai nhân duyên, thành quả giải thoát. Song tự tánh như như chẳng phải luân hồi, chẳng ĺa luân hồi, chẳng phải giải thoát, chẳng ĺa giải thoát, chẳng phải hai bên này, cũng chẳng ĺa hai bên. Như Lai thương xót các phàm phu đắm mê thế gian, cho thế gian là thường nên v́ họ nói vô thường, cho thế gian là lạc nên v́ họ nói khổ, cho thế gian là tịnh nên v́ họ nói bất tịnh, cho thế gian là ngă nên v́ họ nói vô ngă. Nhị thừa lấy đây để điều phục, được đạo giải thoát mà chẳng phải tự tánh giải thoát. Về phần khởi phiền năo đă đoạn, c̣n tập phiền năo chẳng đoạn, được nhân vô ngă, chẳng giác ngộ pháp vô ngă. Tập phiền năo khởi từ vô minh bất giác nghiệp động, chẳng phải người giác tự tánh th́ không thể xa ĺa. Nghiệp tập chẳng đoạn th́ chỉ là bất tri bất giác mà thôi. Thế Tôn thường nói: “Thanh văn Duyên giác c̣n không thấy chân tánh vô ngă, huống là chân tánh hữu ngă”. Đồng một chân tánh do vô ngă được vào, chẳng phải giác tự tánh, cho nên nói “chẳng thấy”. Chúng sanh phân biệt ta người là lỗi của bất giác, không dùng tức và ĺa, nên nói “chỗ năng nhiếp sở nhiếp vọng tưởng như thật” thật khó mà gánh vác. Vừa sanh phân biệt liền rơi vào sở tri. Câu “chẳng ĺa phần đoạn tử” theo bản dịch đời Ngụy th́ “chưa được bất khả tư ngh́ biến  dịch sanh”. Về phần đoạn nhị thừa đă ĺa, c̣n biến dịch nhị thừa chưa đoạn. Mà nói bất khả tư ngh́ biến dịch sanh, chính chỉ tùy loại đối hiện th́ nhị thừa không có phần.

            - CHỈ NHẤT THỪA B̀NH ĐẲNG.

            Đại Huệ! Những người kia đối tất cả khởi phiền năo, lỗi tập khí đă đoạn và giác pháp vô ngă. Kia đối tất cả khởi phiền năo, lỗi tập khí đoạn, đắm vị tam-muội  lạc  chẳng phải tánh, giác được vô lậu giới. Giác rồi, lại nhập xuất thế gian thượng thượng vô lậu giới, đầy đủ các thứ công đức sẽ được pháp thân Như Lai bất khả tư ngh́ tự tại.

            Kinh Phật Đảnh nói: “Giác chẳng phải sở minh, nhân minh mà lập giác, sở đă vọng lập th́ sanh vọng năng của ông”. Sở là chỉ cho tướng phần. Kinh Phật Đảnh nói sở trước cái năng th́ biết tột gốc pháp ngă, tập khí rất là tế nhị và kín đáo, chỗ này Bồ-tát đến Diệu giác mới hết. Khởi phiền năo là nhân ngă. Nhị thừa tuy đoạn khởi phiền năo, mà lỗi kiến phần tập khí chưa quên. Đây đồng nói đoạn là, chính khi thời tiết đă đến, bỗng nhiên giác ngộ, chỗ tập khí đoạn th́ø pháp vô ngă tự nhiên sáng tỏ. Đắm vị tam-muội, đây là tập khí pháp ngă. Kia đối với chỗ chẳng phải chuyển mà sanh tưởng chuyển, như người say kia thấy mặt trăng mặt trời thật không phải xoay ṿng, mà sanh tưởng xoay ṿng. Cho nên dùng cái tưởng vô thường, khổ, không, vô ngă, đắm vị tam-muội, đối với cái lưu chuyển kia được thế gian giải thoát, vào vô lậu giới. Nơi đây nếu giác ngộ th́ đắm vị tam-muội cũng chẳng có tánh nhất định, tập khí liền đoạn, tất cả kiến chấp dứt, liền là xuất thế vô lậu, tánh bản giác liền hiện, pháp thân rơ ràng, chẳng phải bảo riêng có xuất thế vô lậu giới.

            - TỤNG CHUNG.

            Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nói kệ rằng:

            Chư thiên và Phạm thừa       

            Thanh văn Duyên giác thừa

            Chư Phật Như Lai thừa         

            Ta nói các thừa này

            Cho đến có tâm chuyển       

            Các thừa phi cứu kính.

            Nếu tâm kia diệt hết 

            Không thừa và người thừa

            Không có thừa dựng lập       

            Ta nói là nhất thừa.

            Chính Như Lai thừa mà có tâm phân biệt c̣n chẳng phải cứu kính. Cho nên sở tri ngu đến Thập nhất địa vẫn c̣n vi tế chưa hết. Được hết cái này rồi chân như tự tánh mới là hiện tiền, không có thừa cùng với người thừa (cỡi), vượt ngoài số lượng không thể dựng lập, nên nói nhất thừa. Phật bảo ngài Xá-lợi-phất rằng: “Như Lai tất cả đều biết thấy giác, cũng chẳng tự biết ta biết thấy giác. Nếu cho Như Lai khởi tướng biết thấy giác, ấy là chẳng phải Phật Thế Tôn, gọi là phàm phu”. Cho nên biết, đạo nhất thừa bặt tướng ĺa tánh, riêng một không có bạn bè, thoát ba thứ duyên, tập khí, chỉ một diệu viên giác, lại không có ǵ khác. Kinh Viên Giác nói: “Tâm diệu viên giác của tất cả Như Lai vốn không có Bồ-đề cùng với Niết-bàn, cũng không có thành Phật cùng chẳng thành Phật, không vọng luân hồi và phi luân hồi”. Chỗ này nếu không phải người đạt tự tánh tất cả pháp chân như b́nh đẳng th́ không thể thấy.

            V́ dẫn đạo chúng sanh          

            Phân biệt nói các thừa

            Giải thoát có ba thứ              

            Cùng với pháp  vô ngă.

            Phiền năo trí tuệ thảy           

            Giải thoát th́ xa ĺa

            Như cây nổi trong biển        

            Thường theo sóng gió dời.

            Thanh văn ngu cũng vậy        

            Tướng gió thổi trôi giạt

            Kia khởi phiền năo diệt        

            C̣n tập phiền năo ngu.

            Đắm vị tam-muội lạc

            An trụ vô lậu giới

            Không  tiến đến cứu kính     

            Cũng lại chẳng thối lùi.

