[Trang chu] [Kinh sach]

LĂNG GIÀ TÂM ẤN

[mucluc][p1][p2][p3][p4][c1]

[c2A][c2A1][c2A2][c2B][c2C][c2D][c2E][c2F][c2G][c2H]


II - PHẦN CHÁNH TÔNG.

        A-Chỉ thẳng pháp môn đệ nhất nghĩa rộng lớn vi diệu ĺa nói bặt chứng.

         1 - ĐÁP CHỈ THẲNG PHI  CÚ.

          a -Lặp lại:

          Bậc Vô Thượng Thế Gian Giải (Phật) nghe Bồ-tát Đại Huệ nói kệ hỏi, Đại thừa các độ môn, chư Phật tâm là bậc nhất, liền khen: Lành thay, lành thay! Đại Huệ khéo lắng nghe, nay ta sẽ thứ lớp như lời ông đă hỏi mà đáp.

          Tựa kinh dùng một trăm lẻ tám câu hỏi là Đại thừa độ môn, là Phật tâm bậc nhất, nghĩa là cảnh giới tự giác của chư  Phật chẳng ngoài tự tâm hiện ra. Thế gian và xuất thế tất cả các pháp mê là danh tướng, ngộ th́ như như. Cho nên chỗ hỏi đă đầy đủ ư đáp, do thấy cơ cảm cấu hợp, không c̣n có ư chỉ khác. Từ đây về sau lặp lại lời hỏi, nhiên hậu mới hiển bày kiến lập. Chỉ có lời lặp lại lược có đổi thay để thầm bày mật chỉ, không thể chẳng xét kỹ.

          Sanh và cùng chẳng sanh, Niết-bàn, không sát-na, tiến đến không tự tánh.

          Đây là đổi lời hỏi, trước lấy hai pháp sanh cùng chẳng sanh, gồm hết ư hỏi, bèn kèm thêm rằng cứu kính không có tự tánh, chính đă thầm bày mật chỉ vậy. Niết-bàn thuộc nghĩa chẳng sanh; sát-na là nói thức lưu chú vi tế, thuộc nghĩa sanh. Mà nói “không sát-na” chính chỉ thức này niệm niệm chẳng dừng tiếp nối dường như sanh mà chẳng phải thật có sanh. Chẳng sanh là đối sanh mà nói. Nếu không có nghĩa sanh th́ chẳng sanh không do đâu hiển bày. Cho nên Niết-bàn sát-na xét tột không tự tánh. Văn sau lặp lại lời hỏi, mỗi đoạn có chỗ hỏi, trước sau lẫn lộn. Hoặc lặp lại hoặc lược bớt, không có nhất  định.

          Phật, các ba-la-mật, phật tử cùng Thanh văn, Duyên giác các ngoại đạo và cùng hành Vô sắc, các việc như thế.

          Đoạn này hỏi thế nào tên vô thọ, mấy tâm ba-la-mật, cớ sao gọi phật tử, thế nào có ba thừa, thế nào đồng ngoại đạo, thế nào định Vô sắc.

          Tu-di, bể cả, núi lớn, châu, đảo, cơi nước, quả đất. Tinh tú và nhật nguyệt, ngoại đạo, trời, A-tu-la; giải thoát, tự tại thông, lực, thiền, tam-ma-đề và định, như ư túc, giác chi và đạo phẩm.

          Hai câu Tu-di… là hỏi Tu-di và Liên Hoa Tạng, thuộc về danh tướng tất cả cơi nước. Hai câu tinh tú… là ba câu hỏi chư Thiên có mấy thứ. Bốn câu giải thoát… là hỏi nhân ǵ được thần thông và tự tại tam-muội, nhân ǵ nói giác chi và bồ-đề phần. Lực là ngũ lực. Tam-ma-đề là tam-muội. Như ư túc là tứ như ư túc. Giác chi là thất giác chi. Đạo phẩm là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

          Các thiền định vô lượng, các ấm thân qua lại, chánh thọ và diệt tận định, tam-muội khởi tâm mà nói. Tâm ư và các thức, vô ngă, pháp có năm, tự tánh năng tưởng và sở tưởng, cùng hiện hai thứ kiến.

