[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Mục Lục]


Khóa Thứ Hai 
Thiên Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 6

Luân Hồi 

 

A. Mở Đề:
Vấn đề mất cón, sống chết là một vấn đề vô cùng quan trọnhg, từ xưa đến nay đă làm băn khoăn, thắc mắc không biết bao nhiêu người, đă làm hao tổn không biết bao nhiêu giấy mực. aạu trung, có hai thuyết làm cho người ta chú ư đến nhiều nhất:
Một thuyết cho rằng, loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không c̣n ǵ tồn tại sau đó nữa: "Cát bụi, con người trở về với cát bụi"
Một thuyết chủ trương trái lại: loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn c̣n lại, để lên thiên đàng, thọ hưởng măi măi những sự khoái lạc, an vui, hay xuống địa ngục chịu cực h́nh măi măi.
Hai thyết trên nầy đều không đúng với sự thật:
Chết rồi, không thể là hoàn toán mất hẳn được, v́ như chúng ta ở đời nầy, không có vật ǵ là mất hẳn. Cho đến một hạt cát, một mảy lông cũng không thể mất hẳn, huống là cái thân hay biết nơi con người.
Nhưng bảo rằng linh hồn thường c̣n, ở măi trên thiên đàng hay dưới địa ngục cũng không đúng. Sự nhận xét thông thường cũng đủ cho người ta nhận thấy rằng: trong vũ trụ không có một cái ǵ có thể vĩnh viễn ở yên một chỗ, mà trái lại, luôn luôn biến đổi và xê dịch. Vả lại, có ǵ bất công hơn là chỉ v́ những cái nhân đă gieo trong một đời hiện tại ngắn ngũi, mà phải chịu cái quả vĩnh viễn tốt hay xấu trong tương lai?
Hai thuyết "chấp đoạn"và "chấp thường" trên nầy đều bị đạo Phật bác bỏ. Theo giáo lư đạo Phật th́ chúng sanh không phải đoạn diệt, cũng không phải thường c̣n, mà là quay lộn trong cảnh sanh tử Luân hồi.