            Được các thân tam-muội     

            Cho đến kiếp chẳng giác

            Thí như người mê say           

            Rượu hết sau mới tỉnh

            Kia giác pháp cũng vậy         

            Được thân Phật vô thượng.

            Ba thứ giải thoát tức là quả chứng của tam thừa. Nhân pháp vô ngă, phiền năo sở tri đều v́ dẫn đạo hàng nhị thừa mà nói. Người được nhất thừa giải thoát đều xa ĺa những thứ này, nên nói “không thừa và người thừa”. Nhị thừa đoạn khởi phiền năo, mà c̣n ngu tập phiền năo, thường bị không tịch chuyển, như cây nổi kia bị gió thổi trôi giạt. Thấy tất cả pháp trong ngoài  đều  theo sở tri chuyển, đắm vị tam-muội an trụ ngoại giới, liền dứt nhân sanh, cho nên cũng chẳng thối lùi. Say cái tam-muội này nhiều kiếp không giác, nếu giác tức là vô thượng, nên nói “tự tánh chân như chẳng phải các thứ giải thoát, cũng chẳng phải ĺa giải thoát”.

           2- CHỈ THÁNH TRÍ CHIẾU MINH CÁC ĐỊA.

            -BÀY BA THỨ Ư SANH THÂN.

            Khi ấy, Thế Tôn bảo đại Bồ-tát Đại Huệ rằng: Nay ta sẽ nói phân biệt tướng chung của ư sanh thân. Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ:  Có ba thứ ư sanh thân. Thế nào là ba? Là: Tam-muội lạc chánh thọ ư sanh thân, giác pháp tự tánh tánh ư sanh thân, chủng loại câu sanh vô hành tác ư sanh thân. Người tu hành rơ biết tướng sơ địa tiến lên các địa được ba thứ thân.

            Ba thứ thân từ Sơ địa đến Phật địa là phân biệt sở chứng. Tam-muội lạc chánh thọ là từ Sơ địa đến Thất địa. Giác pháp tự tánh tánh là từ Bát địa đến Thập địa. Chủng loại câu sanh vô hành tác là rốt sau của Kim Cang địa chứng được pháp thân, như hạt châu ma-ni tùy loại đối hiện. Ba thân này có thể phối hợp với ba pháp quán. Tam-muội chánh thọ thuộc về chỉ. Giác pháp tự tánh tánh thuộc về quán. Chủng loại là chủng loại thánh, tất cả Phật tự tánh ảnh hiện không thể nghĩ bàn thuộc về trung đạo thiền-na. Giác tự tâm hiện là, tam quán đồng thời đầy đủ. Ba đức tự tánh này tức một mà ba, tức ba mà một, chẳng đồng với quyền thừa thủy giáo một vị chẳng biết một vị. Song tùy địa sâu cạn chẳng ngại mỗi vị có thân chứng nên nói viên dung (đốn chứng) chẳng ngại hành bố (tiệm chứng).

             - CHỈ THÂN TƯỚNG THẤT ĐỊA TRỞ LÊN.

            Đại Huệ! Thế nào là tam-muội lạc chánh thọ ư sanh thân? Nghĩa là đệ tam địa, đệ tứ địa, đệ ngũ địa, v́ tam-muội lạc chánh thọ, các thứ tự tâm vắng lặng, an trụ nơi tâm hải, tướng thức nổi sóng chẳng sanh. Biết cảnh giới tự tâm hiện tánh (pháp) là phi tánh (không pháp), ấy gọi là tam-muội lạc chánh thọ ư  sanh  thân.

            Từ Sơ địa đến Tứ địa đoạn kiến hoặc hết, từ Ngũ địa đến Thất địa đoạn tư hoặc hết. Đại thừa giác tự tâm hiện đă đoạn hai hoặc tuy chẳng đồng nhị thừa thấy có thật pháp, say đắm tam-muội, đối trị sanh tử. Song từ sóng thức chuyển biến, giác tự tâm hiện thảy không thật có, tự tâm vắng lặng bỗng nhiên hiện tiền, đă có tam-muội đều từ liễu nhân. Nên nói an trụ tâm hải, không có thọ lạc.

            - CHỈ THÂN TƯỚNG BÁT ĐỊA.

            Đại Huệ! Thế nào là giác pháp tự tánh tánh ư sanh thân? Nghĩa là đệ bát địa quán sát giác liễu các pháp thảy như huyễn đều không thật có, thân tâm chuyển biến được như huyễn tam-muội và các môn tam-muội khác. Vô lượng tướng, lực, tự tại, minh như hoa đẹp trang nghiêm chóng được như ư. Ví như huyễn, mộng, trăng đáy nước, bóng trong gương chẳng phải năng tạo chẳng phải sở tạo. Như năng tạo sở tạo tất cả sắc các thứ chi phần đầy đủ trang nghiêm, tùy vào tất cả cơi Phật có đại chúng. V́ thông đạt pháp tự tánh, ấy gọi là giác pháp tự tánh, tánh ư sanh thân.

            Đệ bát địa thấy pháp vô ngă, giác tự tâm hiện tất cả cảnh giới thảy như mộng huyễn. Liền dùng tự giác chiếu liễu thân tâm chuyển biến, thuận tánh khởi dụng, nhập như huyễn tam-muội và vô lượng tam-muội lực, thông, hiện tất cả thân như trăng đáy nước, bóng trong gương như ư tự tại khắp các cơi Phật. Hiểu sâu pháp tánh chẳng phải có chẳng phải không, chẳng do tạo tác, tự nhiên đầy đủ trang nghiêm.

            - CHỈ PHẬT ĐỊA THÂN TƯỚNG KHÔNG HÀNH TÁC VÀ BÀI TỤNG.

            Đại Huệ! Thế nào là chủng loại câu sanh vô hành tác ư sanh thân? Nghĩa là giác tất cả Phật pháp duyên tự được tướng lạc, ấy gọi là chủng loại câu sanh vô hành tác ư sanh thân. Đại Huệ! Đối với tướng ba thân kia quán sát giác liễu nên phải tu học.

            Giác tất cả Phật pháp duyên tự được tướng lạc là, chứng được tự tánh pháp thân tất cả Như Lai đă chứng. Như hạt châu ma-ni tùy năm sắc hiện. Tự tánh pháp thân của Như Lai cũng lại như thế, tùy tâm chúng sanh đối diện liền hiện. Như Lai không có tâm niệm. Đây là do bi nguyện nhiều kiếp làm thành, cũng là tự tánh pháp tướng lư ưng như thế, chỉ một ḿnh Phật mới hay viên chứng.

            Khi  ấy, Thế Tôn muốn  trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

            Thừa ta phi Đại thừa 

            Phi thuyết cũng phi tự

            Phi đế phi giải thoát             

            Phi cảnh giới có không.