          Ấm thân qua lại là hỏi chúng sanh trong các cơi. Các thiền, diệt tận và tam-muội khởi là hỏi thế nào Vô sắc định cả thảy bốn câu. Tâm ư bốn câu, gồm hỏi năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngă. Trong đoạn hỏi tuy không có câu năm pháp, ba tự tánh, song liệt bày chúng sanh thế gian, khí thế gian đều là danh, tướng và vọng tưởng trong năm pháp. Tất cả các thiền giải thoát thuộc về chánh trí, như như. Lại câu duyên khởi ly tưởng chân thật tức là ba tự tánh. Nói ư th́ đủ mà lời lẫn lộn.

          Thừa và các chủng tánh, vàng bạc ma-ni v.v… nhất-xiển-đề và đại chủng, hoang loạn và nhất Phật, trí, sở tri, đắc hướng, có hay không có.

          Thừa và các chủng tánh là lặp lại câu hỏi chủng tánh Tam thừa. Vàng bạc ma-ni v.v… là hỏi cái ǵ sanh các tánh báu. Nhất-xiển-đề là hỏi thế nào là nhất-xiển-đề, kèm nói đại chủng do ngoại đạo chấp đại chủng là sanh nhân. Hoang loạn tức là quốc độ loạn. Nhất Phật là hỏi Phật Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta. Trí, sở tri là hỏi thế nào sở tri tịnh. Đắc hướng là hỏi người tu hành giải thoát. Chúng sanh có hay không có, là hỏi về đoạn kiến và thường kiến.

          Voi ngựa và các cầm thú, làm sao mà bắt lấy, v́  sao thí dụ thành tất-đàn, cùng với năng tác sở tác.

          Hai câu voi ngựa là hỏi thế nào là voi ngựa nai, làm sao mà bắt lấy. V́ sao thí dụ thành tất-đàn là hỏi tất-đàn cùng với kiến. Nghĩa là Như Lai nói pháp chẳng phải ngôn ngữ đến được, phần nhiều dùng thí dụ để thông hiểu. Chỗ thí dụ mà được ngộ tức là tương ưng, bèn thành cơ cảm, nên nói là kiến. Năng tác và sở tác là hỏi thế nào năng tác sở tác.

          Tùng lâm mê hoặc và thông, tâm lượng chẳng hiện hữu, các địa không đến nhau, trăm biến dịch trăm vô thọ, luận y phương, công xảo, kỹ thuật các minh xứ, các núi, Tu-di, quả đất, biển cả lượng nhật nguyệt, chúng sanh bậc thượng, trung, hạ thân mỗi người có bao nhiêu vi trần.

          Tùng lâm là đến chỗ thấy lúc ấy, đại khái dụ các pháp ở trước mắt. Mê hoặc là chỉ chỗ nhật dụng của bách tánh. Đây là gồm cả hữu t́nh vô t́nh đồng ở trong nhất chân pháp giới, mà nơi tâm lượng không có chỗ hiển bày. Hai câu này trong phần hỏi th́ không, song v́ kèm hai câu dưới nên phải lấy phàm để lệ thánh. Các địa không đến nhau, trong câu hỏi là nhân ǵ qua các địa. Trăm biến dịch, trăm vô thọ,ï trong câu hỏi là thế nào trăm biến dịch, thế nào trăm vô thọ. Nếu hay giác tự tâm lượng th́ mỗi địa vốn không đến nhau, hành bố, viên dung đều không có pháp thật. Nên nói trăm biến dịch trăm vô thọ vẫn là chừng hạn của tâm lượng c̣n chưa tột t́nh mê. Hai câu y phương… là hỏi minh xứ và kỹ thuật. Các núi tu-di quả đất cho đến bao nhiêu lỗ chân lông, lông mày là chỗ hỏi của Đại Huệ không đến. Thế Tôn suy ra mà nêu lên. Lượng là số đo lường. Thượng trung hạ là chỉ chung cho chúng sanh ở trong thập giới. Nghĩa là các chúng sanh hiệïp bao nhiêu vi trần thành một thân lượng.

            Mỗi sát có bao nhiêu vi trần, cung cung số có bao nhiêu, khuỷu tay, bước, câu-lô-xá (Krosa), nửa do-diên, do-diên (Yojana).

          Xét theo cựu chú sát là sát độ, đại thiên thế giới là một sát độ. Hai thước làm một khuỷu tay, bốn khuỷu tay làm một cung, năm trăm cung làm một câu-lô-xá, mười câu-lô-xá làm một do-diên. Do-diên tức là do-tuần.

