[Trang chu] [Kinh sach]

THIỀN TÔNG CHỈ NAM

[mucluc][p1][p2][p3][p4][p5]

[p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]


TƯ LIỆU C̉N LƯU TRUYỀN của ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG
(Trần Nhân Tông)

Thiền sư Thích Thanh Từ dịch nguyên ngữ.

hơg 

TỰA

KINH KIM CANG TAM - MUỘI 

Trẫm theo bản tánh lắng mầu, chơn tâm trong lặng tṛn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay t́m được mối manh; tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng có không chung lại; đạo tục san bằng, sừng sững riêng c̣n siêu nhiên không ǵ ngoài. Đây là trọng yếu của tánh Kim Cang vậy.

Bởi chúng sanh đă lâu, huân nhiễm nghiệp tập khắn chặt, tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động, kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không; người xoay huệ quang soi sáng rất ít. Bèn khiến bốn phương đổi chỗ, mơ màng hướng về; lối tẻ đă sai, đường chánh thành nhiều ngơ. Bản giác thủy giác đâu rành, chơn tâm vọng tâm khó phân biệt. Vàng ṛng lẫn trong chất quặng, trăng sáng cùng bụi mù hiện chung. Cố hương lầm về chốn nào? Diện mục quên mất bản lai. Trên đường Niết bàn rất khó tiến lên, hang ổ sanh tử chui vào có lúc. Cho nên thầy ta bậc Năng nhân chỉ "Vô sanh từ nhẫn"; v́ thương các khổ đắm ch́m nên ôm ấp "Tứ hoằng thệ nguyện"; nhọc nhằn da diết "tâm tư". Pháp thân lắng lặng, Báo thân hiện ra, điềm lành hiện rơ ở triều Chu. Chánh pháp đi, tượng pháp lại, nơi điện Hán mộng thấy người vàng. Ngài Ca Diếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan chở kinh vào, Tây trúc (Ấn độ) Chấn Đán (Trung hoa) mới thông. Kinh chữ Phạn dịch ra văn Trung hoa sáng tỏ, đổi lá bối viết vào giấy lụa. Biển giáo phô bày mọi trân bảo, nghĩa trời hiện rực các v́ sao. Hoặc muốn tăng thêm nơi chưa ổn, hoặc mong bổ túc chỗ c̣n sót, nối gót theo lối Y Ngô, tiến chân trên đường Lưu Sa. Vượt biển không xa, quyết chí về Trung quốc. Từ đời Hán bắt đầu đến nay mở rộng. Nào là: Thiên, Viên, Bán, Măn không thiếu ở ḥm châu. Nào là: Đốn, Tiệm, Thật, Quyền dẫy đầy trong rương báu.

Kinh Kim Cang Tam Muội, há chẳng phải là loại viên măn đốn thật hay sao? Nếu chẳng vậy sao dùng pháp yếu "vô sanh", tŕnh thần thông làm phương tiện. Đại sĩ (Bồ tát) hỏi nhân xuất thế. Tôn giả (Phật) gieo quả cứu cánh. Muốn dẹp trừ có trụ có diệt, trước nên vô tướng vô sanh. Thấy sanh niệm nơi vọng niệm là mờ, khởi thủy giác nơi bản giác là lợi. Chuyển các t́nh thức vào thức Am Ma La. Quên đầu không đoái thân ḿnh, duỗi tay dắt về nơi thật tế. Nếu chấp ngoại trần duyên hợp là có, liền bàn chân tánh vốn không và tam tướng không quan hệ, tứ thiền làm ǵ có? Ḥa các vị thành vô thượng vị, đùa các ḍng thành ḍng sông bất nhị. Xoay chuyển vọng tâm biến kế, tiếp nhập thức Như lai tàng, bao gồm hiển bày một tâm. Người nhơn chấp mà mê, như Man, Thục giữ nhau. Người tùy sai mà ngộ, như Lỗ, Tề một lần đối.

Trẫm xét đức làm chủ cả nước, chăn dắt muôn dân, mỗi khi nghĩ đến gian nan, quên mất sớm tối. Việc tuy hàng vạn, trộm lúc rảnh rang, chăm việc tiếc giới, học càng tăng tiến. Chũ nghĩa c̣n ngại chưa rành, đêm đến canh khuya vẫn c̣n chăm học. Đă đọc sách Khổng Tử, lại xem kinh nhà Phật, kinh này một phen xem, trăm thứ cảm hứng nảy sanh, t́m ṭi chỗ thâm áo, ba nhẫn chín suy. Gậm nhấm nghĩa vị, thu thập văn hoa, muốn rơ lời Phật, để giúp ích phần nào cho kẻ hậu học. Lạm đem cái thấy biết hạn hẹp, hầu mở mang cho đàn vượn ngốc. Do đó diễn tả ḷng ḿnh, tự làm chú giải. T́m áo nghĩa nơi Long cung, ḍ lời mầu nơi Thứu lănh, nhỏ từng giọt nước trong nguồn chánh giác, bồi từng hạt bụi trên đường chơn như. Phát huy u chí, mở sáng chân tông, khiến người vừa xem liền thấy nghĩa rơ ràng. Phá giậu phên cố chấp của bọn tà, làm thấy nhóm nghĩa đồ nghi thức.Vọng kiến mênh mang, dần biết hướng chầu phương Bắc, đường mê chi chít, tạm biết lối chánh về Nam. Để làm chỗ nương cho học giả, mới thấy ḷng trẫm không keo xẻn. Cho nên làm lời tựa.

?

 

[mucluc][p1][p2][p3][p4][p5]

[p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[Trang chu] [Kinh sach]