            Song thừa Đại thừa này        

            Được chánh quán tự tại

            Các thứ ư sanh thân   

            Hoa trang nghiêm tự tại. 

            Bài kệ hiển bày Như Lai tự giác thánh trí ĺa các tướng thừa, chẳng phải lời nói đến, chẳng phải tất cả đế, chẳng phải tất cả giải thoát, cũng chẳng phải cảnh giới không thật có. Đây chính hiển bày đệ nhấât nghĩa tự chứng tự biết của pháp môn Đại thừa. Vào pháp môn này tự nhiên được ba thứ thân trang nghiêm tự tại, chẳng cần dụng công.

            3- CHỈ PHƯƠNG TIỆN KHÉO VÀO NĂM HẠNH.

            - NHÂN ĐẠI HUỆ HỎI LIỆT BÀY HẠNH NGŨ VÔ GIÁN.

            Đại Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn nói “Nếu người nam kẻ nữ hành nghiệp ngũ vô gián chẳng vào địa ngục vô gián”. Thế Tôn! Thế nào người nam kẻ nữ hành nghiệp ngũ vô gián mà chẳng vào địa ngục vô gián? Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ v́ ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo: Đại Huệ! Thế nào là nghiệp vô gián? Nghĩa là giết cha, giết mẹ, hại A-la-hán, phá ḥa hợp tăng, ác tâm làm thân Phật ra máu.

            Giết cha, giết mẹ, hại A-la-hán, phá ḥa hợp tăng, làm thân Phật ra máu, năm nghiệp vô gián này quyết định mắc quả báo trong địa ngục vô gián. Song Phật cũng có khi nói: cũng có người hành nghiệp ngũ vô gián mà không mắc quả báo trong địa ngục vô gián, cho nên ở văn sau phát minh.

            - CHỈ HAI CĂN BẢN ĐOẠN.

            Đại Huệ! Thế nào là mẹ chúng sanh? Nghĩa là ái lại thọ sanh, cùng với tham và hỷ chung, như duyên nơi mẹ mà sanh thành. Vô minh là cha sanh vào xóm làng lục nhập thập nhị xứ. Đoạn hai thứ căn bản này gọi là giết cha mẹ.

            Ái là phần ái trong mười hai nhân duyên, v́ nó hay nhuận sanh, cho nên nói “lại thọ sanh cùng với tham và hỷ chung” có nghĩa dưỡng dục, nên nói “như duyên nơi mẹ mà sanh thành”. Phần vô minh th́ hay phát nghiệp nên gọi nó là cha. Mẹ tham ái hiệp với cha vô minh tức là vào xóm làng lục nhập và thập nhị xứ, thành thân đời sau. Hai cái này là nhân sanh tử nên nói căn bản. Đoạn hai cái căn bản này gọi là giết cha mẹ.

            - CHỈ CÁC PHÁP CỨU KÍNH ĐOẠN.

            Các sử kia chẳng hiện như chuột độc phát các pháp, cứu kính đoạn nó, gọi là hại La-hán.

            La-hán đoạn mười chánh sử, chưa đoạn tập khí. Nói như chuột độc phát là, như con chuột độc cắn người vết thương tuy đă lành, mà gặp sấm chớp lại phát sanh. Dụ La-hán đoạn được nội sắc mà chưa đoạn ngoại sắc, cho nên gặp duyên liền dao động. Chứng tự giác trí th́ tập khí chóng trừ, tất cả pháp đă có như chuột độc phát sanh thảy đều hằng đoạn, gọi là hại La-hán.

             - CHỈ CÁC ẤM CỨU KÍNH ĐOẠN.

            Thế nào phá ḥa hợp tăng? Nghĩa là các ấm tướng khác ḥa hợp chứa nhóm, cứu kính đoạn nó, gọi là phá Tăng.

            Sắc thọ tưởng hành thức là tướng khác của các ấm. Năm ấm ḥa hợp chứa nhóm sanh tử nên gọi là tập. Nếu hay đoạn nó th́ gọi là phá tăng. V́ tăng là nghĩa ḥa hợp.

            - CHỈ BẢY THỨ THỨC ĐOẠN.

            Đại Huệ! Do bất giác ngoại cảnh tự tướng cộng tướng từ tự tâm hiện lượng nên bảy thức thân sanh. Dùng ba thứ giải thoát vô lậu ác tưởng, cứu kính đoạn bảy thứ thức Phật kia, gọi là ác tâm làm thân Phật ra máu. Nếu người nam kẻ nữ hành việc vô gián này gọi là ngũ vô gián, cũng gọi là vô gián đẳng.

            Tám thức có hai nghĩa giác và bất giác. Nếu bất giác ngoại cảnh tự tướng cộng tướng đều tự tâm hiện th́, giác là ngă tướng của bảy thức. Do kiến phần vọng giác của thức thứ tám, thức thứ bảy liền chấp làm ngă. Đây gọi là bảy thức thân. Bản nhà Đường dịch là tám thức vẫn đồng với ư chỉ này. Nếu giác tự tâm hiện ra liền hay dùng vô tác, vô tướng, vô nguyện an trụ bất giác trong biển tâm tịch tịnh. Nên nói “dùng ba thứ giải thoát vô lậu ác tưởng đoạn thân giác kia”. Hiệp năm hạnh này th́ chứng được thật pháp chánh chân, nên nói “vô gián đẳng”.

            - CHỈ NGOẠI NGŨ VÔ GIÁN HẠNH CÙNG TỤNG.

            Lại nữa, Đại Huệ! Có ngoại ngũ vô gián, nay sẽ diễn nói, ông và các đại Bồ-tát khác nghe nghĩa này rồi, ở đời vị lai chẳng rơi vào ngu si. Thế nào là ngũ vô gián? Nghĩa là trước đă nói vô gián, nếu người hành được pháp này đối ba môn giải thoát mỗi mỗi chẳng được pháp vô gián đẳng. Trừ người này ra, c̣n các vị hóa thần lực hiện vô gián đẳng, như là Thanh văn hóa thần lực, Bồ-tát hóa thần lực, Như Lai hóa thần lực, v́ người khác tạo tội vô gián để trừ nghi và hối quá. V́ khuyến phát nên dùng thần lực biến hóa hiện vô gián đẳng. Không có một bề làm việc vô gián mà chẳng mắc vô gián đẳng. Trừ người giác tự tâm hiện lượng ĺa thân (người) tài (cảnh) vọng tưởng, ĺa ngă và ngă sở nhiếp thọ; hoặc khi gặp thiện tri thức giải thoát vọng tưởng tương tục trong các cơi.

