[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]


Khóa VII

Triết Lư Đạo Phật Hay Là Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm


Bài thứ nhất

 

I.                   ÔNG PHÚ LÂU NA HỎI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG

Lúc bấy giờ ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đứng dậy lạy Phật, chắp tay cung kính và thưa rằng:  Bạch Thế Tôn, trong hàng tứ chúng, Phật thường khen con thuyết pháp hơn hết; ở trong hội này con lại chứng được quả Vô lậu.  Thế mà hôm nay con nghe Phật nói pháp nhiệm mầu cao thượng, hăy c̣n chưa hiểu.  Cũng như người điếc đứng xa một trăm bước nghe tiếng muỗi kêu; thấy c̣n không được, huống chi lại nghe.

Bạch Thế Tôn:  1.  Chơn tâm này đă vốn thanh tịnh, tại sao lại thoạt sanh ra sơn hà đại địa và các chúng sanh?

2.      Lại nữa, Phật nói “đất, nước, gió lửa, tánh nó vắng lặng thường c̣n, viên dung khắp giáp pháp giới”.  Bạch Thế Tôn, nếu nước khắp tất cả, th́ lửa phải tắt; c̣n lửa biến khắp thời nước phải khô; tánh lửa th́ nóng, tánh nước lại lạnh, hai thứ trái nhau, tại sao đồng cùng khắp cả hư không, mà nó không diệt nhau?  Lại nữa, đất th́ có h́nh chất, c̣n hư không lại trống, tại sao hai thức đều khắp giáp cả pháp giới, mà không có chướng ngại nhau?  Cúi xin đức Như Lai vén mở ngút mây mờ cho chúng con.

Thưa hỏi xong, ông Phú Lâu Na kính cẩn trở lui, để chờ nghe lời Phật chỉ dạy.

LƯỢC GIẢI

Đoạn này ông Phú Lạu Na hỏi Phật hai điều:

1.Chơn tâm đă thanh tịnh tại sao thoạt sanh ra có thế giới và chúng sanh?

2.Đất, nước, gió, lửa, tánh nó chống trái nhau, tại sao lại dung ḥa được và biến khắp cả pháp giới?

Về câu hỏi trước th́ trong kinh này Phật đă trả lời rơ rồi.  C̣n về câu hỏi sau chúng ta cũng nên phân biệt cho rơ:  Phật nói nước, lửa v.v... biến khắp cả pháp giới, đó là Phật chỉ về phần “bản thể” mà nói.  Ông Phú Lâu Na nghi nước, lửa v.v... trái nhau, làm sao đều biến khắp được.  Thế là ông Phú Lâu Na đứng về phần “hiện tượng” mà hỏi.

Về phần hiện tượng th́ có chướng ngại, c̣n bản thể thời không bao giờ chướng ngại.

*

II.                PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ NHẤT

Phật day:  Này Phú Lâu Na, như lời ông hỏi:  “Chơn tâm đă vốn thanh tịnh, tại sao lại sanh ra sơn hà đại địa, thế giới và chúng sanh”.

Vậy ông có thường nghe ta nói:  “Chơn tâm nhiệm - mầu vắng - lặng mà thường sáng suốt chiếu soi” không?  (Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu)

            Phú Lâu Na thưa:  Bạch Thế Tôn, con có thường nghe Phật dạy như thế.

            Phật hỏi:  Vậy chơn tâm này, ông cho nó tự có tánh sáng suốt chiếu soi (phân biệt) hay là không có sáng suốt chiếu soi?

            Phú Lâu Na thưa:  V́ nó sẵn có tánh sáng suốt chiếu soi (phân biệt) nên mới gọi là tâm.  Nếu nó không có tánh sáng suốt chiếu soi (phân biệt) th́ không gọi là tâm, v́ nó không phân biệt được cái ǵ cả.

            Phật dạy:  Như lời ông nói:  “Nếu nó không sáng suốt chiếu soi (phân biệt) th́ không phải là tâm, v́ nó không phân biệt được cái ǵ cả”.  Vậy ông có hiểu chăng:  nếu có chiếu soi phân biệt, th́ không phải là chơn (v́ có năng phân biệt th́ phải có bị phân biệt), c̣n không có chiếu soi phân biệt, th́ chắng phải là tâm.  Nếu tâm mà không sáng suốt th́ không phải là chơn tâm thanh tịnh rồi.

