[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


KHOÁ XII: KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Bài Thứ 1 

LƯỢC GIẢI

 

Đề mục kinh có tám chữ: "Kim Cang Bát Nhă Ba la mật kinh"; gọi tắt là kinh Kim Cang"

KINH: Kinh điển hay giáo lư, do Phật Phật hoặc Bồ Tát nói ra. Chữ "Kinh" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba nghĩa như sau:

1. Đường canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. "Kinh" cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại các lời nói của Phật hoặc thánh hiền.

2.Thường: Không thay đổi. Chơn lư của Phật không thay đổi; dù Phật quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều nói chơn lư như vậy.

3. Hợp (Khế): Kinh của Phật "hợp với chơn lư của vũ trụ" và " hợp với căn cơ tŕnh độ của chúng sanh". Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo tŕnh độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lư tu hành th́ đều được khỏi khổ luân hồi, không xót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là "Khế kinh"

KIM CANG: Chữ "Cang", người Nam đọc là "cang", người Bắc đọc là "cương". Có hai nghĩa:

1. Ngọc Kim cương: Thuộc về loại khoáng vật rất quí giá. Tánh nó rất cứng và rất bén, đă không bị các vật phá hoại, trái lại c̣n phá hoại các vật.

2. Kim Cang: chất cứng rắn trong loại kim khí, tức là "thép", cũng thuộc về loại khoáng vật. Tánh nó cũng rất cứng bén, và cụng không bị các vật phá hoại, trái lại c̣n phá hoại các vật, như khoan sắt, đục đá v.v...dao búa nhờ có thép mới bén.

Chất "cứng rắn" của "ngọc Kim cương" hay của "thép", đă saün có từ hồi nào đến giờ, không phải do rèn luyện mới có, hay nhờ các vật bên ngoài tạo thành.

Phật dùng "ngọc kim cương" hay "chất thép cứng", để thí dụ "trí huệ Bát Nhă" rất quí báu và saün có trong mọi người (tức là tánh Phật sáng suốt của mỗi chúng sanh).

Trí huệ Bát Nhă, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mới thành. Nó có saün trong mỗi chúng sanh từ vô thỉ đến nay. Dù ở địa vị phàm phu nó cũng không giảm, hay chúng quả Thánh nó cũng không thêm. Nó đă không bị các vô minh phiền năo tàn phá, trái lại c̣n phá tiêu tất cả vô minh phiền năo từ vô thỉ đến nay. Nó phá một cách rốt ráo và dễ dàng, nhu gió thổi mây bay, mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nr6n gọi là "Bát Nhă Ba La mật" Trí huệ rốt ráo.

BÁT NHĂ: Dịch âm của chữ Phạn "Prajnà". V́ Trung hoa không có chữ dịch cho cân xứng nên chỉ dịch nguyên âm là "Bát Nhă".

Bát Nhă có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sau nghĩa:

1. Viễn ly: xa ĺa các vô minh, phiền năo vọng chấp;

2. Minh: Sáng, không mờ tối

3. Huệ: Sáng tỏ

4. Thanh tịnh: trong sạch không nhiễm ô

5. Trí: Thông suốt

6. Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt

Bát Nhă có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa th́ không được đúng lắm, nên các nhà dịch chỉ để nguyên âm chữ Phạn (Bát Nhă).

Tuy nhiên, trong 6 nghĩa trên đây, nếu đem so sánh và cân nhắc, th́ có thể dùng tạm nghĩa"trí huệ"; v́ nghĩa "trí huệ" có phần rơ ràng và xác đáng hơn hết.

Nhưng cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ ra các thứ Trí huệ sau đây, mới đúng với nghĩa chữ "Bát Nhă":

1. Trí huệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng thấy xa, thông minh lanh lợi, khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương diện, thiên hạ gọi đó là người "trí huệ". Nhưng trí huệ đó là trí huệ của thế tục phàm phu, chứ không phải là "trí huệ Bát Nhă".

2. Trí huệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định (xem bài "Thiền định" trong bản đồ tu Phật) lâu ngày cũng có trí huệ, biết được quá khứ vị lai, thần thông biến hoá vô cùng, nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng trí huệ đó là tà trí huệ, chứ không phải là "trí huệ Bát Nhă".