          Thố hào, song trần, rệp (con mạt), dương mao, khoáng mạch trần, bát-tha bao khoáng mạch, a-la mấy khoáng mạch, độc-long na-khư-lê, lặc-xoa và cử-lợi, cho đến tần-bà-la, mỗi thứ ấy số bao nhiêu.

          Cổ chú rằng: bảy vi trần thành song trần, bảy song trần thành một thố mao đầu trần, bảy thố mao đầu trần thành một dương mao đầu trần, bảy dương mao đầu trần thành một ngưu mao đầu trần, bảy ngưu mao đầu trần thành một con rệp (con mạt), bảy con rệp thành con rận (chấy), bảy con rận thành một hạt cải, bảy hạt cải thành một hạt bắp. Khoáng tức là đại mạch. Bát-tha là một thăng. A-la là một đấu. Độc-long là một hộc. Na-khư-lê là mười hộc. Lặc-xoa là một vạn. Cử-lợi là một ức. Tần-bà-la là một triệu.

          Có mấy a-nâu (trần) gọi xa-lê-sa-bà (hạt cải), bao nhiêu xa-lê-sa-bà gọi là một lại-đề (hạt cỏ). Mấy lại-đề thành ma-xa (hạt đậu), mấy ma-xa thành đà-na (thù). Lại bao nhiêu đà-na-la thành một ca-lê-sa-na (lượng). Bao nhiêu ca-lê-sa-na làm thành một ba-la (cân). Những tướng tích tụ này bao nhiêu ba-la-di-lâu. Những thứ này là chỗ nên hỏi sao lại hỏi việc khác?

          Bản này dịch âm Phạn ngữ, bản đời Đường dịch thành tiếng Trung Hoa có thể đối chiếu rơ. Ba đoạn trước sau thảy đều nêu lên số bụi khó biết. Phần cổ chú trước y theo sự đo lường của Ấn Độ chưa có thể dùng theo Trung Hoa mà đồng nhất vậy.

          Thanh văn và Bích Chi Phật, Phật và hàng Bồ-tát, thân mỗi vị có bao nhiêu số, tại sao không hỏi chỗ này? Núi lửa mấy a-nâu (trần). Phong luân lại mấy a-nâu. Mỗi căn bao nhiêu a-nâu. Bao nhiêu lỗ chân lông và lông mày?

          Bậc thánh trong tam thừa chánh báo và y báo mỗi vị có lớn nhỏ, mà hỏi căn mỗi vị có bao nhiêu trần (vi trần), bao nhiêu lỗ chân lông và lông mày, suy ra đến núi lửa, phong luân tất cả cảnh giới tột cùng số lượng, nếu không phải bậc Nhất thiết trí ắt không thể biết hết được. Song cốt yếu trách Đại Huệ không hỏi, bởi v́ muốn tột chỗ không biết kia để hiển bày lư duy thức. Nghĩa là tất cả căn thân khí giới đều duy nội thức, in tuồng có hiện tiền, mà không phải do nhiều vật chứa nhóm. So đó th́ biết hành tướng tam thừa, các thiền tam-muội, sắc cùng vô sắc, ngoại đạo thiên tiên, tứ sanh tam đồ thảy đều duy thức biến, vốn không phải thật có, đây là ư của Phật vậy. Nếu dùng diệu trí của Phật quả th́ tất cả sai biệt, tự nhiên không phải là cảnh giới của các hàng Bồ-tát. Đọc văn trước văn sau trở lại nêu ư nói của Phật th́ mới nhận được chỉ thú của kinh này.

          Hộ tài vua Tự Tại, vua Chuyển luân thánh đế, thế nào vua thủ hộ? Thế nào là giải thoát? Nói rộng và nói hẹp, như chỗ ông đă hỏi, chúng sanh các thứ dục, cùng các thứ uống ăn.

          Từ đây về sau lại hỏi điều hỏi trước. Hộ tài vua Tự Tại ba câu là hỏi thế nào gọi là vua ba câu. Nói rộng nói hẹp là hỏi già-đà, trường, đoản cú. Chúng sanh các thứ dục hai câu, là hỏi thế nào sanh ăn uống hai câu.

