THIỀN TÔNG VĨNH GIA TẬP
[mục lục][tựa][tiểu dẫn][thiền tông vĩnh gia tập]
[chương 01][chương 02][chương 03][chương 04]
[chương 05][chương 06][chương 07][chương 08][chương 09][chương 10]
CHƯƠNG VII: CẤP BẬC LẦN LƯỢT CỦA BA THỪA Phàm đại đạo mầu nhiệm th́ vi tế sâu xa, lư bặt sự biểu hiện của danh tướng. Chí chân rỗng rang vắng lặng, lượng vượt ra ngoài các số, mà có thể khởi ḷng từ vô duyên tùy cơ cảm ứng. Chỉ thú bất nhị tùy theo căn tánh để phân chia. Thuận vật quên ḿnh nên làm mà không làm, suốt ngày dạy bảo mà chẳng khác ǵ không nói, lập giáo nhiều đường mà chẳng trái một đạo. V́ vậy, Đại thánh từ bi ứng cơ lợi vật, gom về chỗ sâu kín th́ muôn kinh chẳng khác. Hàng trung hạ quán tứ đế, thập nhị nhân duyên mà tự thành Tiểu, bậc cao thượng tu lục độ mà thành Đại. Do đó, hạng ngu mê không thể tự hiểu, hoặc nhân nghe nói mà ngộ giải nên hiệu là Thanh văn, nguyên v́ chỗ tu lấy tứ đế làm bản hạnh. Quán vô thường mà sanh sợ, nghĩ không tịch để cầu an, sợ luân hồi trong lục đạo, ghét sanh tử của tam giới. Thấy khổ thường ôm ḷng chán ĺa, dứt tập hằng sợ nó sanh, chứng diệt riêng khế hợp với vô vi, tu đạo chỉ luận đến tự độ. Tâm đại thệ chưa khắp, đạo nhiếp hóa không thực hành. Lục ḥa kính (Lục ḥa kính: 1. Đồng giới ḥa kính 2. Đồng kiến ḥa kính 3. Đồng hạnh ḥa kính 4. Thân từ ḥa kính 5. Khẩu từ ḥa kính 6. Ư từ ḥa kính)rỗng không, ḷng thương ba cơi chẳng vận dụng, nhân trái vạn hạnh, quả thiếu viên thường, lục độ chưa tu, chẳng phải Tiểu thừa th́ là ǵ ? Đó là đạo Thanh văn vậy. Hoặc có người chẳng nhân người khác nói mà tự ngộ vô thường, ngẫu nhiên duyên tán mà thể hội được chân lư nên gọi đó là Duyên giác. Nguyên chỗ tu tập của các Ngài lấy thập nhị nhân duyên làm bản hạnh. Quán vô minh tức màø không, đạt các hành mà vô tác. Hai nhân (Hai nhân : vô minh và hành) đă chẳng phải nghiệp th́ năm qua (Năm quả : thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ.)đâu c̣n báo. Ái thủ hữu không c̣n tỳ vết th́ lăo tử cũng đâu c̣n ràng buộc, nên có thể tức th́ một ḿnh giải thoát. Ở yên chỗ vắng vẻ yên lặng quán vạn vật biến hóa mà ngộ lư vô thường, thấy thu tàn mà vào chân đạo. Bốn oai nghi nghiêm nghị, nhiếp tâm lự để an vui, tánh thích ở một ḿnh, ưa nghĩ ngơi nơi rừng vắng. Chẳng ưa thuyết pháp, chỉ hiện sức thần thông để hóa độ người. Vào lúc không có Phật xuất thế, các Ngài làm ngọn lửa tiếp nối Phật đăng. Thân chỉ ưa vắng lặng, ư thích trong sạch rỗng rang, ở một ḿnh trên đỉnh núi hoang liêu quán các duyên tan mất. Chẳng làm lợi ích khắp cho mọi người, tự lợi cũng chưa viên măn. Đối với bậc hạ th́ có phần hơn, c̣n so với bậc thượng th́ chưa đủ, cả hai đều chẳng phải phẩm loại của các Ngài, mà địa vị ở Trung thừa, đấy là đạo Bích Chi Phật vậy. Như người căn tánh vốn sáng, công