            Ông nên hiểu:  Chơn tâm vẫn sáng suốt, v́ ông vọng chấp cái “sáng suốt phân biệt” làm tâm, nên thành ra có năng phân biệt (tâm) và bị phân biệt (cảnh).

            Chơn tâm của ông không phải cái “bị phân biệt”, nhưng v́ ông khởi ra cái “năng phân biệt”, nên nó (chơn tâm) trở lại thành  cái “bị phân biệt” (cảnh).  Đă vọng thành cái “bị phân biệt”, cố nhiên ở nơi ông phải vọng sanh ra cái “năng phân biệt”.

            Thế là ở nơi chơn tâm của ông vẫn thanh tịnh không có năng và sở, mà thoạt nhiên thành ra có năng và sở (vô đồng dị trung, xí nhiên thành dị)

LƯỢC GIẢI

Đại ư đoạn này Phật chỉ cái nguyên nhân từ chơn tâm thanh tịnh, v́ vọng động nổi lên nên sanh ra có thế giới và chúng sanh.

Chơn tâm thanh tịnh mỗi người đều sẵn đủ.  Nếu chấp nó “không có phân biệt” th́ chẳng phải là tâm; c̣n chấp nó “có phân biệt” th́ chẳng phải là chơn.

Bởi ông Phú Lâu Na chấp cái “phân biệt chiếu soi” làm tâm, nên đă có cái phân biệt, cố nhiên phải có cái bị phân biệt.  Thế là năng, sở vừa hiện, th́ bỉ và thử rơ ràng.

Đây là Phật chỉ cái hành tướng của vọng, từ nơi tâm của mọi người khởi lên một cách rơ ràng.

Một vọng niệm vừa nổi lên, th́ có trăm ngàn vọng niệm khác tiếp tục theo sanh ra, cho đến vô cùng tận.  Nhơn đó mà có hư không, thế giới và chúng sanh đồng thời hiện ra.  Cũng như người đương thức (dụ chơn tâm) bỗng chốc buồn ngủ nổi lên, (dụ vô minh vọng động) chiêm bao thấy có núi sông, nhà cửa các cảnh vật hiện ra (dụ hư không, thế giới và chúng sanh).

*

III.             PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CHÚNG SANH RA HƯ KHÔNG, THẾ GIỚI VÀ CHÚNG SANH

Từ một thể chơn tâm không khác, v́ vọng niệm phân biệt, có năng sở, bi thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới.  Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng sanh.  Đă có thế giới nên mới có chúng sanh.  Đă có thế giới và chúng sanh lăng xăng đối đăi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: tốt, xấu, phải, chẳng v.v...  V́ thế mà sanh ra đủ các phiền năo trần lao nhiễm ô.  Cái có h́nh tướng và sanh diệt là thế giới, cái không h́nh tướng và yên tịnh là hư không; khác với hư không, thế giới là chúng sanh vậy.

 

IV.              PHẬT CHỈ CHỈ NGUYÊN NHÂN RIÊNG VÀ TUẦN TỰ SANH RA VŨ TRỤ

1.      NGUYÊN NHÂN SANH GIÓ

Từ nơi chơn tâm, do vô minh vọng động mà có hư không.  Hư không mờ mịt v́ vô minh sanh.  Trong “hư không” có chất động, v́ là vọng.  Bởi thế nên trong hư không có gió (phong luân) để duy tŕ thế giới. 

2.      NGUYÊN NHÂN SANH RA VÀNG NGỌC

Nhơn hư không sanh ra gió, và v́ nơi tâm chúng sanh có tánh cố chấp phân biệt, cho nên ứng hiện ra ngoài thế giới có những chất cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc cứng chắc là v́ tâm cố chấp sanh.  Nó sáng ngời là do tâm phân biệt sanh).  Đây là nguyên nhân có chất kim khí để bảo tŕ thế giới.

