[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Mục Lục]


Khóa Thứ Ba 
Thinh Văn Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 1

Khái Niệm Tổng Quát Về Tứ Diệu Đế 

(Ariya Saccani)

 

A.Mở Đề

Nguyên Nhân Và Hoàn cảnh Đức Phật Thích Ca Giảng Về Pháp Tứ Diệu Đế Lần Đầu Tiên 

Đức Phật Thích Ca, sau khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, liền nghĩ đến việc đem giáo lư của Ngài vừa chứng được, ra truyền bá cho chúng sanh. Nhưng giáo lư của Ngài là giáo lư cao siêu, thâm diệu, c̣n chúng sanh phần đông căn cơ c̣n thấp kém, khó có thể giác ngộ nhanh chóng như Ngài được. Nhưng không lẽ v́ giáo pháp của Ngài thậm thâm vi diệu mà không giáo hóa chúng sanh? Để làm tṛn nhiệm vụ hóa độ của nGià Phật phương tiện nói pháp Tứ Diệu Đế là Tiệm giáo để cho chúng sanh dễ bề tu hành.

Quan sát căn cưo năm người bạn đồng tu với Ngài trước kia là nhóm ông Kiều Trần Như, có thể khai ngộ được với pháp Tứ Diệu Đế, đức Phật đi đến Lộc Uyển là nơi họ đang tu hành đểnói pháp Tứ Diệu Đế.

Sau khi nghe Phật thuyết pháp Tứ Diệu Đế, thánh kiến mê lầm tan vỡ, trí huệ siêu thoát xuất hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập qủa vị A La Hán. Đó là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật Thích Ca.

từ đây về sau, Tứ Diệu Đế là giáo lư căn bản về Tiệm giáo (phương pháp tu chứng từ từ) và đă giác phộ cho không biết bao nhiêu đẹ tử của Phật.

Ngày nay, chúng tôi đem giáo pháp Tứ Diệu Đế ra tŕnh bày với quí vị độc giải trong tập sách này, cũng không ngoài mục đích ấy.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa Về Tứ Diệu Đế

Tứ là bốn; Diệu là hay đẹp, quư báu, hoàn toàn; Đế là sự chắc chắn, rơ ràng đúng đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani.

Tứ diệu đế là bốn sự thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo lư ngoại đạo nào có thể sánh kịp. Với bốn sự thật mà Đức Phật đă phát huy đây, người tu hành có thể từ địa vị tối tăm, mê mờ, đi dần đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đưởng cho người bộ hành đi trong đêm tối đến đích. V́ cái công dụng quí báu, mầu nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên mới gọi là Diệu.

Chữ Đế c̣n có nghĩa là một Sự Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cảcác Sự Thật khác, và muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự thật hạn cuộc trong không gian và thời gian.

Trong giáo lư Tiểu thừa th́ Tứ diệu đé là giáo lư căn bản.

II. TỨ Diệu Đế Gồm Những Ǵ?

Tứ diệu đế, là: Khổ đếù, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

1. Khổ đế ( Dukkha). Khổ đế là chân lư chắc thật, tŕnh bày rơ ràng cho chúng ta thấy tất cả những nỗi đau trên thế gian này mà mỗi chúng sinh đều phải chịu, như Sống là khổ, Đau là khổ, Già là khổ, Chết là khổ V.V..những nỗi khổ dẫy đầy trên thế gian, bao vây chúng ta, ch́m đắm chúng ta như nước biển. Do đó, Đức Phật thường ví cơi đời là một bể khổ mênh mông.

2. tập đế (Sameda Dukkha). Tạp đế là chân lư chắc thật, tŕnh bày nuyên nhân của bể khổ trần gian, là lư do v́ đâu có những nỗi khổi ấy. Khổ đế như là bản kê hiện trạng của chứng bệnh; c̣n Tập đế như là bản nói rơ nguyên nhân của chứng bệnh, lư do v́ sao có bệnh.

3. Diệt dế (Nirodha Dukkha). Diệt đế là chân lư chắc thật, tŕnh bày rơ ràng hoàn cảnh quả vị an lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến khi đă diệt trừ được những nỗi khổ và những nguyên nhân của đau khổ. Diệt đế như là một bản cam đoan của lương y nói rơ sau khi người bệnh klành th́ sẽ ăn ngon, ngủ yên như thế nào, thân thể sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào.

4. Đạo đế (Nirodha Gamadukkha). Đạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc thật để diệt trưd đau khổ. Đó là chân lư chỉ rơ con đường quyết định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là những phương pháp tu hành để diệt khổt và được vui.