          Thế nào là rừng nam nữ, núi Kim Cang kiên cố, thế nào như huyễn mộng thí dụ như nai đồng khát nước thấy ánh nắng. Thế nào núi, thiên, tiên, càn-thát-bà trang nghiêm, giải thoát đến chỗ nào, ai phược ai giải thoát, thế nào cảnh giới thiền, biến hóa và ngoại đạo, thế nào vô nhân tác, thế nào hữu nhân tác, hữu nhân vô nhân tác và phi hữu nhân phi vô nhân tác, thế nào hiện đă diệt, thế nào tịnh các giác, thế nào các giác chuyển, và chuyển các sở tác. Thế nào đoạn các tưởng, thế nào tam-muội khởi, phá tam hữu là ai, ở đâu và thân ǵ. Thế nào không chúng sanh mà nói có ta người. Thế nào nói thế tục, cúi mong rộng phân biệt. Tướng đă hỏi thế nào và chỗ hỏi phi ngă. Thế nào là thai tạng và các thứ  thân khác.

          Thế nào rừng nam nữ… sáu câu là hỏi nhân đâu rừng nam nữ… sáu câu. Trong ấy kèm thế nào như huyễn mộng thí dụ như nai đồng khát nước thấy ánh nắng, là chính khi thấy cây rừng hiện tiền đều là bóng của thức tâm hiện, như huyễn mộng không thể có, như nai đồng thấy ánh nắng chạy đi t́m bởi do khát nước làm mê hoặc. Biến hóa và ngoại đạo, là hỏi thế nào là hóa tướng cơi nước và các ngoại đạo. Thế nào vô nhân tác… bốn câu, là hỏi đồng dị thuyết (ngoại đạo) vô nhân hữu nhân tức là hai kiến có và không, phi hữu phi vô chẳng ngoài bốn câu vậy. Hiện đă diệt, là hỏi hiện rồi diệt. Tịnh giác… ba câu, là hỏi tịnh niệm kia, niệm được tăng trưởng. Thế nào đoạn các tưởng… hai câu là hỏi lặp lại thế nào là tưởng diệt nhân đâu từ định giác (dậy). Thế nào không chúng sanh… sáu câu là hỏi chung thế nào kiến lập tướng… bốn câu trước sau xen lộn. Thai tạng là hỏi thai tạng sanh, các thứ thân khác, ư hỏi nhiều loại sắc tướng.

          Thế nào đoạn thường kiến, thế nào tâm được định, lời nói và các trí, chủng tánh giới phật tử, thế nào luận lư và luận. Thế nào thầy đệ tử, thảy các loại chúng sanh, cả thảy đây lại thế nào. Thế nào là ăn uống, thông minh, ma, thi thiết. Thế nào cây, dây sắn, chỗ hỏi của Tối thắng tử. Thế nào các loại cơi, tiên nhân trường khổ hạnh. Thế nào là ḍng họ, từ đâu sư thọ học. Thế nào là quê mùa, thế nào người tu hành, Dục giới sao chẳng giác, cơi A-ca-nị-tra mới thành.

          Tâm được định là, hỏi thế nào tâm tam-muội. Lời nói và các trí… hai câu, là hỏi ai sanh các lời nói và các trí có bao nhiêu thứ, bao nhiêu giới tánh chúng sanh. Thế nào luận lư và luận là, hỏi lư luận có bao nhiêu thứ, thế nào gọi là luận. Thế nào là thầy đệ tử là, hỏi đệ tử có bao nhiêu thứ. Thế nào A-xà-lê, các loại chúng sanh… hai câu là, hỏi nam nữ và hoàng môn. Thế nào là ăn uống là, hỏi thế nào sanh ăn uống. Thông minh, ma, thi thiết là, hỏi thế nào niệm thông minh cùng ma và các ngoại đạo. Cây, dây sắn là, hỏi rừng, cỏ rậm. Các thứ cơi là, hỏi thế nào h́nh nhật nguyệt, cho đến như thế v.v… vô lượng. Trường khổ hạnh là, hỏi thế nào trường khổ tiên. Ḍng họ là hỏi Thích chủng và Cam Giá chủng. Từ đâu thầy thọ học là, hỏi dựng lập cho những người nào. Quê mùa là hỏi thấp hèn. Tu hành là, hỏi tu hành tiến thối vậy. Dục giới sao chẳng giác… hai câu là, hỏi Dục giới không chánh giác… bốn câu. A-ca-nị-tra dịch là Sắc cứu kính.