đức chứa nhóm nhiều đời, học chẳng bác thiệp mà vẫn tự sanh được sự hiểu biết. Tâm không duyên bất cứ chỗ nào mà hay lợi vật; từ bi rất lớn, chẳng bị ái kiến câu thúc, suốt ngày cứu độ chúng sanh chẳng thấy có chúng sanh được độ. Nhất và dị đều đồng diệu chỉ, giải và hoặc đồng nguyên, nhân và pháp đều không, cho nên gọi là Bồ-tát. Nguyên v́ hạnh tu của các ngài lấy lục độ làm chánh nhân. Thực hành bố thí th́ bỏ thân hết của; tŕ giới th́ kiết-la (giới nhỏ) cũng không phạm; nhẫn nhục th́ thấu rơ vô ngă, cắt thân nào hại ǵ, an nhẫn sự khen chê bát phong chẳng động; tinh tấn th́ siêng năng cầu pháp chí đạo như cứu lửa cháy đầu, sự tu hành và giáo hóa người trong khoảng sát-na cũng không gián đoạn; thiền-na th́ thân tâm yên lặng, an ban (An ban : Pháp sổ tức) vi tế, ở trong tịch định để tự nuôi thân, dùng bốn oai nghi để lợi vật; trí tuệ th́ rơ biết duyên khởi tự tánh vô sanh, muôn pháp đều Như, nguồn tâm vắng lặng. Tuy biết phiền năo không thể xả bỏ, Bồ-đề không thể nắm lấy mà có thể chẳng chứng vô vi, độ chúng sanh trong nhiều kiếp, rộng tu vạn hạnh, b́nh đẳng quan sát các loài, dưới đến tứ đế, thập nhị nhân duyên, trên gồm cả pháp bất cộng. Tâm đại thệ trùm khắp, đạo tứ nhiếp gồm thâu, lấy ba cơi làm nhà, bốn loài sanh làm con. Vận dụng hai thứ bi trí, hai thứ phước tuệ trang nghiêm siêu việt Nhị thừa, riêng ở bậc thượng, đó là đạo Đại thừa vậy. V́ vậy, lư nhất chân theo căn tánh mà có thứ bậc sai khác, như được sự lợi ích tùy cơ nên nói đủ cả ba thừa. Nhưng mà chí lư hư huyền cùng tận đến chỗ vi diệu th́ một c̣n chẳng có, huống là nói đến ba. Ba mà chẳng ba nên nói là ba, một mà chẳng một nên nói là một. Chẳng phải ba mà một, ba c̣n chẳng ba th́ một mà ba, một cũng đâu có một. Một chẳng một tự chẳng phải ba, ba chẳng ba tự chẳng phải một. Chẳng phải một, một chẳng phải th́ ba không c̣n. Chẳng phải ba, ba chẳng phải th́ một chẳng lập. Một chẳng lập vốn chẳng phải ba, ba không c̣n vốn không có một. Một ba vốn không, cái không này cũng không, cái không không đó không có gốc nên diệu tuyệt. Như vậy th́ một đâu bị phân, ba đâu được hợp, hợp phân là từ nơi người vậy, lư nào có khác với lời ư ! Ví như có ba con thú qua sông, con sông vốn một, đâu có v́ ba con thú mà hợp. Lại đâu riêng ǵ con sông chẳng phải v́ thú mà hợp, mà thú cũng chẳng phải do sông mà phân. Sông c̣n chẳng thành ba con sông, đâu được lấy sông để hợp ba con thú. Thú c̣n chẳng thành một con thú, há được lấy thú mà thành sông. Sông chẳng phải thú nên đâu thể ba, thú chẳng phải sông nên đâu thể một. Chỉ một con sông bao cả ba con thú mà sông chưa từng ba, ba con thú qua một con sông mà thú chưa từng một. Thú chẳng phải một con để biết chân của chúng có ngắn dài, sông chẳng phải ba đểå rơ nước kia không