            Đối năm thứ vô gián trước, nên nói ngoại vô gián. C̣n ba hạng dùng thần lực biến hóa là v́ người tạo tội vô gián trừ nghi và khiến hối quá. Như trong luật đă phạm thảy đều thuộc quyền thị hiện. Như Điều Đạt ở trong địa ngục như thọ vui trên cơi trời Tam thiềân, chợt được Thế Tôn thọ kư. Chưa có một bề tạo nghiệp vô gián mà không mắc quả báo vô gián. Trừ giác tự tâm hiện là, trừ người này hiện đời giác tự tâm hiện, chóng ĺa tất cả vọng tưởng năng sở của thân căn và khí giới, th́ nghiệp tánh không ở trong ngoài và giữa. Như tự tâm chẳng ở trong ngoài giữa, nghiệp tánh cũng thế. Nếu chẳng được vậy th́, gặp thiện tri thức dạy khiến trừ diệt liền được giải thoát các thú. Như vua A-xà-thế liền ở trước Phật được ḷng tin không căn, phá hoại tâm ác, chẳng phải bảo đợi đến đời khác. Nếu thân này mất rồi th́ nhân quả khó trốn.

            Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:

            Tham ái gọi là mẹ                 

            Vô minh tức là cha

            Giác cảnh thức là Phật         

            Các sử là La-hán

            Ấm họp gọi là Tăng              

            Vô gián thứ lớp đoạn

            Gọi là ngũ vô gián                 

            Chẳng vào ngục vô gián.

            Giác là Phật tánh, song ở trong chúng sanh mê liễu biệt cảnh tức là vọng giác, ấy là nên đoạn, cũng gọi là làm thân Phật ra máu. La-hán các sử chẳng hiện, mà nói các sử là La-hán, v́ văn gọn vậy.

            4- CHỈ VIÊN MĂN PHẬT GIÁC.

            - CHỈ  PHẬT GIÁC.

            Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn ! Cúi xin v́ nói tri giác của Phật. Thế Tôn ! Những ǵ là tri giác của Phật? Phật bảo Đại Huệ: Giác nhân pháp vô ngă, rơ biết hai chướng, ĺa hai thứ tử, đoạn hai thứ phiền năo, ấy gọi là tri giác Phật. Thanh văn, Duyên giác được pháp này cũng gọi là Phật. Do nhân duyên ấy nên ta nói nhất thừa.

            Khi  ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:

            Khéo biết hai vô ngă 

            Hai chướng phiền năo đoạn

            Hằng ĺa hai thứ tử    

            Ấy gọi tri giác Phật.

            Tam thừa đồng một tánh tri giác mà chẳng đồng tri giác. Bởi tri giác sai biệt nên chỗ chứng cũng sai biệt. Như Lai là như tánh kia mà giác nên không có giác khác, như tánh kia mà biết nên không có biết khác. Như tánh kia mà giác th́ không có bất giác. Không có giác khác th́ không vọng giác. Không bất giác không vọng giác, ấy gọi là chân như tự tánh thanh tịnh không che đậy. Giác có người, giác có pháp, đều do bất giác tự tánh mà khởi vọng giác. Giác có tự tha, ấy là nhân tướng. Giác có tự tánh tha tánh, ấy là pháp tướng. Như tánh kia mà giác không có giác khác th́, nhân ngă pháp ngă liền đó tan biến. Hai chướng là, hoặc chướng và trí chướng. Hoặc là kiến hoặc và tư hoặc. Trí là, sở tri. Khi hai hoặc không mà trí năng không và lư sở không mảy may chưa sạch th́ chướng này chưa quên. Đến Thập nhất địa vẫn có hai phần sở tri ngu rất vi tế, như cách tấm lụa mỏûng, chỉ Phật mới hay xong. Tóm lại, như tánh kia mà giác không có giác khác th́ một lúc chóng xong.

            Hai thứ tử là, phàm phu phần đoạn sanh tử (chết từng phần), nhị thừa biến dịch sanh tử (chết theo dời đổi). Biến dịch là, nhân dời quả đổi, ĺa phần đoạn sanh tử trong tam giới, vẫn c̣n cơi phương tiện v.v... biến dịch sanh tử. Tứ trụ phiền năo cảm phần đoạn sanh tử, vô minh phiền năo cảm biến dịch sanh tử. Hai thứ tử này đă ĺa th́ hai thứ phiền năo cũng đoạn.

            Tứ  trụ  hoặc  là, kiến  hoặc  trong tam  giới  là một trụ. Tất cả kiến hoặc trụ địa, tức là kiến hoặc phân biệt trong tam giới. Do ư căn đối với pháp trần khởi phân biệt, dấy các tà kiến trụ trước tam giới. Tư hoặc trong tam giới phân làm ba trụ. 1) Dục ái trụ địa hoặc, do năm căn đối cảnh năm trần khởi tâm tham ái, mà trụ trước nơi dục giới. 2) Sắc ái trụ địa hoặc, tức là tư hoặc trong sắc giới. Do chẳng rơ hoặc này nên trụ trước thiền định sắc giới không thể bỏ ĺa. 3) Hữu ái trụ địa hoặc, tức là tư hoặc vô sắc giới. Do chẳng rơ hoặc này nên trụ trước thiền định vô sắc giới không thể bỏ ĺa.

            Vô minh phiền năo là, chỉ căn bản vô minh. Nghĩa là mê Như Lai tạng bất giác phát nghiệp. Phiền năo này nhị thừa không biết. Chính Đại thừa Bồ-tát đoạn hoặc chưa hết, vẫn ở nơi cơi Thật báo, chỉ Phật mới xong. Nhưng, như tánh kia mà giác không có giác khác, th́ một lúc chóng xong. Cho nên nói “Thanh văn, Duyên giác được pháp này cũng gọi là Phật. Do nhân duyên ấy ta nói nhất thừa”. Thế nên biết, nhất thừa tức là tánh tri giác. Tánh của tri giác th́ không khác, mà tri giác của tánh th́ chẳng đồng. Do cái chẳng đồng này nên chỗ chứng có khác. Hàng nhị thừa không giác tự tánh, vọng có sở giác, ấy là khác. Song vọng giác vốn dối, chân tánh thường trụ. Giác cái vọng tức là chân, biết chân th́ vọng diệt, cũng cứu kính không hai.

            - CHỈ NHƯ LAI TỰ, NGỮ, THÂN, PHÁP BỐN THỨ ĐỒNG.

            Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Cớ sao Thế Tôn ở trong đại chúng xướng lời thế này: “Ta là tất cả Phật thời quá khứ và các thứ thọ sanh. Ta khi ấy làm Chuyển luân thánh vương Mạn-đà, voi lớn sáu ngà và chim anh vơ, Thích Đề Hoàn Nhân (Trời Đế Thích), tiên nhân Thiện Nhăn v.v... kinh nói trăm ngàn đời như thế”.

            Đây là nghi thủy giác bản giác đă có sai thù th́ pháp, báo, hóa thân đâu không đồng khác, nên có lời hỏi này. Chẳng biết do bản giác có thủy giác, thủy như bản kia. Pháp thân sanh báo thân hóa thân, báo hóa như pháp thân. Chỉ một đạo b́nh đẳng trước sau không hai. Hoa Nghiêm luận nói: “Vô biên cơi nước, tự tha chẳng cách mảy lông, mười đời xưa nay trước sau chẳng ĺa niệm hiện tại”. Người được tự giác thánh trí tự nhiên chẳng nghi xưa chẳng nghi nay, chẳng nghi người chẳng nghi ta, chẳng nghi nhân chẳng nghi quả, chẳng nghi căn thân chẳng nghi khí giới, chẳng nghi hữu t́nh chẳng nghi vô t́nh, chẳng nghi một chẳng nghi khác, chẳng nghi hiện thành chẳng nghi tác khởi, tất cả chẳng nghi nên mới chứng biết.

            Phật bảo Đại Huệ: Do tứ đẳng nên Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác ở trong đại chúng xướng lời thế này: “Ta khi ấy làm Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm Mâu-ni, Ca-diếp”. Thế nào là tứ đẳng? Nghĩa là tự đồng, ngữ đồng, pháp đồng, thân đồng, ấy gọi là tứ đẳng. Do bốn  thứ  đồng nên Như  Lai  ứng cúng  đẳng chánh giác ở trong chúng xướng nói như thế.

            Do tứ đẳng nên Như Lai ở trong đại chúng xướng nói Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta. Đây là Như Lai đáp và lẫn hiển cả quyền và thật. Người chứng tự giác thánh trí tự biết tự chứng không thể nói bày. Quyền để chỉ bày nên nói quyền, cũng có thể tức nơi đây thầm hội nên nói thật. Đó là nói lẫn hiển quyền thật vậy.

            Thế nào là tự đẳng? Hoặc chữ xưng ta là Phật, chữ kia cũng xưng tất cả Phật, chữ ấy tự tánh không có sai biệt, ấy gọi là tự đẳng.

Thế nào là ngữ đẳng? Nghĩa là ta có sáu mươi bốn thứ phạn âm nên tướng ngôn ngữ sanh. Chư Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác kia cũng có sáu mươi bốn  thứ phạn âm nên tướng ngôn ngữ sanh như thế, không thêm không bớt, không có sai biệt, tánh tiếng phạn âm như Ca-lăng-tần-già.

            Tự đẳng là, tự là danh tự. Ba đời Như Lai đều tên là Phật. Tự tánh chữ là chữ Phật để hiển bày nghĩa tự tánh giác, cũng không có sai biệt.

Ngữ đẳng là, cổ chú rằng: Tiếng Tây Vức có tám chuyển: 1) Thể, 2) Nghiệp, 3) Cụ, 4) Vi, 5) Tùng, 6) Thuộc, 7) Ư, 8) Hô. Như Lai nơi tám chuyển này mỗi cái đủ tám đức: 1) Điều ḥa, 2) Nhu nhuyến, 3) Rơ chắc thật, 4) Dễ hiểu, 5) Không lầm lẫn, 6) Không tiếng giọng mái nhỏ, 7) Tiếng to lớn, 8) Tiếng sâu xa. Tám lần tám là sáu mươi bốn tướng. Song trong kinh Bất Tư Ngh́ Bí Mật Đại thừa cũng nói: “Phật bảo Bồ-tát Tịch Huệ: Như Lai chẳng phải nơi môi, răng, lưỡi, cổ họng và nơi cửa mặt mà phát ra các âm thanh. Nên biết âm thanh của Như Lai từ hư không mà ra, đầy đủ sáu mươi bốn tướng thù diệu: 1) Trôi chảy, 2) Nhu nhuyến, 3) Vui ḷng, 4) Đáng mến, 5) Thanh tịnh, 6) Ĺa cấu, 7) Trong sáng, 8) Ngọt ngào, 9) Ưa nghe, 10) Không kém, 11) Tṛn đủ, 12) Điều thuận, 13) Không rít, 14) Không ác, 15) Mềm dịu, 16) Vừa tai, 17) Thích thân, 18) Tâm sanh bén mạnh, 19) Tâm mừng, 20) Vui thích, 21) Không nhiệt năo, 22) Như giáo lịnh, 23) Khéo hiểu biết, 24) Rành rơ, 25) Khéo mến, 26) Khiến sanh vui mừng, 27) Khiến người như lời dạy vâng làm, 28) Khiến người khéo hiểu biết, 29) Đúng lư, 30) Lợi ích, 31) Ĺa lỗi trùng lập, 32) Như tiếng sư tử, 33) Như tiếng rồng, 34) Như tiếng sấm sét, 35) Như Long vương, 36) Như tiếng ca hay của Khẩn-na-la, 37) Như tiếng chim Ca-lăng-tần-già, 38) Như Phạm vương, 39) Như tiếng chim Cộng Mạng, 40) Như tiếng hay đẹp của Đế Thích, 41) Như đánh trống, 42) Chẳng cao, 43) Chẳng thấp, 44) Tùy vào, 45) Không khuyết giảm, 46) Không phá hoại, 47) Không ô nhiễm, 48) Không mong cầu, 49) Đầy đủ, 50) Trang nghiêm, 51) Hiển bày, 52) Viên măn tất cả âm, 53) Các căn thích vui, 54) Không chê bai, 55) Không khinh chuyển, 56) Không dao động, 57) Tùy vào tất cả chúng hội, 58) Các tướng đầy đủ, 59) Khiến chúng sanh tâm ư vui mừng, 60) Nói tâm hạnh chúng sanh, 61) Vào tâm ư chúng sanh, 62) Tùy chúng sanh tin hiểu, 63) Người nghe không phần lượng, 64) Chúng sanh không thể suy nghĩ xứng lượng”. Hiệp với chỗ này để tham quán th́ tột âm thanh vi diệu thù đặc. Cho nên ba đời Như Lai ngữ đồng. Ca-lăng-tần-già là tên chim, tiếng nó hơn tiếng các thứ chim, dùng nó để làm thí dụ.