          Thế nào tục thần thông, thế nào là tỳ-kheo, thế nào là hóa Phật, thế nào là báo Phật, thế nào là như như Phật, b́nh đẳng trí tuệ Phật, thế nào là chúng tăng. Phật tử hỏi như thế, đàn, trống lưng eo và hoa, cơi nước ĺa ánh sáng.

          Tục thần thông là, hỏi thế tục thông. Tỳ-kheo là, hỏi phần tỳ ni, tỳ-kheo. Hóa Phật là, hỏi thế nào là hóa Phật… bốn câu. Chúng tăng là, hỏi chúng tăng có bao nhiêu thứ. Cây đàn… hai câu là, đồng hỏi ư rằng vô lượng cơi nước khác h́nh như nhật nguyệt.

          Tâm địa đó có bảy, chỗ hỏi đều như thật, đây và các thứ khác rất nhiều, phật tử cần nên hỏi. Mỗi mỗi tướng tương ưng, xa ĺa các thấy lầm. Tất-đàn ĺa lời nói, nay ta sẽ hiển bày, thứ lớp dựng lập câu, phật tử khéo lắng nghe.

          Tâm địa có bảy là, hỏi thất địa. Nói chung rất nhiều chỗ hỏi đều đúng lư thật. Bởi v́ nói “lời thô và tiếng tế đều trở về đệ nhất nghĩa”. Cho nên nói mỗi mỗi tướng đều tương ưng, xa ĺa các thấy lầm. Đây là dụng ư trước ước định để sau chỉ thẳng. Nếu không khế hội bản tánh vô ngôn th́ chẳng những thế đế lưu bố, chính đệ nhất nghĩa đế là như thật mà vẫn thuộc về danh ngôn. Do đó ly ngôn để hiển bày. Thế Tôn thiết tha răn bảo, nhiên hậu mới kiến lập, văn sau tự rơ. Chỗ hỏi riêng dùng Thất địa làm chung cục, là v́ Thất địa về tư hoặc đă hết, tuệ tâm hiển bày, cùng vô gián tất-đàn này lẫn nhau minh chứng, cũng không phải chẳng lư do vậy.

          b - Đáp:

          Từ trên đến đây một trăm lẻ tám (108) câu, như chư Phật  đă nói: Câu bất sanh là câu sanh, câu thường là vô thường, câu tướng là vô tướng, câu trụ  dị là phi trụ dị, câu sát-na là phi sát-na, câu tự tánh là ly tự tánh, câu không là bất không, câu đoạn là  bất đoạn.