có sâu cạn. Nước không có sâu cạn ví như pháp không có sai khác, chân có dài ngắn là dụ cho trí của mỗi bậc có sáng tối khác nhau. Như vậy pháp vốn không có ba mà người tự có ba hạng vậy. Nay đây điểm khởi đầu của ba thừa th́ tứ đế được nêu lên trước hết. Pháp vốn đă không có sai khác, th́ tứ đế cũng đâu chẳng phải đại, mà nói rằng hàng Thanh văn quán nó địa vị lại ở bậc tiểu. Thế mới biết tứ đế tợ như sông, người ví như thú. Hàng Thanh văn kém nhất dụ như thỏ tuy lội qua sông mà chân không đến đáy, nên chưa có thể biết được chỗ sâu tột, địa vị các Ngài c̣n ở bậc thấp, đâu phải tất cả những người quán tứ đế đều thành tiểu. Như người trí chiếu cao minh, lượng bằng voi lớn th́ có thể đến cùng nguồn tận mé, hiển nhiên thành đại, cho nên biết kẻ hạ trí quán th́ được quả Thanh văn, người trung trí quán th́ được quả Duyên giác, bậc thượng trí quán th́ được quả Bồ-tát. Biết tông rơ ràng há cho toan tính ư ! V́ thế Thanh văn thấy khổ mà dứt tập, Duyên giác ngộ tập tan ră mà quán ly, Bồ-tát thấu rơ nguồn chân biết tập vốn không ḥa hợp. Ba người cùng quán tứ đế nhưng chứng quả có khác nhau, bởi do quán có cạn sâu, đối chiếu hẳn có cao thấp. V́ vậy, hạ thừa tu bậc hạ, chưa tu điều của bậc trung và thượng, Thượng thừa tu bậc thượng mà gồm tu cả trung hạ. Bậc trung tu trung hạ, chẳng tu được bậc thượng. Thượng trung hạ do người, chẳng phải tứ đế khiến người có đại, tiểu. Nhưng ba thừa dù khác mà cùng đồng một điểm trọng yếu là thoát khổ. Thanh văn tuy tiểu, hoặc ái kiến đă trừ nên đối với ba cơi không c̣n lo âu, thân phần đoạn diệt vậy. Ba minh (Ba minh : Túc mạng minh, Thiên nhăn minh, Lậu tận minh.) chiếu sáng tỏ tường nên việc trong tám vạn kiếp hiện tiền, sáu thông (Sáu thông : Thiên nhăn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông, thần túc thông, lậu tận thông.) mặc ư vô vi nên có thể đi xuyên qua vách núi. Có lúc đi đứng trên không hoặc an nhiên ngồi nằm, đi trên nước nhẹ như lông hồng, bước trên đất như đi trên nước, công năng cửu định đầy đủ, mười tám thứ biến hóa tùy tâm. Nhưng trong ba tạng nói Phật là nh́n trên địa vị sáu căn thanh tịnh, nên có bằng có kém, chỗ bằng là cùng trừ tứ trụ, (Tứ trụ : Kiến nhất thiết trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa.) nếu hàng phục vô minh, ba tạng là kém, Phật c̣n là kém, Nhị thừa khá biết. Nh́n lên đoạn và phục tuy khác, ở dưới có sự cách biệt ngộ và mê. Như vậy, Nhị thừa có lỗi ǵ mà chẳng muốn tu ! Đức Như Lai v́ đối với hàng đại căn muốn dẫn họ về bảo sơ,û khiến tu chủng trí đồng khế hợp với chữ y (...) viên măn, đương thời hoặc có khen hay chê, đề cao hay hạ thấp. Hạng phàm phu chẳng biết, rồi lại sợ bị quở, nhưng họ đâu biết ḿnh ái kiến hăy c̣n nên c̣n cách hàng Nhị thừa xa lắm. Tuy cũng nói đến tu