[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Mục Lục]


Khóa Thứ Ba 
Thinh Văn Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 2

Khổ Đế (Dukkha)

 

A. Mở Đề

Đời Là Một Biển Khổ Đầy Mồ Hôi Và Nước Mắt 

Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những khoái lạc vật chất.

Nhưng họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác ǵ cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn, càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm đắng chát.

Khế kinh có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế ! Cơi đời không vui, cơi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sưon bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của cơi đời là đau khổ. Cơi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, ch́m nổi, trôi lăn. Đó là sự thật. Nhưng sự thật ấy, không ai nh́n thấy một cách tường tận và nói lên một cách rơ ràng như đức Phật đă nói trong khổ đế, phần thứ nhứt của Tứ Diệu Đế.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa Chữ Khổ Đế (DUKKHA)

Khổ đế do chữ Dukkha mà ra. "DU", nghĩa là khó; "KKHA" là chịu đựng, khó kham nhẫn. Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái ǵ làm cho ḿnh khó chịu, ḿnh đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, sợ hăi v.v..

"ĐẾ" là một sự thật vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả.

Khổ đế, là sự thật đúng đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian. Sự thật nầy nó rơ ràng, minh bạch không ai có thể chối căi được.

Dưới đây, chúng ta hăy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ của thế gian.

II. Luận Về Sự Khổ Của Thế Gian

Kẻ cho hết cả sự khổ ở thế gian, th́ không bao giờ cùng. Song căn cứ theo kinh Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ khổ (bát khổ).

1. Ba khổ: Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

a) Khổ khổ. Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đă là khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ"

Thật thế, mỗi một chúng sanh, tự ḿnh đă là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu xa; thân thể là một bầu thịt xương dưo bẩn, nếu một vài ngày, không săn sóc, rửa ráy, th́ thối tha không thể chịu đựng được. Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắn, mà trái lại rất mong manh: khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm một số vi trùng độc...thế là mạng vong.

lại trên cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, c̣n nhiều cái khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh tật, đói khát, băo lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng v.v...V́ thế nên gọi là "khổ khổ".

b) Hoại khổ. Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có h́nh tướng đều phải bị hoại diệt". Thực thế, vạn b\vật trong vũ trụ đều bị luật vô thường chi phối, không tồn tại măi được. Cứng rắn như sắt đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trờ lâu ngày cũng tan ră. Yếu ớt, nhỏ nhen như thân người, th́ mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du ! Cái búa tàn ác của thời gian đạp phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể cản ngăn, chống đỡ không cho thời gian hủy diệt đời ta. ta hoàn toàn bất lực trước thời gian. Thật là khổ sở, tủi nhục, đớn đau !.

c) hành khổ. Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại; c̣n về phương diện tinh thán, ta cũng không hề tự chủ, yên ổn, tự do được. tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây. tư tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương, như con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời Phật dạy: "tâm viên, ư mă".

Nếu xét sâu xa hơn nữa, ta sẽ thấy tâm hồn ta c̣n bị cái phần bên trong kín sâu, nằm dưới ư thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô cùng mănh liệt trong mỗi ư nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều là do tiềm thức ta sai sử, ra mệnh lệnh.

Nói tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ư tưởng, dục vọng, tiềm thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Đó là "Hành khổ".

2. Tám khổ: nếu chúng ta phân tích tỉ mỉ hơn, th́ cái khổ của thế gian có thể chia ra làm tám loại. tám loại này tựu trung cũngk ngoài ba khổ kia.

Tám loại khổ: sanh khổ, lăo khổ,bệnh khổ,tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng ta hăy nói rơ về tám nỗi khổ ấy.

a) Sanh khổ: Sự sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh, khổ trong đời sống.

Khổ trong lúc sanh. Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có thai là đă bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dả dượi, bất thần...Thai mỗi ngày mỗi lớn, th́ người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Đến khi gần sanh, sự đau đớn của người mẹ không sao nói xiết. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, v́ tinh huyết hao ṃn, ngũ tạng suy kém. C̣n rủi bị nghịc thai, th́ mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật suốt đời.