3. trí huệ Nhị thừa: Hàng Thoinh văn và Duyên giác, do tu pháp Tứ đế và Thập Nhị Nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị này đă khỏi sanh tử luân hồi, thần thông tự tại và có trí huệ biết được việc quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng trí huệ đó thuộc về Tiểu thừa trí huệ, chỉ thấy về "ngă không chơn như"(thiên không), chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải trí huệ Bát Nhă.

Trừ ba loại trí huệ trên đây, duy chỉ có trí huệ Phật hay của Đại thừa Bồ Tát, mới phải là trí huệ Bát Nhă.

Công dụng cũa trí huệ Bát Nhă, như mặt nhựt chiếu phá các mây mù vô minh vọng chấp: ngă, pháp, bốn tướng (ngă, nhơn, chúng sanh, thọ giả), có, không, chẳng phải có, chẳng phải không v.v...Bởi thế nên Trí huệ Bát Nhă chiếu soi các pháp, th́ pháp nào cũng bỏ h́nh tướng giả dối, mà hiện ra tướng chơn thật. Tướng chơn thật của các pháp đă hiện, tức là chơn tâm, chơn như hay chơn lư của vũ trụ hiện ra vậy.

Trí huệ Bát Nhă, có công năng như chiếc thuyền đưa chúng sanh một cách rốt ráo, từ bên này bờ mê muội triền phược của phàm phu, đến bên kia bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên cổ nhơn cũng gọi là "thuyền Bát Nhă".

Muốn phân biệt trí huệ Bát Nhă khác với trí huệ của phàm phu, ngoại đạo và Tiểu thừa, th́ chúng ta nên dịch nghĩa chữ "Bát Nhă" như sau:

1. Trí huệ Phật

2. Trí huệ rốt ráo (Bát Nhă Ba La mật)

3. Trí huệ Bát Nhă (dùng cả chữ Phạn và chữ hán)

BA LA MẬT: "ba la mật" hoặc "ba la mật đa" là dịch âm của chữ Phạn "Paramita". Có hai nghĩa:

1. Đáo bỉ ngạn: Đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhă có công năng đưa chúng sanh từ bờ triền phược mê muội của phàm phu bêb này, mà qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là "Bát Nhă Ba la mật".

2. Cứu kính viên măn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ ở Ấn Độ, phàm làm việc ǵ, khi đă được hoàn toàn viên măn, th́ gọi là "Ba la mật". Trí huệ Bát Nhă là loại trí huệ đă rốt ráo viên măn, nên gọi là "Bát Nhă Ba la mật".

Tóm lại, "Kim Cang Bát Nhă Ba la mật kinh" là kinh nói về "Trí huệ Phật"(Bát Nhă), loại Trí huệ đă rốt ráo viên măn (ba la mật). Trí huệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê muội triền phược của chúng sanh, sang bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật (đáo bỉ ngạn).

Trí huệ Phật (Bát Nhă) rất quư báu (như ngọc kim cương), vừa cứng rắn và sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi vô minh vọng chấp (ngă, pháp hay bốn tướng) và đốn tận gốc rừng phiền năo nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ các loại rất cứng, như sắt, đá v.v...mà không bị hư hoại.

***

Phật nói kinh "Đại Bát Nhă" tại 4 chỗ, 16 hội gồm 600 quyển, trong 22 năm mới xong (nhị thp nhị niên Bát Nhă đàm). Tóm tắt lại kinh Đại Bát Nhă là "kinh Kim cann Bát Nhă Ba la mật".

NÓI VỀ DANH, TƯỚNG, THỂ, DỤNG VÀ TÔN CHÆ CỦA KINH NÀY:

Danh: Kinh này lấy "thí dụ" (Kim Cang) và "pháp" (Bát Nhă Ba la mật) mà đặt tên.Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng.

Thể: Kinh này lấy "Thật tướng" làm thể.

Dụng: Công dụng của kinh này là phá các chấp tướng (Ngă, pháp) đoạn hết các vô minh mê hoặc.

Tôn chỉ: Kinh này lấy "Vô trụ"(không trụ chấp nơi nào) làm tôn chỉ.

KẾT LUẬN

Mới đọc đến đề mục kinh, chúng ta đă thấy thích thú lắm rồi ! Đề mục kinh chỉ có tám chữ, mà đă nói lên được rơ ràng nội dung và tôn chỉ của kinh: Phật dạy tất cả chúng sanh đều saün có Trí huệ Bát Nhă (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhă (Phật tánh sáng suốt hay khả năng thành Phật) rất là quư báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép. Trí huệ Bát Nhă có saün từ vô thỉ đến nay, đă không bị cái ǵ làm hư hoại; trái lại, c̣n phá tiêu núi Ngă tướng, Nhơn tướng, chúng sanh tướng và Thọ giả tướng, hay núi Ngă chấp, pháp chấp; nói tổng quát là phá các vô minh vọng chấp từ vô thỉ đến nay. Nó phá một cách hoàn toàn rốt ráo (Ba la mật) và dễ dàng, như mặt trời chiếu sương tan, gió thổi mây bay.