            Thế nào là thân đẳng? Nghĩa là ta cùng pháp thân và sắc thân tướng tốt của chư Phật không sai biệt. Trừ v́ điều phục chúng sanh sai biệt ở các thú kia nên thị hiện các thứ sắc thân sai biệt, ấy gọi là thân đẳng.

            Thế nào là pháp đẳng? Nghĩa là ta cùng chư Phật kia được pháp ba mươi bảy phần bồ-đề, trí lược nói Phật pháp không có chướng ngại, ấy gọi là tứ đẳng. Thế nên Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác ở trong đại chúng xướng lời như thế.

            Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:

            Ca-diếp, Câu-lưu-tôn                  

            Câu-na-hàm là ta

            Do bốn thứ b́nh đẳng                 

            Ta v́ phật tử nói.

            Pháp thân Như Lai có hai thứ: 1) Lư pháp, nghĩa là tánh tịnh thể sáng xưa nay ĺa niệm đồng với hư không giới, không đâu chẳng khắp chúng sanh cùng Phật đều đồng. 2) Trí pháp, nghĩa là trí thủy giác cứu kính, khế hợp với lư bản giác thanh tịnh, lư trí dung nhau, sắc và tâm không  hai. Do trí hiện ra nên gọi là  trí  pháp.

            Sắc thân tức là báo thân, cũng có hai thứ: 1) Tự thọ dụng thân cũng gọi là viên măn báo thân. Nghĩa là tự ḿnh tu nhân mà cảm được, xứng tánh thọ dụng các thứ pháp lạc, tự tại không ngại. Thân và cơi chẳng ĺa nhau nên cũng gọi là tự thọ dụng độ, cũng gọi là thật báo trang nghiêm độ. Chư Phật trải qua vô số kiếp tu tập vô lượng thiện căn mà cảm nên, khắp giáp cả pháp giới là tự thọ dụng. Các vị đại Bồ-tát chỉ được nghe tên mà không thể thấy được. 2) Tha thọ dụng thân, nghĩa là do căn cơ kẻ khác cảm nên mà thấy. Chư Phật v́ khiến chúng Bồ-tát thọ đại pháp lạc, tiến tu thắng hạnh nên tùy nghi mà hiện, cơi cũng như thế, khiến  họ thọ dụng. Các thứ sai biệt sắc thân tức là hóa thân, cũng có ba thứ: 1) Đại hóa nghĩa là Lô-xá-na ngàn trượng gia bị cho phù hợp với Đại thừa Bồ-tát. Hoặc hiện tám mươi bốn ngàn tướng tốt, hoặc hiện vi trần số tướng tốt, đầy khắp hư không. 2) Tiểu hóa, nghĩa là thân vàng trượng sáu, ba mươi hai tướng tốt, phù hợp căn cơ tiểu thừa, người, trời v.v... 3) Tùy loại hóa, nghĩa là như Chuyển luân thánh vương Đảnh Sanh, Thích Đề Hoàn Thiên Đế, Thiện Nhăn, voi lớn, anh vơ, vượn nai v.v... tùy loại mà vào. Báo Hoá thân này đều nhiếp thuộc sắc thân, từ trí pháp mà được. Nếu mê lư pháp tức là vọng giác, theo nhân duyên vọng giác mà có mười hai loại thân trong tam giới. Ngộ lư pháp th́ chuyển vọng giác làm thủy giác. Do thủy hợp bản thành căn bản trí. Do sức căn bản vô tác trí cảm phát bi nguyện, tất cả báo thân, hóa thân lần lượt thành tựu. Đây là ba đời chư Phật không có hai, không có khác. Ba mươi bảy pháp bồ-đề phần là, tứ niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp), tứ chánh cần (đă sanh điều ác khiến hằng dứt, chưa sanh ác khiến chẳng sanh, chưa sanh thiện khiến sanh, đă sanh thiện khiến tăng trưởng), tứ như ư túc (dục như ư túc, tinh tấn như ư túc, niệm như ư túc, tư duy như ư túc), ngũ căn (tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn), ngũ lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực), thất giác chi (trạch giác, tinh tấn giác, hỷ giác, trừ giác, xả giác, định giác, niệm giác), bát chánh đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định). Cộng lại thành ba mươi bảy phẩm. Đây là ba mươi bảy pháp trợ bồ đề của Đại thừa, nhiếp vô lượng a-tăng-kỳ pháp trợ bồ-đề, nó là liễu nhân không phải tác nhân. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Đại Niết-bàn không phải từ tác nhân mà có, chỉ từ liễu nhân”. Liễu nhân là nói ba mươi bảy pháp trợ đạo. Ba đời chư Phật dùng liễu nhân này thành tựu đệ nhất nghĩa tự giác thánh thú, tự độ và giáo tha, b́nh đẳng không sai biệt. Hiệp bốn thứ b́nh đẳng này cho nên Như Lai ở trong đại chúng xướng lời rằng “Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta”. Ư chỉ bí mật ngơ hầu nhờ đây thầm hội. Bỏ qua chỗ này về sau không thể nói bày, chỉ chứng tương ưng. Đâu phải chỗ trọn suy nghĩ tính toán mà hay lường được.

            - CHỈ PHẬT GIÁC TỰ CHỨNG, KHÔNG THỂ NÓI BÀY.

            Đại Huệ lại bạch Phật: Như Thế Tôn đă nói “Ta từ đêm ấy được tối chánh giác, cho đến đêm ấy vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa kia cho đến không nói một chữ, cũng chẳng đă nói sẽ nói, chẳng nói ấy là Phật nói”. Thế Tôn! Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác nhân đâu nói rằng “Chẳng nói ấy là Phật nói”. Phật bảo Đại Huệ: Ta nhân hai pháp nên nói như thế. Thế nào là hai pháp? Nghĩa là duyên pháp tự đắc và pháp bổn trụ, ấy gọi là hai pháp. Nhân hai pháp này nên ta nói như thế.

            Như Lai từ khi thành Phật cho đến nhập Niết-bàn, ở trong khoảng giữa đó không nói một chữ là, chỉ cho người ĺa năng thuyết và sở thuyết được đệ nhất nghĩa tự giác thánh thú. Trước nói tứ đẳng, ở đây nói bất thuyết. Tứ đẳng vẫn là lời nói xứng tánh chẳng phải cảnh giới tự chứng. Đến chỗ tự chứng mới biết lời nói không thể hiển bày nên nói “chẳng nói”. Duyên tự được tức chỉ cho trí pháp. Bổn trụ là lư pháp. Về lư pháp th́ có Phật hay không Phật, pháp tánh cũng như vậy. Trí pháp th́ ngàn Phật muôn Phật cũng đồng một trí chứng, đều không phải cảnh giới ngôn thuyết vọng tưởng giác.