C̣n con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sdở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hăm trong khoảng tối tăm, chật hẹp, c̣n hơn cả lao tù ! Mẹ đói cơm, khát nước, th́ con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. mẹ ăn no th́ con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Đến kỳ sanh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a ! Khổ a !". Thật đúng như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:

"Thảo nào lúc mới chôn nhau

Đă mang tiếng khóc ban đầu mà ra !"

Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở.

Về vật chất, con người đ̣i hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, th́ có khi suốt đời vất vả làm lụng, vẫn không đủ sức tạo được một ngôi nhà nho nhỏ.

Nhưng chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường, thiếu thốn cũng đă là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa không che được nắng mưa, cũng đă là khổ rồi. Nhưng nào phải chỉ có những người nghèo hèn mới khổ đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường: muốn có tiền, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ đâu phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu ! Đó là c̣n chưa nói dến những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa mà không ai có thể tránh khỏi được.

Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều đièu kổ nhục, có nhiều khi c̣n đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói ǵ nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi.

Muốn t́m lẽ phải, chơn lư, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả về phương diện lư thuyết lẫn thực nghiệm. về lư thuyết ta học trong sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm ta cũng gặp lắm điều khổ sở, khó khăn. Như học lư thuyết với thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học tṛ không thu nhận được ǵ hết, thế là người giận kẻ buồnm khổ tâm quá ! C̣n tự học ở nhà với quyển sách trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, cũng là khổ. Về sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất đắc. ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ...bao nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một phần nào là ta đă phải chịu đựng biết bao nhục nhă, khổ đau.

Tóm lại, về vật chất hay tinh thầnh, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là thế.

b) Lăo khổ. Ca dao có câu:

"Già nua là cảnh cảnh điêu tàn

Cây già cây cỗi, người già người si".

Con người đến lúc già, thân thể hao ṃn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn tinh thần.

Khổ thể xác. Càng già, khí huyết càng hao ṃn. Bên trong, ngũ tạng, lục phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc ǵ cũng nhờ vả kẻ khác.

Đă vậy, mỗi khi thời tiết xoay trở th́ cảm nhiễm theoi khí hậu mà đau, như trời mới nắng th́ đă sốt, trời mới mưa th́ đă rét v.v.. không chút ǵ gọi là vui thú cả !

Khổ tinh thần. Người xưa có nói: "Đa thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi nhiều, nhục lắm ! Càng già thân thể càng suy kém th́ trí tuệ cũng càng lu mờ. Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, nhớ sau, hành động như kẻ ngây dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại c̣n chửi bới, nói nhảm nhí làm tṛ cười cho lũ trẻ. Thật đúng là "Lăo khổ".

c) Bệnh khổ. hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổt sở không ǵ hơn là cái đau ! Đă đau, bất luận là đau ǵ, từ cái đau lătk vặt như đau răng, nhức đầu, đến cái đau trầm trọng như phung, lao v.v...đều làm cho con người phải rên xiết, khổ sở, khó chịu. Nhất là những bệnh trầm kh (lâu ngày khó chữa), th́ lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹ nước, cầu sống không được, cầu chết cũng không, oan oan ương ương, thật là khổ năo.

Thân đă đau, mà tiền lại hết. Có nhiều người sau một ậnnn đau, chỉ c̣n hai bàn tay trắng ! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết mấy".

Ngoài ra, bệnh tật lại c̣n làm cho lục thân quưet thuộc buồn rầu, lo sưọ. Mỗi lần trong nhà có người đau, th́ cả gia quyến đều rộn rịp, băn khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, boếng nói, biếng cười, bỏ công ăn việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ".

d) Tử khổ. Trong bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết th́ "chết" là cái làm cho chúng sanh kinh hăi nhất. Con người sợ chết đến đổi ở trong hoàn cảnh sống thừa, đang slẽ không nên sống làm ǵ nữa, thế mà nghe nói đến cái chết, cũng sợ không dám nghĩ đến. Những người xấu số bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hũi, sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi.

Cái chết làm khổ con người như thế nào mà ai cũng sưọ hăi thế?