Trí huệ Bát Nhă có công năng như chiếc thuyền, đưa hành giả từ bêb này bến vô minh mê muôi của chúng sanh, vượt qua khỏi sông mê bể khổ, đến bờ bên kia Giác ngộ giải thoát của chư Phật, tức là "Đáo bỉ ngạn" (Ba la mật). Bởi thế nên Cổ nhơn gọi là "Thuyền Bát Nhă".

Chúng ta đă saün có "Trí huệ Bát Nhă" hay "Trí huệ Phật", th́ thế nào chúng ta cũng sẽ thành Phật.

***

TÊN DỊCH GIẢ

Đức Phật Thích ca Mâu ni nói kinh này tại tịnh xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Độc trong vườn của Thái tử Kỳ Đà, ở nước Xá Vệ.

Ngài A Nan kiết tập. Ngài Tam Tạng Pháp sư tên Cưu Ma La thập dịch từ văn Phạn (Ấn Độ) qua văn Trung hoa.

TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam Tạng là ba kho tàng; v́ có công năng trùm chứa văn bghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tàng".

1. Kinh tạng: chép những lời Phật dạy hoặc những lời của các vị Bồ Tát nói ra, khi đă được Phật chứng nhận.

2. Luật tạng: chép những giới và luật (kỹ luật) trong 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, sa di ni, Thức xoa và Ưu bà tắc, Ưu bà di).

3. Luận tạng: chép những lời nghị luận chánh tà, phân biệt chơn vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ.

Thầy giảng "kinh" th́ gọi là "Pháp sư"

Thầy giảng "luật" th́ gọi là "Luật sư"

Thầy giảng "luận" th́ gọi là "Luận sư"

Ngài Cưu Ma La Thập, thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật, Luận, nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư thông ba tạng).

CƯU MA LA THẬP (Kumàralabdha): Tên của một vị Pháp sư có danh tiếng lỗi lạc ở Ấn Độ; bên Trung hoa dịch nghĩa là "Đồng Thọ", nghĩa là vị Pháp sư, tuổi tác th́ "đồng niên", mà tài đức lại "kỳ lăo" (thọ).

Kinh này có nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập rất rơ ràng sáng suốt, nên được phổ biến nhiều hơn hết.

***
 
 A. PHẦN TỰ

(PHẦN MỞ ĐẦU KINH BÁT NHĂ)

Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ kheo, đều ở Tịnh xá Kỳ hoàn, trong vườn của ông Thái tử Kỳ Đà và ông Trưởng giả Cấp Cô Độc.

Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang b́nh bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực.

Khất thực xong, Phât và chúng tăng đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất b́nh bát và rữa chân, rồi trải toạ cụ, ngồi yên tịnh.

LƯỢC GIẢI

Đây là những cử chỉ b́nh thường và rất đơn giản; nhưng đă tạo thành một bức tranh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần "giải thoát vô trụ", để mở màn cho Phật nói kinh Bát Nhă.

Chúng ta hăy định tâm, đọc kỹ lại một lần nữa, những câu sau này, th́ chúng ta sẽ thấy bộc lộ rơ ràng tinh thần Bát Nhă (giải thoát vô trụ).

"Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng 

"đều đắp y, mang b́nh bát vào thành

"Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực.

"Khất thực xong, Phât và chúng tăng 

"đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi 

"thọ trai xong, Phật xếp y, cất b́nh 

"bát và rữa chân, rồi trải toạ cụ ngồi

" yên tịnh.

V́ ngộ được tánh "Bát Nhă giải thoát", trùm khắp trên muôn vật, nên Cổ nhơn có nói hai câu:

Thanh thanh tuư trúc, tổng thị Chơn như

Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhă.

Dịch nghĩa:

Mướt mướt tre xanh, biểu lộ Chơn như.

Mởn mởn hoa vàng, tŕnh bày Bát Nhă.