3.      NGUYÊN NHÂN SANH RA LỬA

Trong tâm chúng sanh v́ có tánh cố chấp phân biệt nên sanh ra chất cứng chắc là kim khí, và v́ có vọng động mà thành ra gió.  Rồi gió thổi kim khí, nó cọ xát măi, nóng lên, nên nháng sanh ra ánh sáng là lửa.  Đây là cái nguyên nhân có lửa để nấu đốt các vật. 

4.      NGUYÊN NHÂN SANH RA NƯỚC

Chất vàng ngọc vừa sáng ngời và đượm mát.  Nhơn lửa xông lên, nên có hơi nước rịn ra.  Đây là cái nguyên nhân có nước để bao bọc cả mười phương thế giới. 

LƯỢC GIẢI

            V́ tâm vọng đọng nên biến hiện ra ngoài thế giới có gió.  V́ tâm cố chấp, cho nên biến hiện ra ngoài thế giới có vàng ngọc.  V́ tâm nóng nảy, nên biến hiện ra ngoài thế giới có lửa.  V́ tâm tham ái, cho nên biến hiện ra ngoài thế giới có nước.

5.      NGUYÊN NHÂN SANH RA CỒN ĐẢO VÀ BIỂN

V́ tánh lửa bốc lên, c̣n nước th́ lại chảy xuống, nên có chỗ thấp ướt là sông biển, chỗ nổi lên cao là cồn đảo.  Bởi lửa và nước dung ḥa nhau, cho nên trong biển thỉnh thoảng bốc lên ánh sáng của lửa, trong cồn đảo lại có sông rạch thường chảy ra nước.

LƯỢC GIẢI

            Trong bộ Tông cảnh nói:  “V́ tâm luyến ái nên ứng hiện ra ngoài thành sông biển.  V́ tâm cố chấp nên ứng hiện ra ngoài thành cồn đảo, tâm khinh mạn thành ra gió, tâm nóng nảy, sân hận thành lửa.  Bởi thấy sắc dục sanh tâm luyến ái, nên hiện ra ngoài thế giới:  Trong cồn đảo có nước thường chảy.  Ví trái với sự thương yêu th́ nổi sân, nên hiện ra ngoài thế giới: trong biển có lửa phát lên.  Tóm lại, bốn đại đều duy tâm biến hiện (dụ như chiêm bao, nếu ban ngày nghĩ tưởng cái ǵ, th́ ban đêm hiện ra cảnh ấy).

*

6.      NGUYÊN NHÂN SANH RA NÚI

V́ thế lực của nước yếu hơn lửa, nên bị lửa bốc lên kết hành núi cao.  Bởi thế nên đập đá th́ có lửa, c̣n đốt quá nóng, th́ nó chảy ra nước.

LƯỢC GIẢI

V́ tâm giận nhiều thương ít, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có núi cao.

7.      NGUYÊN NHÂN SANH RA CỎ CÂY

V́ thế lực của đất yếu hơn nước, cho nên bị nước rút lên làm cỏ cây.  Bởi thế nên cỏ cây, nếu bị đốt th́ thành tro (đất) c̣n ép th́ nó lại ra nước.

LƯỢC GIẢI

V́ tâm thương yêu nặng nề, tánh cố chấp ít, nên ứng hiện ra ngoài thế giới thành cỏ cây.

*

Tóm lại, v́ ở trong tâm chúng sanh, các vọng tưởng xen nhau phát sanh, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có các cảnh vật.  Bởi nhân duyên này mà thế giới nối nhau sanh măi không dứt.

V.                 PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CÓ CHÚNG SANH (NHƠN SANH)

Ông Phú Lâu Na, cái “hư vọng phân biệt” đó không có ǵ lạ, chỉ v́ ông chấp cái “phân biệt chiếu soi” làm tâm.  Đă có phân biệt, tất nhiên phải có cái “bị phân biệt” đối đăi nhau.  V́ thế nên cái “năng phân biệt” không vượt ngoài cảnh “bị phân biệt” được.  Do nhân duyên này, nên nghe không ngoài tiếng, thấy không ngoài sắc, ngửi không ngoài mù, nếm không ngoài vị v.v...  vọng thành 6 căn và 6 trần đối nhau, nên phân ra có: thấy, nghe, hay, biết.