Về thân xác. Có mục kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi mới biết cái chết là đáng sợ. người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ mắt, méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn ḿnh, giăng tay, bẻ chân...Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, miệng hết nói. Rờ thử vào người chết, th́ thấy lạnh ngắt như đồng, thân cứng đơ như gỗ. xác chết dần dần śnh lên, trong rát ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy nước tanh hôi khó chịu vô cùng.

Về tinh thần. Khi sắp chết, tâm thần rối loạn, sợ hăi vô cùng: phần xót thương cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo ḿnh một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ. Thật không c̣n ǵ đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này !

Tóm lại, cái chết làm cho thân thể tan ră, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cơi nào chưa rơ. Thật là "tử khổ".

e) Ái biệt ly khổ. Trong cái t́nh yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, th́ thật không có ǵ đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.

Sanh ly khổ. Một gia đ́nh đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng b́ hoàn cảnh bắt buộc, hay v́ một tai họa th́nh ĺnh xảy đến, như giặc giă, băo lụt...làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này trông đợi, người gốc kia nhớ chờ. thật đau ḷng xót dạ ! Người đời thường nói: "Thà ĺa tử, chứ ai nỡ ĺa sanh?". Đó là cái khổ của "Sanh ly".

Tử biệt khổ. Nhưng mặc dù xă cách nhau người sống c̣n có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi bao thuở được vum vầy? V́ vậy, đứng trớc cảnh chết, là một sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chằng khổ đau. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đă xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố. Đó là cái khổ của "tử biệt".

g) Cầu bất đắc khổ (thất vọng). Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều th́ thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề ǵ, số người được toại nguyện th́d quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại bất như ư, th́ không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều thành công. thế rôùi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đay, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà ng đời thường gặp nhiều nhất.

Thất vọng v́ công danh. Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được? Không nói ǵ đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng nănglực, tài trí, học hỏi của ḿnh. Đối với những hạnh người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia Thiều đă nói:

"Gót danh lợi, bùn pha sắc xám

Mặt phong trầng nắng nám mùi dâu !"

Thất vọng v́ phú quư. Số người thất vọng v́ công anh đă nhiều. Nhưng sô sn thất vọng v́ phú quư cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người t́m mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhă theo, thực là khổ !

Thất vọng v́ t́nh duyên. T́nh duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường t́nh ái, thử hỏi đă mấy ai được toại nguyện? Nhan nhăn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện t́nh duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Đấy là "Cầu bất đắc khổ".

h) Oán tắng hội khổ. Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng oái oăm thay ! Ở đời khi mong muốn được hội ngộ, lại phải chia ly; cũng như khi mong ước được xa ĺa, lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày ! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, th́ cái khổi phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.

Người ta thường nói: "Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai".

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đ́nh bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi v́ một lư do ǵ đó, sanh ra bất ḥa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau măi ! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng. Định tuyệt giao hẳn, ngặt v́ c̣n phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sắc trốn tránh, song lắm lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Đấy là bà con cật ruột, có t́nh cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn ghét c̣n thúc đẩy con người hết muón thân mến, không mong gặp gỡ nhau thay ! Huống chi đối với người dưng, nước lă, khác giống, khác ṇi, một khi đă thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau th́ thế nào cũng có một ngày xảy ra đại họa. Đó là ư nghĩa của "Oán tắng hội khổ".

i) Ngũ ấm xí thạnh khổ. Cái thân tứ đại của con người cũng gọi là thân ngũ ấm (năm món che đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Với cái thân ngũ ấm ấy, con người phải chịu không biết bao nhiêu là điều khổ. Giữa ngũ ấm ấy luôn luôn có sự xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau. V́ sự xung đọt, mâu thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khổi sau đây:

Bị luật vô thường chi phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ đau đến chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền.

Bị thất t́nh, lục dục lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiểm sáu trần, phải khổ lụy thân tâm.

Bị vọng thức điên đảo chấp trước, nên con người nhận thất một cách sai lầm: có ta, có người, c̣n mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo, khổ năo.

Aáy là "Ngũ ấm xí thạnh khổ."