          Như chư Phật đă nói, nghĩa là chỗ đáp của Thế Tôn cùng với chư Phật ba đời không khác, chư Phật  đồng một bí mật. Xét lời đáp này chỉ có bốn chữ: bất, vô, phi, ly. Đây là lời chỉ thẳng vậy. Chỉ ngăn cái quấy kia mà chẳng nói cái phải kia. Nếu có chỗ phải th́ nào khác với quấy. Như vàng làm đồ trang sức, nghĩa là vàng không phải b́nh, không phải bàn, không phải thoa, không phải xuyến, khiến cho người ngay đó thấu suốt. Không phải, nghĩa là không phải b́nh, không phải bàn, không phải thoa, không phải xuyến, để rơ nó là vàng vậy. Toàn Như Lai tàng tức là thức, nghĩa là Như Lai tàng không tự tánh, không thể tự giữ, vọng có sở giác. Biết nó là vọng th́ không có năng giác sở giác. Nên nói toàn thức tức là Như Lai tàng. Không có năng tàng th́ ai biết là tàng? Nói là thức bởi nơi cảnh giới của nó mà không thể lặng yên tự dứt, do phân biệt liền phát sanh. Ngộ là ngộ được nó vọng sanh phân biệt, phân biệt cảnh của ḿnh và phân biệt cảnh khác, đều nhiếp về phân biệt, tức rơ nó là vàng làm ra vậy. Cho nên phàm có nói năng đều do phân biệt. Phàm có phân biệt đều là thế đế. Ba cơi hai mươi lăm loài đều là thế đế. Phải quấy, thiện ác, nam nữ, thân của, dựng lập đều là thế đế. Cho đến ba thừa, mười hai bộ, nội điển ngoại điển, nhân quả, tiến thối, chứng hướng thảy đều là thế đế. Phàm thế  đế th́ không thể nói là đệ nhất nghĩa đế. Đệ nhất nghĩa đế không phải phân biệt mà được, không phải ngôn thuyết mà tŕnh bày được. Nếu phân biệt ngôn thuyết về đệ nhất nghĩa đế, ấy là phân biệt ngôn thuyết, không phải đệ nhất nghĩa đế. Nếu ĺa phân biệt ngôn thuyết tức là đệ nhất nghĩa đế, liền đó thấu suốt, th́ ba thừa mười hai bộ đều là đệ nhất nghĩa đế. Nội điển ngoại điển, nhân quả, tiến thối, chứng hướng đều là đệ nhất nghĩa đế. Cho đến ba cơi hai mươi lăm loài, phải quấy, thiện ác, nam nữ, thân của, dựng lập, rừng cây, mây gió, tinh tú, xe cộ, y phục, nhà cửa, sản nghiệp, tà chánh, cúi ngước, co duỗi, ngày đêm, ngủ thức thảy là đệ nhất nghĩa đế. Kinh Pháp Hoa nói: “Chẳng phải tam giới mà thấy tướng tam giới, Như Lai thấy rơ không có sai lầm”. Cho nên biết đệ nhất nghĩa đế ĺa phân biệt, bặt ngôn thuyết, tự tri tự chứng mà thôi. Nên nói là lời chỉ thẳng vậy. Thế nên vẫn dùng chữ bất, chữ vô, chữ ly, chữ phi mà chẳng nói nó là thị (phải). Chư Phật ba đời đồng một bí mật. Câu bất sanh là câu sanh, bản dịch đời Đường là câu sanh là phi sanh, tức là người nói là sanh mà chỉ nó chẳng phải. Phi là lư vô sanh, tức là ở trong cái sanh vậy. Thường là cái thường trong vô thường chấp là thường. Tướng là gồm sự tướng, lư tướng. Trụ dị là hai tướng trong bốn tướng: sanh, trụ, dị, diệt.

          Câu biên phi biên, câu trung phi trung, câu thường phi thường, câu duyên phi duyên, câu nhân phi nhân, câu phiền năo phi phiền năo, câu ái phi ái, câu phương tiện phi phương tiện, câu xảo phi xảo, câu tịnh phi tịnh, câu thành phi thành, câu thí (dụ) phi thí (dụ), câu đệ tử phi đệ tử, câu sư phi sư.

          Biên là hữu biên và vô biên, đây là tà kiến của ngoại đạo. Trung là đối với ngă, pháp được nghĩa trung đạo. Hai câu này trong lời hỏi trước không có, song “biên” tức nhiếp vào đồng và dị, “trung” tức nhiếp vào thường kiến chẳng sanh. Văn sau phần nhiều đủ ư hỏi mà lời th́ không, nên phỏng theo đây mà biết. Văn trước nói thường là thế gian vô thường chấp là thường. Ở đây nói thường là ngoại đạo chấp có tánh thường. Phương tiện là tất cả thánh giáo và thế giáo tạo ra phương tiện. Xảo là nghĩa xảo hợp, cũng nhiếp thuộc phương tiện.

          Câu chủng tánh phi chủng tánh, câu tam thừa phi tam thừa, câu sở hữu phi sở hữu, câu nguyện phi nguyện, câu tam luân phi tam luân, câu tướng phi tướng, câu hữu phẩm phi hữu phẩm, câu chung phi chung.

          Câu sở hữu là câu tịch tịnh như thật đă có. Nguyện là chỗ tự nguyện mà nguyện, thuộc về câu Bồ-tát. Tam luân là thân luân, khẩu luân và ư luân. Nói rằng tam luân nghiệp không vậy. Tướng là kiến lập pháp tướng.

          Câu duyên tự thánh trí hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc, câu cơi nước phi cơi nước, câu a-nâu phi a-nâu, câu nước phi nước, câu cung phi cung, câu thật phi thật, câu số phi số, câu số phi số, câu minh phi minh, câu hư không phi hư không.

          Duyên tự thánh trí pháp lạc là chứng tự thánh trí được pháp lạc. Câu thật là ngoại đạo cho bốn đại chủng là có thật tánh hay sanh các pháp. Câu số trước là bổ túc cho pháp số ba mươi hai. Câu số sau là chỉ số lượng. Minh là cái minh của tam minh, tức là nghĩa tam minh lục thông. Hư không là vọng thấy như hư không.   