            Thế nào là pháp duyên tự đắc? Nếu chỗ được của Như Lai kia th́ ta cũng được như thế, không thêm không bớt. Cảnh giới duyên tự đắc pháp cứu kính ĺa ngôn thuyết vọng tưởng, ĺa văn tự hai đường.

            Không thêm không bớt cảnh giới cứu kính là, chứng căn bản trí này như tánh kia vậy, không thể thêm bớt. Chỗ sở hành cứu kính thánh lạc ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng phân biệt, ĺa năng thuyên và sở thuyên, tất cả tướng cảnh giới. Văn tự hai đường là hay nói và bị nói.

            Thế nào là pháp bổn trụ? Nghĩa là đạo bậc thánh trước như tánh vàng bạc v.v... pháp giới thường trụ. Hoặc Như Lai ra đời, hoặc chẳng ra đời pháp giới thường trụ, như đường đến thành kia. Thí như có người đi trong đồng vắng thấy con đường bằng phẳng đi đến cổ thành, liền theo đó vào thành được cái vui như ư. Đại Huệ! Ư ông nghĩ sao? Người kia làm ra con đường ấy và làm ra các thứ vui trong thành chăng? Đáp: “Chẳng phải vậy”. Phật bảo Đại Huệ: Ta và tất cả chư Phật thời quá khứ pháp giới thường trụ cũng lại như thế. Thế nên nói rằng: “Ta từ đêm ấy được tối chánh giác, cho đến đêm ấy vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa kia không nói một chữ, cũng chẳng đă nói, sẽ nói”.

            Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:

            Ta đêm ấy thành đạo   

            Đến đêm ấy Niết-bàn

            Ở trong khoảng giữa này        

            Ta trọn không có nói

            Duyên tự đắc pháp, trụ           

            Nên ta nói thế ấy

            Phật kia cùng với ta                 

            Thảy không có sai biệt. 

            Lư pháp bổn trụ đồng với pháp giới. Như vàng bạc v.v... tuy c̣n ở trong mỏ mà tánh vàng chẳng đổi. Như đường về cổ thành và các thứ vui, chẳng phải do ngày nay tạo. Cho nên biết tự tánh bản giác thánh phàm đồng đủ. Y bất giác mà thành tam giới, y trí pháp th́ tṛn đủ ba thân, chẳng phải có chẳng phải không, như huyễn như sóng nắng, chỉ người chứng mới tương ưng. Ba đời chư Phật đồng cái bí mật này, trọn không có chỗ nói.

            - CHỈ CẢNH GIỚI PHẬT GIÁC XA L̀A HAI BÊN. 

            + CHỈ THẾ GIAN CHẤP CÓ KHÔNG.

            Bồ-tát Đại Huệ lại thỉnh Phật: Cúi xin v́ nói tất cả pháp tướng có và không có, khiến con và các vị đại Bồ-tát, ĺa tướng có và không có, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ v́ ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Thế gian này y có hai  thứ, nghĩa là y có và y không, rơi  vào tánh (có) và phi tánh (không), muốn thấy chẳng ĺa, ĺa tướng.

            Hai thứ chấp có không này đều chỉ chánh pháp rơi vào kiến chấp của ngoại đạo. Song nghiêng nặng bên chấp không, nghĩa là nương ghé bên thánh giáo để phá hoại chánh pháp, đâu có ǵ hơn chấp này. Phật lần lượt phát minh để soi sáng cho đời sau, khiến người tu hành biết pháp để chọn lựa. Y có là, nhân pháp sắc, tâm v.v... hiện có trước mắt, chấp các pháp có tự tánh (có thật), khởi tưởng xa ĺa. Y không là, nhân pháp sắc, tâm v.v... vô thường biến diệt, chấp các pháp phi tánh (không có), khởi tưởng vắng lặng. Đây đều chẳng ĺa, ĺa tướng.

            + CHỈ RA NHÂN TƯỚNG HAI THỨ CHẤP CÓ KHÔNG.

            Đại Huệ! Thế nào thế gian y có? Nghĩa là thế gian có nhân duyên sanh, chẳng phải chẳng có, từ có mà sanh chẳng phải không có mà sanh. Đại Huệ! Kia nói như thế, là nói thế gian không nhân. Đại Huệ! Thế nào thế gian y không? Nghĩa là nhận tham, sân, si đă có, về sau vọng tưởng chấp trước tham, sân, si tánh (có), phi tánh (chẳng có). Đại Huệ! Nếu chẳng nhận có tánh ấy, v́ tánh tướng vắng lặng. Bảo là chư Như Lai, Thanh văn, Duyên giác chẳng nhận tánh tham, sân, si là có hay là không.

            Các pháp thế gian từ nhân duyên sanh, bèn có chỗ giải ĺa uẩn, riêng có kẻ hiểu bỏ vọng cầu chân. Đây do chẳng biết tự tâm hiện ra, vọng thấy nhân duyên liền cho là vô nhân. Đây chấp có ấy, nhân lời thánh nói vọng chấp thật pháp. Trọn không bằng cái hại lớn là chấp không. Như Lai nói tham sân si không tánh (có) ấy, do tâm tham, sân, si đều nhân nơi bất giác, ban đầu không có tánh nhất định. Chính v́ chỉ bày cho người liền đó rỗng rang mê vọng chóng dứt, là lư do chẳng nhận có không. Ngoại đạo kia nhận tham, sân, si tánh (có), trong hiện tại có, về sau vọng tưởng chấp trước tham, sân, si tánh (có) vốn chẳng phải có tánh (có). Xét vọng chấp kia cho là không có tánh (có) luống thấy tánh tướng vắng lặng, bèn gá vào thánh giáo, bảo là chư Như Lai, Thanh văn, Duyên giác chẳng nhận có không. Không biết rằng tất cả tánh tướng gốc tuy vắng lặng, song tâm nhận có hiện tại lưu chuyển. Đây là vọng tưởng chấp, chẳng phải tự giác trí. Tự giác trí là, giác cảnh giới hiện ra, do mê tự tâm vọng có hiện ra, vọng hiện chẳng phải có, nhân mê mà có. Giác mê th́ mê diệt, giác chẳng sanh mê. Tâm cảnh trong ngoài một lúc thanh tịnh. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tự tâm thủ tự tâm, chẳng phải huyễn thành pháp huyễn, chẳng thủ không phi huyễn, phi huyễn c̣n chẳng sanh, pháp huyễn từ đâu lập”. Đây là hiển bày chỉ thú bí mật, ba đời Như Lai đồng một tâm yếu. Ngàn đời ghi chép nêu cao, chính khiến người tự phụ tâm tông (Thiền tông) vọng bàn vô ngại, sao không nhận lấy chỗ này nghiền ngẫm kỹ lưỡng sẽ sanh rất hổ thẹn.