III. Đức Phật Nêu Rơ Những Nỗi Khổ Ấy Để Làm Ǵ
Có người sẽ băn khoăn, thắc mắc tự hỏi: Đức Phật nêu lên một cách rốt ráo những nỗi khổ của thế gian để làm ǵ? Cuộc đời đă đau khổ như thế, th́ nên che giấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó ra làm ǵ cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng tạo nên một ảo tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong ấy, có hơn không? Đứa trẻ nít sống một cách ḥn nhiên, yên ổn trong hạnh phúc, v́ nó không biết đến những nỗi đau khổ, xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt chước như chúng, đừng t́m biết ǵ cả về những sự xấu xa, khổ sở của cơi đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Đức Phật là một đấng thường được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một vịwc nhẫn tâm như thế?

Những câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe th́ h́nh như có lư, nhưng nếu suy xét một cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Đức Phật không nhẫn tâm khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cơi đời; chính là v́ ḷng từ bi mà Ngài làm như thế. Đức Phật muốn cho người đời biết rơ những nỗi khổ của trần gian, v́ những lợi ích lớn sau đây:

1. Gặp cảnh không khủng khiếp: Những nỗi khổ mà Đức Phật nói ra ở trên là những nổi khổ căn bản, không ai tránh khỏi được. Đă sống, tất phải gặp chúg. Có ai không ốm, không già, không chết? Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc, không bị chung sống với những kẻ thù nghịch? Có ai đạt được tất cả những điều ḿnh mong ước? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo tưởng đẹp đẽ về cuộc đời để sống cho yen ổn, th́ ảo tưởng ấy, sớm hay muộn ǵ cũng sẽ bị thực tế phủ phàng xé tan đi mất ! Và khi ấy, cuộc thế tràn truồng, xấu xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ thường quan sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu chuẩn bị để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô cùng tuyệt vọng và có nhiều khi không đủ can đảm để sống nữa.

Trái lại, khi chúng ta biết rơ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, th́ gặp cảnh khổ, chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để t́m phương giải thoát. Tỷ như nhà nông, biết bổn phận ḿnh là phải vất vả với nghề cày sâu cuốc bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn, nắng táp cũng không nao núng chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn loạ, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hăi và liều ḿnh tự tử.

2. Không tham cầu nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối: Khi chúng ta rơ biết cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều th́ lại càng đau khổ lắm, khi biết rơ như thế, chúng ta sẽ tiết chế dục vọn của chúng ta và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta không bị hoàn cảnh chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi dạp chúng ta xuống vực thẳm mênh mông của cơi Ta Bà đen tối. Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết lo nghĩ phương kế để thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù, chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quen rằng ḿnh sẽ bị đem xử tử, nếu ḿnh không sớm t́m kế thoát thân.

3. Gắng sức tu hành để thoát khổ: Khi đă biết thân người nhiều khổ và cảnh Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi cảnh giới đen tối của ḿnh và sống ở một cảnh giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang cháy, may nhờ đáng cha lành bào động, chúng mới biết và gấp rút t́m đường thoát ra.

C. Kết Luận

Biết Khổ Phải T́m Nguyên Nhân Sanh Ra Khổ Để Diệt Trừ 

Chúng ta đă được đức Phật từ bi chỉ rơ cho thấy rằng cơi Ta Bà này, cũng như tam giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cơi không an, ví như nhà lửa", tiếc v́ chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà không tự biết, nên phải bị trầm luân.

Nay chúng ta đă biết rơ mặt thật xấu xí của đời rồi, đă biết nó là một biển khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, th́ ta phải nhàm chán nó, xă lánh nó. Biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than. Nhưng làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta chưa rơ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa biết rơ v́ đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi muốn trừ bênh, phải t́m căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn trừ diệt tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào huyệt, tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây, đánh bắt chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng.

Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải t́m nguyên nhân phát sanh ra khổ.

Nguyên nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đă thuyết trong đoạn thứ hai của tứ diệu đế là Tập đế, mà quư độc giả sẽ đọc trong bài thứ ba của tập sách này.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]