Đạo đế cũng như cái toa thuốc mà vị lương y đă kê ra để người bịnh mua vf\àd những lời chỉ dẫn mà bịnh nhân cần phải y theo để lành bệnh.

III. Bố Cục Kỳ Diệu Của Tứ Diệu Đế

Tứ diệu đế đă được Đức Phật sắp đặt theo một thứ tự rất khôn khéo, hợp lư, hợp t́nh. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây, mỗi khi nói đến Tứ Diệu Đế, ngoài cái nghĩa lư sâu xa, nhận xét xác đáng, c̣n tóm tắt tán thán cái kiến trúc, cái bố cục, cái thứ lớp của toàn bộ pháp môn ấy.

Trước tiên, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấy cái thảm cảnh hiện tại cỉa cơi đời. Cái thảm cảnh bi đát nầy có nằm ngay trước mắt ta, bên tai ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự thật có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những sự thật xa lạ ở đâu đâu. Đă là một chúng sanh, ai không có sanh, ai không đau ốm, ai không già, ai không chết v.v...? Và những trạng thái ấy đều mang theo tánh chất khổ cả. Đă có thân, tất phải khổ. Đó là một chân lư rơ ràng, giản dị, không ai là không nhận thấy, nếu có một chút ít nhận xét.

Khi chỉ cho mọi người thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính trong mỗi chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ cho chúng sanh thấy nguồn gốc, lư do của những nỗi khổ ấy. Ngài đă từ hiện tại đi dần về quá khứ, đă từ bề mặt đi dần xuống bề sâu, đă từ cái dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là lư luận của Ngài đă đặt căn bản lên thực tại, lên những điều có thể chứng nghiệm được, chứ không phải xa lạ, viễn vong, mơ hồ.

Đến giai đoạn thứ ba, đức Phật nêu lên tŕnh bày cho chúng ta thấy cái vui thú của sự hết khổ. Giai đoạn nầy tương phản với giai đoạn thứ nhứt: giai đoạn trên khổ sở như thế nào, th́ giai đoạn nầy lại vui thú như thế ấy. Cảnh giới vui thú mà Ngài tŕnh bày cho chúng ta thấy ở đây, cũng không có ǵ là mơ hồ, viễn vong, v́ nếu đă có cái khổ là cái vui. và khi đă thấy rơ được cái khổ như thế nào, th́ mới hăqng hái t́m cách thoát khổ và khao khát hướng đến cai vui mà đức Phật đă giới thiệu.

Đến giai đoạn thứ tư là giai đoạn Phật dạy những phương pháp để thực hiện cái vui ấy. Ở đây chúng ta nên chú ư là đức Phật tŕnh bày cảnh giới giải thoát trước, rồi mới chỉ bày phương pháp tu hành sau. Đó là một lối tŕnh bày rất khôn khéo, đúng tâm lư: trước khi bảo người ta đi, th́ phải nêu mục đích sẽ đến như thế nào, rồi để người ta suy xét, lựa chọn có nên đi hay không. nếu người ta nhận thấy mục đích ấy cao quư, đẹp đẽ, khi ấy người ta mới hăng hái, nỗ lực không quản khó nhọc, để thực hiện cho được mục đích ấy.

Như thế, chúng ta có thể phác họa lại cái bố cục của bức họa Tứ Diệu Đế như sau:

Chúng ta đang đứng trước một bức họa vĩ đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là một bể thẳm mênh mông, sóng gió tơi bời, trong ấy thuyền bè đang bị đắm ch́m, với vô số nạn nhân đang lặn hụp, kêu la, khóc lóc, chới với...(Khổ đế).

Trong cái phần nầy của bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên nhân gây ra những thảm họa ấy: đó là những luồng gió dục vọng, tham, sân, si.. những đám mây vô minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập đế).

Nh́n đến phần trên của bức họa, ta thấy quang cảnh dần dần sáng sủa, yên tĩnh; ở đây, giông tố không đến được, không có những vực sâu, hố hiểm, không có những nạn nhân đang rên siết, khóc than...đây là một miền cao nguyên, cang flên cao, cảnh trí càng đẹp đẽ, yên vui. Người ở đây trông có vẻ b́nh tĩnh, thảnh thơi, vui vẻ lắm; và cũng như cảnh trí, những người càng ở tầng bậc cao th́ lại càng có dung mạo đẹp đẽ, cốt cách phương phi, giải thoát...(Diệt đế).

trong phần nầy, nếu chúng ta chú ư nh́n rơ, th́ thấy từ một cảnh ở dưới lên một cảnh trên, có những con đường đi với những cái bản đề tên đường đi, rất hay như: tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, tứ như ư túc,. Bát chánh đạo v.v...Trên những con đường ấy, có rất nhiều người đang đi lên, và rất ít người đi xuống. và càng lên cao th́ con đường lại càng rộng răi mát mẻ, tốt đẹp và những khách bộ hành lại càng mang rất ít hành lư...(Đạo đế).