đạo nhưng các hoặc sử chưa bỏ, chẳng những thân và miệng chưa đoan chánh cũng là do tâm siểm khúc. Kiến sanh từ nơi ư nên giải trái với chân thuyên, chẳng y theo Thánh giáo, chưa từng học hỏi bậc minh sư. Căn duyên chẳng phải chỉ huân tập từ đời trước, kiến giải chưa dự vào hàng sanh tri, mà có khả năng thế trí biện thông đàm luận suốt ngày, có lúc lấy lời trong kinh bẻ cong theo cái hiểu của ḿnh, luông tuồng nói bậy để dối kẻ ngu, bài bác nhân quả tội phước. Thuận t́nh thỏa thích sanh yêu, nghịch ư bực bội ôm giận, h́nh trạng của ba thọ c̣n nguyên mà tự xưng địa vị đồng hàng Bồ-tát. Các lỗi đă tŕnh bày ở chương đầu chưa dứt th́ chúng hăy c̣n trói buộc người. Pháp Đại thừa chưa tu mà dám chê bậc Tiểu học, nói cho sướng mồm một lúc, cái họa chê bai đành rành, ba đường khổ luân chịu báo nhiều kiếp. Ôi ! Thật đáng thương thay ! Nói đến ḷng thêm chua xót. Nhưng mà người đạt tánh đối cảnh càng thêm soi chiếu, bậc quên tâm cùng với điều thiện chẳng có bận ḷng, huống chi lỗi lầm sái quấy của ba nghiệp đâu để trong tâm một điểm trần.V́ vậy bậc đă soi thấy đạo huyền th́ ba thọ (Ba thọ : khổ thọ, lạc thọ, xả thọ.) đă sạch ở nguồn tâm, hàng tẩy uế đă tảo trừ bảy chi (Bảy chi : Thân có ba là sát sanh, trộm cướp, dâm dục. Miệng có bốn là nói hai lưỡi, nói dối láo, nói hung ác, nói thêu dệt.) của thân miệng. Đối với loại vô t́nh th́ không phạm hạt bụi chiếc lá, đối với loài hữu thức th́ không phiền đến bọ đến sâu, khe sâu chưa đủ trong để sánh với các Ngài, tuyết bay chẳng đủ sạch để so với các bậc ấy. Mến đức như chim tung cánh muốn bay cao tột đến trăng sao, bỏ ác như cá sợ câu lặn sâu tận đáy sông đáy biển. Ánh sáng huyền diệu của mặt trời cũng hổ với sự chiếu xa của trí, thượng giới thẹn cùng ba cơi duyên tiêu. Cảnh trí hợp để rỗng không tṛn đầy, định tuệ quân b́nh để ngang nhau một cách mầu nhiệm. Ruộng dâu dầu đổi nhưng tâm vẫn không dời, núi biển có dời nhưng chí vẫn không đổi, mà có thể ở chỗ huyên náo ngưng thần soi chiếu, nguồn tâm sáng sạch tuệ giải vô cùng. Quán pháp tánh để được chân như, xem lời Phật để y theo liễu nghĩa. Như vậy, trong nhất niệm pháp môn nào chẳng đủ. Bằng như người diệu tuệ chưa bày, tâm không chuẩn đích, giải chẳng hợp lư, hạnh thiếu siêu trần, trái pháp tánh mà thuận phàm t́nh, bỏ viên thuyên mà chấp quyền thuyết. Thế nên theo thứ lớp tùy cơ, đối căn mà lập giáo. Chương này chỉ nói đến giềng mối, c̣n những chi tiết khác bỏ qua chưa bàn đến. Đường lối tông môn có cạn có sâu, nay chỉ nói sơ lược về chỉ thú của nó, cái học của ba thừa có ảnh hưởng là cho biết được phần vị của nó vậy. ] |
[mục lục][tựa][tiểu dẫn][thiền tông vĩnh gia tập]
[chương 01][chương 02][chương 03][chương 04]
[chương 05][chương 06][chương 07][chương 08][chương 09][chương 10]