Rồi theo nghiệp lực kéo dẫn, cho nên có những loài sanh con (như người và thú) loài sanh trứng (như chim và cá) loài sanh chỗ ẩm ướt (như vi trùng v.v...) loài hóa sanh (như trời và địa ngục)

Thần thức khi đầu thai, nhơn thấy ánh sáng (lửa dục) của cha mẹ phát ra, rồi nó khởi ra cái “tưởng” chung chạ làm việc dục ấy.  Nếu nó sẽ là trai th́ ưa mẹ mà ghét cha, c̣n nó sẽ là gái th́ thương cha mà ghét mẹ.  V́ t́nh lưu luyến nơi ái dục không rời được, nên nó tự kết nạp tư tưởng của nó với tinh huyết của cha mẹ khi giao cấu đó, kết thành ra thai.  V́ có nhân duyên với nhau và đồng nghiệp kéo dẫn, nên kết thành thai nghén.  Loài sanh thai, sanh trứng, sanh nơi ẩm thấp, hoặc sanh đều tùy theo nghiệp của mỗi loài mà cảm ứng.

Loài sanh trứng là do nơi tưởng nhiều, loài sanh thai là do nơi t́nh nặng, loài thấp sanh là do hiệp với chỗ ẩm thấp, loài hóa sanh th́ rời cảnh vật tự nó hóa hiện.  Bốn loài biến đổi, tùy theo nghiệp lành hay dữ mà cảm thọ quả báo có thăng và trầm.  Do nhân duyên ấy mà chúng sanh bỏ thân này thọ thân kia, nối nhau không dứt.

VI.              PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CHÚNG SANH TIẾP TỤC SANH

1.      Tham dục:  Này Phú Lâu Na, chúng sanh v́ t́nh ân ái kết chặt, thương tưởng quyến luyến nhau không rời, cho nên trong thế gian, cha mẹ, con cháu tiếp tục sanh ra không cùng tột, gốc tại ḷng tham dục vậy. 

2.      Tham sát:  Loài nào cũng thương yêu thân mạng, muốn cho ḿnh được sống nên tham ăn những vật bổ dưỡng.  V́ thế mà trong thế gian này, loài mạnh ăn thịt loài yếu, loài khôn giết loài dại.  Bốn loài (noăn, thai, thấp, hóa) ăn nuốt lẫn nhau, gốc tại ḷng tham sát hại.

3.      Tham trộm cướp:  Bởi loài người ăn thịt loài vật, loại vật trở lại ăn thịt người.  Người chết làm vật, vật chết làm người, các loài chúng sanh, sanh sanh tử tử, nối tiếp nhau.  Các ác nghiệp đă tạo ra rồi, th́ cùng nhau vay trả, cho đến ngh́n đời không tột, gốc tại ḷng tham lam trộm cướp.

LƯỢC GIẢI

            Loài vật, chúng nó không muốn cho người giết thân mạng nó, mà người lại ỷ sức mạnh giết hại để ăn, thế nên phạm tội cướp giựt.  Có vay cố nhiên phải có trả; nên giết hại không những phạm tội sát sanh, mà c̣n phạm cả tội cướp giựt.

*

Loài này cướp giựt thân mạng loài kia, loài kia giết hại loài này; trả vay, vay trả lẫn nhau, đến trăm ngàn kiếp không ra khỏi sanh tử.

            Trai mê sắc gái, gái thương t́nh trai, v́ t́nh ân ái thương yêu lẫn nhau, nên trăm ngàn kiếp bị phiền trược trong ṿng luân hồi.

            Tóm lại, v́ ba nghiệp sát, đạo, dâm làm gốc, nên nghiệp (nhơn) và quả nối nhau, không bao giờ cùng tận.

            Này ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng sanh và nghiệp quả ba món điên đảo tương tục này đều ở trong chơn tâm, v́ vô minh vọng động sanh ra “năng phân biệt” và “sở phân biệt” tương đối, nên vọng thấy có sơn hà đại địa, thế giới và chúng sanh, rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng hư vọng.