Bức họa ấy có ghi mấy chữ ở phần dưới là: "Thế gian" và phần trên là "Xuất thế gian".

Đây, bức họa Tứ Diệu Đế rơ ràng tŕnh bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh giới: Thế gian và Xuất thế gian, tương phản như thế đó. Những ai đă nh́n được bức họa ấy, tất đều có một thái độ là muốn xa lành cảnh ở phần dưới và mong ước được sống trong cảnh giới tŕnh bày ở phần trên bức họa.

VI. Địa Vị Quan Trọng Của Tứ Diệu Đế Trong Toàn Bộ Giáo Lư Của đức Phật Thích Ca 

Tứ Diệu Đế là giáo lư căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu Thừa mà chung cho cả Đại Thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ Diệu Đế được. Pháp môn nầy, tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước nấy. Pháp môn nầy tuy không đưa thẳng người tu hành đến quả vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn và quyết tâm nó có thể dễ dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ quả vị A La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Đại Thừa, để tiến đến quả vị Phật. Căn cơ nào, tŕnhoộ nào cũng có thể tu theo pháp môn nầy được, chứ không phải như một số pháp môn khác, phải cần có một tŕnh độ học thức cao và một trí tuệ trên mức trung b́nh mới có thể theo được. V́ thế, nó là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn này là pháp môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các Phật tử Âu Mỹ hầu hết đều tu theo pháp môn nầy là những tập sách nghiên cứu về đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều nhất về Tứ Diệu Đế.

C. Kết Luận

Phật Tử Phải Học và Thực Hành Pháp Tứ Diệu Đế 

Một giáo lư căn bản, quan trọng như Tứ Diệu Đế, người Phật tử không thể không hiểu được. Không hiểu biết về Tứ Diệu Đế là không hiểu biết ǵ về giáo lư đạo Phật cả. Người Phật tử, hơn ai cả, phải thấu triệt cơi đời là khổ. Muón thế, không ǵ hơn là hăy lắng nghe đức Phật dạy về Khổ đế, v́ chỉ có Khổ đế mới nói lên một cách tường tận đầy đủ, chính xác về mọi nỗi khổ đau của cơi đời.

Thấy rơ được mọi nỗi khổ đau rồi, ta cần t́m hiểu v́ đâu có khổ, nguyên nhân của khổ là đâu. V́ chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới có thể diệt trừ tận gốc nó được. Điều này, cũng không chỗ nào nói rơ ràng, phân tích ràng mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy được mọi nỗi đau khổ của cơi đời và nguồn gốc của nó, không phải để mà chán ngán, khóc lóc, rên siết. Nếu thế th́ không có ǵ tiêu cực bi quan bằng. Một sô sdư luận tưởng lầm đạo Phật là yểm thế bi quan là v́ họ đă dừng lại ở hai phần đầu của Tứ Diệu Đế.

Nhưng người Phật tử không dừng lại đó. Đă thấy đau khổ làm cho cuộc đời xấu xa, đen tối, khổ đau, th́ phải diệt trừ đau khổ. Hạnh phúc không đâu xa, hạnh phúc hiện ra sau khi đă diệt trừ được đau khổ. Đau khổ lùi chứqng nào th́ hạnh phúc đến chứng ấy, như bóng tối tan đi đến đau th́ ánh sáng thay vào đến đó. Muốn thấy ánh sáng của Niết Bàn th́ phải thực hiện những lời dạy của Phật trong Diệt đế.

Muốn thực hiện Niết Bàn th́ phải có đủ phương tiện. Những phương tiện nầy, đức Phật đă cung cấp một cách đầy đủ trong trong Đạo đế.

Như thế, đức Phật Thích Ca đă làm đầy đủ nhiệm vụ của kẻ dẫn đường cho chúng ta đi từ cơi đời đen tối đến quả vị A La Hán. Ngài đă đặt vào tay chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rơ ràng về cuộc hành tŕnh và ban cho chúng ta đầy đủ phương tiện cần thiết trong chuyến đi vĩ đại ấy.

Chúng ta chỉ c̣n lên đường và bước đi.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]