          Câu mây phi mây, câu công xảo kỹ thuật minh xứ phi công xảo kỹ thuật minh xứ, câu phong phi phong, câu địa phi địa, câu tâm phi tâm, câu thi thiết phi thi thiết, câu tự tánh phi tự tánh, câu ấm phi ấm, câu chúng sanh phi chúng sanh, câu tuệ phi tuệ, câu Niết-bàn phi Niết-bàn, câu sở tri phi sở tri, câu ngoại đạo phi ngoại đạo, câu hoang loạn phi hoang loạn, câu huyễn  phi huyễn, câu mộng phi mộng, câu diệm phi diệm, câu tượng phi tượng, câu luân phi luân, câu Càn-thát-bà phi Càn-thát-bà, câu thiên phi thiên, câu ăn uống phi ăn uống, câu dâm dục phi dâm dục, câu kiến phi kiến, câu ba-la-mật phi ba-la-mật, câu giới phi giới, câu nhật nguyệt tinh tú phi nhật nguyệt tinh tú, câu đế phi đế, câu quả phi quả, câu diệt khởi phi diệt khởi, câu trị phi trị, câu tướng phi tướng, câu chi phi chi, câu xảo minh xứ phi xảo minh xứ, câu thiền phi thiền, câu mê phi mê, câu hiện phi hiện, câu hộ phi hộ, câu tộc phi tộc.

          Luân là hỏa luân. Trị là trị của đối trị, nghĩa là Như Lai theo bệnh cho thuốc, như lương y ở thế gian. Tướng có ba lối đáp: 1) Tất cả sự lư đều không có thể tướng. 2) Kiến lập pháp tướng. 3) H́nh tướng là chúng sanh sanh các cơi tướng ǵ, dáng loài ǵ. Chi là chi phần, tức là h́nh thể từng phần từng đoạn. Mê là mê hoặc. Hiện là hiện nhị kiến. Hộ là thủ hộ nước. Tộc là chủng tộc.

          Câu tiên phi tiên, câu vương phi vương, câu nhiếp thọ phi nhiếp thọ, câu bảo phi bảo, câu kư phi kư, câu nhất-xiển-đề phi nhất-xiển-đề, câu nam nữ hoàng môn phi nam nữ hoàng môn, câu vị phi vị, câu sự phi sự, câu thân phi thân, câu giác phi giác, câu động phi động, câu căn phi căn, câu hữu vi phi hữu vi, câu vô vi phi vô vi, câu nhân quả phi nhân quả, câu Sắc cứu kính phi Sắc cứu kính, câu tiết phi tiết, câu rừng cây b́m sắn phi rừng cây b́m sắn.

          Nhiếp thọ là bị nhiếp thọ và hay nhiếp thọ, pháp thế gian và xuất thế đều có nghĩa nhiếp thọ. Kư là kư luận. Vị là vị của nghĩa vị, nghĩa là nghĩa vị của cái bị nói. Sự là việc làm ra của thế và xuất thế. Giác là giác tri tức nhân cảnh sanh tâm phân biệt. Động là đối tĩnh mà nói. Căn là căn thân.

          Câu tạp phi tạp, câu thuyết phi thuyết, câu tỳ-ni phi tỳ-ni, câu tỳ-kheo phi tỳ-kheo, câu xử phi xử, câu tự phi tự. Đại Huệ! Đó là một trăm lẻ tám câu (108) Phật trước đă nói, ông và những đại Bồ-tát phải nên tu học.

          Tạp là rất nhiều ngôn thuyết. Xử là chỗ ở, có nghĩa trụ mà tŕ ấy vậy. Thế gian và xuất thế đều có nghĩa trụ tŕ, là gánh vác trụ tŕ. Lại nói Phật trước đă nói, nghĩa là Phật pháp thế pháp tất cả sự lư nhân quả này, đều là liền đó ĺa tánh phân biệt đường ngôn ngữ bặt dứt. Chư Phật ba đời đồng một bí mật, thâm thiết dạy bảo trước sau không hai.

 


[mucluc][p1][p2][p3][p4][c1]

[c2A][c2A1][c2A2][c2B][c2C][c2D][c2E][c2F][c2G][c2H]

[Trang chu] [Kinh sach]