VII.           PHÚ LÂU NA HỎI TIẾP:  CHƯ PHẬT ĐĂ CHỨNG ĐƯỢC CHƠN TÂM THANH TỊNH RỒI, VẬY CHỪNG NÀO NỔI VỌNG TRỞ LẠI

Ông Phú Lâu Na hỏi Phật:  Bạch Thế Tôn, cái chơn tâm của con đă cùng với Phật không khác, vốn thanh tịnh không tăng không giảm; bỗng nhiên vọng động nổi lên, sanh ra thế giới và chúng sanh.  Vậy các đức Như Lai đă chứng được chơn tâm ấy rồi, chừng nào vô minh vọng động nổi lên, sanh trở lại thế giới và chúng sanh nữa? 

VIII.        PHẬT DÙNG BA THÍ DỤ ĐỂ GIẢI THÍCH

1.      DỤ NHƯ NGƯỜI LẦM PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ CHỈ RƠ NGỘ RỒI KHÔNG MÊ TRỞ LẠI

Phật dạy rằng:  Này Phú Lâu Na, như người lầm phương hướng, tưởng phía Nam là phía Bắc.  Ông nghĩ sao, cái “mê lầm” ấy nhơn mê mà có, hay nhơn ngộ mà sanh?  Này Phú Lâu Na, không phải nhơn ngộ, mà cũng không phải nhơn mê.  V́ sao?  Cái mê không có căn nguyên, th́ làm sao nói nhơn mê mà có.  C̣n ngộ không thể sanh ra mê được th́ sao lại nói nhơn cái ngộ mà sanh.

Phú Lâu Na, người kia đương lúc đi lầm đường, nếu có người biết đường chỉ lại cho họ:  đây là phía Nam, kia là phía Bắc v.v...  Vậy từ đó về sau học c̣n lầm lộn nữa không?

Phú Lâu Na thưa:  Bạch Thế Tôn, người kia không c̣n lầm lộn nữa.

Phật dạy:  Này Phú Lâu Na, mười phương các đức Như Lai cũng vậy, khi ngộ được chơn tâm thành Phật rồi, th́ không bao giờ mê trở lại làm chúng sanh nữa.  V́ cái mê lầm không thật, rốt ráo chẳng có gốc rễ.  Trước kia vốn không mê, nhưng in tuồng có cái trong cái ngộ (như đám mây che mặt nhựt).  Đến khi giác ngộ được cái mê, th́ cái mê kia tự diệt; cái “giác ngộ” ấy không sanh trở lại cái mê nữa.

2.      DỤ NHƯ HOA ĐỐM GIỮA HƯ KHÔNG KHI DIỆT RỒI KHÔNG C̉N SANH TRỞ LẠI

Lại nữa, cũng như người bị nhặm con mắt, thấy có đốm hoa lăng xăng giữa hư không.  Đến khi hết nhặm rồi th́ hoa kia tự hết.  Nếu người ấy c̣n nh́n lại chỗ các hoa đốm diệt ở nơi hư không kia để trông mong cho hoa sanh trở lại, nếu như ông thử nghĩ, người đó khôn hay dại?

Phú Lâu Na thưa:  Hư không không có hoa đốm, mà vọng thấy có hoa đốm sanh diệt, thế đă là điên đảo rồi, huống nữa, trông mong nó sanh trở lại, thật người ấy điên đảo lắm, không c̣n nói dại hay khôn nữa được.

Phật nói:  Ông đă hiểu như vậy, tại sao c̣n hỏi: “Như Lai đă ngộ được chơn tâm thanh tịnh rồi, vậy chừng nào nổi vọng trở lại, sanh ra sơn hà đại địa nữa?”

3.      DỤ NHƯ VÀNG VÀ CỦI

Cũng như vàng trong mỏ, khi đào lên đă lọc hết khoáng thành vàng ṛng rồi, lúc bấy giờ không c̣n trở lại làm khoáng nữa.  Và cũng như cây đốt thành tro, không thể trở lại thành cây nữa được.

Chư Phật cũng thế, khi chứng được Bồ đề Niết Bàn rồi, không c̣n vọng động trở lại làm chúng sanh nữa. 