Ngài Thái hư pháp sư giảng:

"Phật nói kinh này để chỉ rơ trong mỗi chúng sanh đều saün đủ bản thể Kim Cang Bát Nhă. Cái diệu dụng của Kim Cang Bát Nhă là làm cho hành giả khi tu Lục độ vạn hạnh, mà không trụ chấp các tướng.

Người ngộ đưỡc Kim Cang Bát Nhă rồi th́ đối với các pháp và mọi việc đều thông suốt vô ngại; những việc làm b́nh thường hằng ngày đều là Phật pháp, tạm b́nh thường đó cũng là Phật pháp cho đến đi, đứng, nằm, ngồi v.v...cũng đều là Phật pháp. Những việc thần thông biến hoá đều là diệu dụng vô thượng của chư phật đă đành, mà những nỗi mừng, vui, giận, ghét cũng là cái phương tiện hay khéo của phật pháp.

Trái lại, nếu người chưa nhập được "Kim Cang Bát Nhă", dù có được thần thông biến hoá di sơn đảo hải đi nữa, th́ cũng là tà thuật của yêu ma ngoại đạo, dù có thiền định muôm năm, cũng chỉ hưởng phước quả hữu lậu của cơi nhơn, thiên mà thôi; một mai nghiệp báo hết rồi, vẫn trở lại thọ khổ luân hồi trong lục đạo. Quí vị nên chín chắn nghĩ xét !

Kinh Kim Cang Bát Nhă, trong mỗi người đều saün đủ và khắp cả pháp giới. Nó không ở trong, không ở ngoài, không ở chính giữa và cũng không rời trong ngoài và chính giữa; không thể nghĩ bàn và cũng không trụ chấp được. Nếu người bền chí tu hành lâu dài, th́ sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu người hướng ngoại t́m cầu, chấp rằng Phật có thần thông biến hoá v.v...phải có đủ như thế, mới phải là Phật. Những người chấp như thế, không thể phân biệt, giản trạch được thế nào là Phật pháp và thế nào là ngoại đạo. Than ôi ! nếu sai một hào ly, th́ cách xa ngàn dặm ! Quí vị phải cẩn thận, rất cẩn thận !"

(KIM CANG GIẢNG LỤC)

GIẢI DANH TỪ

TÔI NGHE NHƯ VẦY: trong trí Độ Luận có chép: "Khi Đức Như Lai sắp nhập Niết bàn ông Ưu Ba Ly nói với A Nan rằng:_ Ông là người giưǵn "Pháp tạng" của Phật, ông phải bạch Phật những điều cần yếu về sau.

Ông Ưu Ba Ly và A Nan cùng nhau đến bạch Phật bốn điều:

1. Tất cả các kinh của Phật, mở đầu nên đề chữ ǵ?

2. Phật nhập diệt rồi lấy ai làm thầy?

3. Nương nơi đâu mà trụ?

4. Xá lợi và y bát của Phật, phân như thế nào?

Phật dạy:

1. Mở đầu các kinh, hăy để "Như thị ngă văn" (tôi nghe như vầy).

2. Ta nhập Niết bàn, các ông phải lấy "giới luật" làm thầy.

3. Các ông phải trụ nơi pháp "Tứ niệm xứ" (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă).

4. Xá lợi của ta chia làm ba phần (một phần thờ tại nhơn gian, một phần thờ trên các cơi trời, một phần thờ dưới Long cung) c̣n y và bát truyền lại cho ông Ma Ha Ca Diếp.

TỲ KHEO: Tỳ kheo là dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa có ba:

1. Khất sĩ: Là kẻ đi xin: trên xin giáo pháp của Phật để nuôi thân, dưới xin vật thức để nuôi thân.

2. Phá ác: Phá trừ các việc tội ác.

3. Bố ma: Làm khủng bố các ma.

NGỌ TRAI: Phật độ cơm đúng giờ ngọ (12 giờ trưa) nên gọi là "ngọ trai". Những thực phẩm cúng dường chư Tăng, trong giờ ngọ, th́ gọi là "Trai Tăng"

Y: Y phục của chư tăng, tức là áo Cà sa. Y phục của chư Tăng bằng vải, có nhiều loại: Không điều (mạn y), năm điều, bảy điều và chín điều v.v...

B̀NH BÁT: Đồ đựng thức ăn của chư tăng, làm bằng sành v.v...lớn hay nhỏ tuỳ sức người dùng.

TOẠ CỤ: Tấm vải để lót vải ngồi của Phật hoặc chư Tăng.

 


[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]