            + BÀI XÍCH CHẤP KHÔNG HAY PHÁ HOẠI CHÁNH PHÁP.

            Đại Huệ! Trong đây những ǵ là hoại? Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu kia nhận tham sân si tánh (có) rồi sau lại không nhận. Phật bảo Đại Huệ: Ông hiểu như thế, lành thay, lành thay! Đại Huệ! Chẳng những tham sân si tánh (có), phi tánh (không) là hoại, mà đối với Thanh văn, Duyên giác và Phật cũng là hoại. V́ cớ sao? V́ trong ngoài không thể được, v́  phiền năo tánh khác và chẳng khác. Đại Huệ! Tham sân si hoặc trong hoặc ngoài không thể được, tham sân si tánh v́ không thân, v́ không thủ. Chẳng phải Phật, Thanh văn, Duyên giác là hoại, Phật, Thanh văn, Duyên giác v́ tự tánh giải thoát, v́ phược cùng nhân phược phi tánh (không có). Đại Huệ! Nếu có người phược th́ nên có phược là nhân phược. Đại Huệ! Như thế nói hoại ấy gọi là không có tướng.

            Lại bày rơ về chấp không. Tự gá vào chánh pháp, nghĩa là Như Lai cũng nói tham sân si tánh  là không thể được, khiến chúng sanh vô trí nghi chê chánh pháp cho đó là hoại. Đâu biết tham sân si trong ngoài không thể được, bởi tham sân si vốn không tự tánh, nhân mê vọng hiện. Cho nên nói “không thân”. Giác mê th́ mê diệt, giác chẳng sanh mê, ấy là không thủ. Chẳng phải Như Lai, Thanh văn, Duyên giác đồng với thuyết hoại kia. Như Lai thấy rơ tự tánh nên vọng tưởng chẳng sanh, đă không tâm năng phược cũng không cảnh sở phược, năng sở đều dẹp mới là giải thoát. Nếu có cảnh sở phược, ắt có tâm năng phược, nên nói “nhân phược”. Nhân phược chưa đoạn mà vọng chấp là không. Nói là hoại, tức đây chấp không có tướng vậy.

            Đại Huệ! V́ nhân đó nên ta nói thà chấp nhân kiến bằng núi Tu-di, chẳng khởi chấp không thật có tăng thượng mạn không. Đại Huệ! Không thật có tăng thượng mạn, ấy gọi là hoại, rơi vào kiến chấp tự tướng cộng tướng mong mỏi, chẳng biết tự tâm hiện lượng. Thấy ngoại tánh vô thường sát-na lần lượt hoại, ấm giới nhập tương tục lưu chú biến diệt, ĺa tướng văn tự vọng tưởng, ấy gọi là hoại.

            Nhân kiến là chấp có. Thà chấp ấy, nghĩa là người kia mắc kẹt ở trời người; chẳng bằng chấp không mà diệt mất nhân quả, lừa dối chánh pháp, lưu độc vô cùng. Rơi vào tự tướng cộng tướng mong mỏi là, tất cả sắc tâm các pháp đă có tự tướng cộng tướng cảnh giới vọng tưởng, hiện rơi trong ấy khởi tưởng ưa thích, chẳng ĺa nhân phược. Nên nói: Chẳng đạt tâm lượng luống thấy ngoại pháp vô thường, ấm giới biến diệt cho là không, không thật có, mà không biết kia chuốc ương họa mênh mông. Ĺa văn tự tướng vọng tưởng ấy, bởi v́ giác tự tâm hiện lượng th́ đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, đây là ĺa tướng văn tự. Bởi kia tự đạt thẳng nguồn tâm. Kẻ chẳng biết tự tâm hiện lượng mượn miệng nói xa ĺa văn tự vẫn trái lời dạy của thánh, buông lung hoang đường. Đây chính là phá hoại hồ tâm chạy theo vọng tưởng, vừa là hoại ḿnh, hoại người, diệt chủng tộc Phật.

            + TỔNG TỤNG.

            Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:

            Có không là hai bên              

            Cho đến cảnh giới tâm

            Trừ sạch cảnh giới kia          

            Tâm b́nh đẳng tịch diệt.

            Không thủ cảnh giới tánh     

            Diệt chẳng phải không có

            Có việc thảy như như

            Như cảnh giới hiền thánh.

            Không chủng mà có sanh     

            Sanh rồi mà lại diệt

            Nhân duyên có chẳng có      

            Chẳng trụ giáo pháp ta.

            Phi ngoại đạo phi Phật         

            Phi ngă cũng phi khác

            Nhân duyên chung họp khởi 

            Làm sao mà được không?

            Ǵ họp nhân duyên có           

            Mà lại nói rằng không?

            Tà kiến luận sanh pháp          

            Vọng tưởng chấp có không.

            Nếu biết không chỗ sanh      

            Cũng lại không chỗ diệt

            Quán đây thảy không tịch     

            Có không hai đều ĺa.

            Ĺa hai bên có không, giác tự tâm lượng, b́nh đẳng tịch diệt, không chấp cảnh giới chính là chân như bản hữu, là sở hành của thánh hiền, chẳng phải diệt không c̣n ǵ cả. Hai bài kệ trên đây nói tâm b́nh đẳng xa ĺa cảnh giới có không. Một bài kệ dưới nói không chủng mà sanh là chấp có, sanh rồi lại diệt là chấp không. Bởi nhân duyên có không này đồng với ngoại đạo. Nghĩa là chẳng phải giáo pháp của Như Lai. Ba bài kệ dưới rốt nói nhân duyên họp sanh. Nghĩa là y Pháp tánh th́ không Phật, không chúng sanh, không ngoại đạo, không nhân ngă. Do nhân duyên họp khởi mới có sai biệt. Kinh Pháp Hoa nói: “Lưỡng Túc Tôn vô thượng, biết pháp thường không tánh, Phật chủng từ duyên khởi”. Vẫn có tập nhân mà lại nói không tức là rơi vào ngoại đạo tà kiến. Đây là do không biết lưu chú sanh nhân nên vọng chấp có không. Nếu biết tâm vốn không sanh, nhân mê dường như có, ngộ vốn không sanh th́ cũng không diệt, xưa nay là không tịch, tánh tướng nhất như chẳng chấp tánh sanh, có không đều  là hư luận.

 


[mucluc][p1][p2][p3][p4][c1]

[c2A][c2A1][c2A2][c2B][c2C][c2D][c2E][c2F][c2G][c2H]

[Trang chu] [Kinh sach]