IX.              PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ HAI

Phật nói:  Phú Lâu Na, như lời ông hỏi:  “nước và lửa tại sao chẳng diệt nhau, trái lại được dung ḥa cùng nhau và đều biến khắp cả vũ trụ?  Hư không với đất tánh chất không đồng, tại sao dung biến được?”

Này Phú Lâu Na!  Tất cả các pháp xem về tướng (hiện tượng) của nó, nguyên là hư vọng, không thể chỉ bày cái ǵ thật là cái ǵ được.  Nó đă hư vọng không thật mà ông lại c̣n hỏi “tại sao nó chẳng diệt nhau”.  Như thế chẳng khác nào người ngồi trông đợi cho cái hoa đốm giữa hư không kia kết đậu thành ra trái, th́ làm sao mà kết đậu cho được!

LƯỢC GIẢI

            Như cá h́nh chớp bóng chiếu trên miếng vải trắng, bởi nó không thật, nên không cái nào ngại cái nào cả.

*

            C̣n xem về tánh (bản thể) của các pháp, th́ nguyên nó là chơn.  Duy có một thể chơn tâm, nguyên không phải đất, nước, gió, lửa, th́ sao lại chẳng dung ḥa nhau được.

X.                 PHẬT CHỈ CHƠN TÂM TÙY DUYÊN BIẾN HIỆN

Phú Lâu Na!  Chơn tâm của ông như thế, nếu ông phân biệt hư không th́ có hư không hiện ra, phân biệt đất, nước, gió, lửa, th́ đều có đất, nước, gió, lửa hiện ra.

Cũng như hai người đồng xem một mặt trăng dưới nước.  Rồi một người đi qua phía đông và một người đi qua phía tây, th́ hai người đều thấy có mặt trăng đi theo ḿnh cả, không có chuẩn định.

Ông không thể hỏi:  “Mặt trăng chỉ một, tại sao đi theo cả hai người”; hay là nói “hai người đi riêng đều thấy có hai mặt trăng, tại sao hiện nay chỉ thấy có một” (Khi hai người đứng chung một chỗ).

Phú Lâu Na!  Ông nên biết:  V́ các pháp hư huyễn, không thể lấy đâu làm bằng cứ được. 

XI.              CHÚNG SANH TRÁI VỚI CHƠN TÂM SÁNG SUỐT VÀ HIỆP THEO VỌNG TRẦN

Phú Lâu Na!  Các ông v́ trái với chơn tâm sáng suốt, mê muội hiệp theo vọng trần, nên chơn tâm tùy duyên biến hiện ra có hư không thế giới, các thứ trần lao trong thế gian, cùng khắp cả pháp giới.  V́ thế nên ông thấy có gió động, hư không lặng, mặt nhựt sáng, mây mờ, sắc tướng và hư không lấn nhau, nước và lửa diệt nhau v.v...

XII.           PHẬT HIỆP VỚI CHƠN TÂM SÁNG SUỐT

C̣n ta (Phật) th́ trái với vọng trần, hiệp với chơn tâm thường trụ bất sanh bất diệt, biến khắp cả pháp giới.  Cho nên ta mới được tự tại vô ngại:  Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới.  Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận.  Trên đầu một mảy lông hiện ra các cơi nước;  ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân.  V́ ta diệt hết vọng trần, trở lại với bản tâm thanh tịnh sáng suốt, nên mới được như vậy.

LƯỢC GIẢI

V́ Phật đă ngộ chơn tâm thanh tịnh, nên mới được tự tại vô ngại, không c̣n bị các vật lớn, nhỏ, nhiều, ít v.v... làm chướng ngại.

Trái lại, chúng sanh v́ mê chơn tâm, hiệp theo vọng trần nên thấy có các vật lớn, nhỏ, rộng, hẹp chướng ngại.

Bởi tâm có chướng ngại (vọng phân biệt) nên thấy ngoài trần cảnh có chướng ngại.  Nếu trong tâm hết chướng ngại (không vọng) th́ không c̣n thấy có một vật ǵ làm chướng ngại cả.


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]