B. Chánh Đề:
I. Định Nghĩa:
Luân hồi dịch ở chữ Samsera trong tiếng Phạn. Theo chữ Hán th́ Luân là bánh xe; Hồi là xoay tṛn. H́nh ảnh bánh xe quay tṛn là một h́nh ảnh rất rơ ràng mà Phật đă dùng để h́nh dung sự xoay chuyển, lên xuống, xuất hiện của mỗi chúng sanh trong sáu cơi (lục đạo) khi đầu thao ở cơi nầy, khi ở cơi khác, luôn luôn tiếp nối tử sanh, sanh tử không ngừng, như bánh xe lăn. Luân hồi là một thuyết có thể chứng nghiệm được, chứ không phải hoang đường.
Khi chúng ta đă công nhận luật nhân quả, th́ chúng ta cũng không thể từ chối, không công nhận sự Luân hồi, v́ Luân hồi chẳng qua là nhân quả liên tục, nhưng v́ nó khi biến, khi hiện, khi lên, khi xuống, khi mất, khi c̣n, khi thay h́nh đổi dạng, nên chúng ta tưởng như gián đoạn và không ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau đó thôi.
II. Sự Luân Hồi Trong Mọi Sự Vật Và Người 
Trong vũ trụ tất cả sự vật, từ vật nhỏ như hạt bụi, đến lớn như quả địa cầu, không vật nào chẳng Luân hồi.
1. Đất Luân hồi:
Như cái b́nh bông đang ở trước mặt chúng ta đây, trước kia nó là đất, người thợ gốm đem nó nhồi nắn làm thành cái b́nh, trải qua một thời gian, cái b́nh sẽ bị bể nát, tan thành cát bụi và trở về lại trạng thái đất cát. Đất cát nầy lại làm thức ăn cho cây cỏ; cây cỏ hoặc tàn rụi, sau một thời gian, để trở thành phân bón cho cây khác, hoặc làm thực phẩm cho động vật. Động vật ăn cây cỏ nầy vào, hoặc bài tiết ngayra ngoài để thành phân, thành đất, hoặc biến thành máu huyết, da thịt để một ngày kia thân thể động vật già yếu, sẽ tan ră thành đất cátlại. Bao nhiêu lần thay h́nh đổi dạng, v́ nhân duyên nầy hoặc nhân duyên khác, nhưng đất cát, nó cũng lại trở thành đất cát sau một thời gian, một ṿng luân chuyển dài hay ngắn.
2. Nước Luân hồi:
Nước ở biển, bị sức nóng mặt trời bốc thành hơi; hơi bay lên không, gặp hơi lạnh biến thành mây; mây nhiều tụ lại rơi xuống thành mưa; mưa chảy xuống ao hồ, hoặc gặp hơi lạnh quá, đọng lại thành băng thành giá. Băng giá gặp hơi nóng mặt trời tan ra thành nước lại. Từ vo thỉ đến nay, nước thay đổi trạng thái biết bao nhiêu lần, xoay vần măi măi như vậy, nhưng nước vẫn là nước. Hiện tượng của nước th́ biến đổi vô cùng, bản thể của nước th́ không bao giờ mất. Nó chỉ Luân hồi mà thôi.
3. Gió Luân hồi:
Gió là sự luân chuyển của không khí. Không khí bị sức nóng mặt trời bốc cháy. giăn ra, bốc lên cao làm thành những khoảng trống. Để bù vào những khoảng trống ấy, không khí ở các nơi khác chạy tới điền vào, gây thành luồng gió. Không khí xê dịch chậm th́ gió nhỏ, không khí xê dịch nhanh th́ gió lớn. Xê dịch nhanh nữa th́ thành băo. Gió có khi hiu hiu, khi thoang thoảng, khi hây hây, khi ào ào, khi cuồng bạo, nhưng bản chất của nó bao giờ cũng là không khí.
4. Lửa Luân hồi:
Lửa là một sức nóng làm cháy được vật. Khi đủ nhân duyên th́ sức nóng phát ra lửa. Chẳng hạn hai thanh củi trong trạng thái b́nh thường th́ chúng ta chẳng thấy sức nóng, ở đâu cả, nhưng khi chà xát vào nhau một hồi, th́ lửa liền bật lên. Ngọn lửa nầy có thể đốt hai thanh củi kia, và hai thanh củi nầy một phần hóa thành tro than, một phần biến thành thán khí. Những cây khác dùng rễ ḿnh để thu hút thán khí, chất chứa lại sức nóng để một ngày kia, gặp đủ nhân duyên lại bừng cháy lên. Như thế, sức nóng bao giờ cũng có sẵn, nhưng khi th́ nó ở trạng thái tiềm phục, khi th́ ở trạng thái phát hiện. Mắt chúng ta chỉ thấy khi nó phát hiện, và chỉ khi ấy mới cho là nó có, c̣n khi nó ở trạng thái tiềm [hục th́ ta bảo là nó không có. thật ra th́ nó chỉ Luân hồi qua những trạng thái khác nhau, chứ không phải dứt đoạn hay mất hẳn.
5. Cảnh giới Luân hồi:
Trong khinh Phật thường nói: ỘThế giới nhiều như cát sông HằngỢ. Thật thế, ban đêm chúng ta nh́n lên trời, thấy hằng hà sa số tinh tú. Mỗi tinh tú là một thế giới. và mỗi thế giới ấy đều không thoát ra ngoài định luật chung là Thành, Ttu, Hoại, Không. Mỗi phút giây nào cũng có sự sanh diệt của thế giới. Thế giới nầy tan đi, th́ thế giới khác nhóm lên, như một làn sóng nầy mất đi th́ một làn sóng khác nổi lên, làm nhân làm quả, tiếp nối cho nhau, Luân hồi không bao giờ dứt.
6. Thân người Luân hồi:
Thân người, hay thân thú vật cũng thế, xét cho cùng th́ cũng do tứ đại mà có là đất, nước, gió, lửa. Những chất cứng dẽo như da thịt gân xương là thuộc về Đất; những chất đượm ướt như máu, mỡ, mồ hôi, nước mắt, là thuộc về Nước; hơi thở ra vào, trái tim nhảy, phổi hô hấp, tay chân cử động là thuộc về Gió; hơi nóng trong người là thuộc về Lửa. Như trên chúng ta đă thấy, tứ đại đều Luân hồi, th́ thân người do tứ đại mà có, cũng phải Luân hồi theo. Khi thân nầy chết và đến lúc tan ră, th́ chất cứng dẽo trả về cho Đất; chất đượm ướt trả về cho nước; hơi nóng trả về cho Lửa; hơi thở và sự cử động trả về cho Gió. Rồi bốn chất nầy tùy theo duyên chung hợp lại, làm thành cây cỏ hay thân người khác. Người khác đến khi chết rồi, bốn chất đó trở về bản thể cũ của chúng. Khi thành thân người, lúc làm thân súc, năm nay tụ hợp ở đây, sang năm đă dời đi nơi khác, không phải thường c̣n, cũng không phải mất hẳn, mà là Luân hồi.
Nhà Học giả tiếng tăm của Trung Hoa là ông Lương Khải Siêu có nói, trong khi nghiên cứu về Phật Giáo Ấn Độ:"...Con người luôn luôn, trong từng phút giây đều ở trong Luân hồi, bất quá hoặc mau hoặc chậm. Chậm th́ gọi là sanh diệt hoặc biến dị, c̣n mau th́ gọi là Luân hồi" (Luân hồi chẳng qua cũng là một h́nh thức trong các loại biến dị). Xem như xác thânh chúng ta, biến hóa không ngừng, xương thịt máu huyết chúng ta, chẳng qua không đầy một tuần, cũng rất có thể hóa ra đất bụi bên đường."
7. Tinh thần Luân hồi:
Con người không phải chỉ gồm có tứ đại. Ngoài tứ đại, c̣n có phần tâm lư nữa, hay nói một cách tổng quát hơn, c̣n có tinh thần. Đó là gồm tất cả những thứ mà đạo Phật gọi là: Thọ, tưởng, hành, Thức. Phần thể xác gồm tứ đại chỉ là phần mà đạo Phật gọi là Sắc. Sắc đă không tiêu diệt mà chỉ biến hóa Luân hồi, th́ Tâm hay Tinh thần, cũng không tiêu diệt mà chỉ biến chuyển xoay vần mà thôi.
Như trong chương II đă nói, tất cả những hành động của thân tâm tạo thành cho mỗi chúng ta một cái nghiệp. Cái nghiệp ấy biến dịch, xoay vần măi, khi đội lớp nầy khi mang h́nh dáng khác, khi rời cảnh giới nầy, khi vào cảnh giới khác, quanh lộn trôi lăn trong lục đạo (sáu đường) măi măi cho đến ngày nào được giác ngộ mới thôi.
Nhưng sự lên xuống, trôi lăn, xoay vần của nghiệp trong ba cơi sáu đường ấy, không phải t́nh cờ, ngẫu nhiên, may rủi, vô lư, mà trái lại, nó theo một cái định luật chung, đó là luật Nhơn quả. Đến đây, chúng ta thấy được sự tương quan mật thiết giữa nhơn quả và Luân hồi. Đă có Nhơn quả, tức phải có Luân hồi (trừ trường hợp tu nhơn giải thoát); đă có Luân hồi phải tuân theo luật Nhơn quả.
III. Luân Hồi Theo Luật Nhân Quả Qua Sáu Cơi
Có thể nói một cách chắc chắn rằng, chúng ta lúc sanh tiền tạo nhân ǵ, th́ khi chết rồi, nghiệp lực dắt dẫn tinh thần đến chỗ nó thọ báo không sai. nếu tạo nhân tốt, th́ Luân hồi đến cảnh giới giàu sanh, thân người tốt đẹp. C̣n tạo nhân tội ác, th́ Luân hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân h́nh xấu xa, tàn tật, sự nghiệp khi thăng khi giáng, lúc thạnh lúc suy.
Sau đây là những cảnh giới mà một chúng sinh có thể bị hay được nhập vào, tùy theo nghiệp nhân mà ḿnh tạo:
1. Địa ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại ḿnh vừa hại người, phải Luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở.
2. Ngạ quỷ: Nhân tạo tham lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, giúp đỡ người, từ tiền của đến giáo pháp. Trái lại, c̣n mưa sâu, kế độc, để cướp đoạt của người, sau khi chết, Luân hồi làm ngạ quỷ.
3. Súc sanh: Tạo nhân si mê sa đọa theo thất t́nh, lục dục, tửu sắc, tài khí, không xét hay dỡ, tốt xấu, chết rồi, Luân hồi làm súc sanh.
4. A Tu La: gặp việc nhân nghĩa th́ làm, gặp việc sai quấy cũng không tránh, vừa cang trực, mà cũng vừa độc ác. mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tánh t́nh hung hăng nóng nảy vẫn c̣nm, lại thêm tà hiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ Luân hồi làm A Tu La, gặp vui sướng cũng có, mà buồn khổ cũng nhiều.
5. Loài người: Tu nhân Ngũ Giới: Không sát hại, không trộm cướp, không tà dâm, không dối trá, không rượu trà say sưa, th́ đời sau trở lại làm người, cao quư hơn muôn vật.
6. Cơi trời: Bỏ mười điều ác tu nhơn Thập thiện (bài sau sẽ nói rơ) th́ sau khi chết, được sanh lên cơi trời. Nhưng nên nhớ cơi trời nầy cũng c̣n ở trong ṿng phàm tục, chịu cảnh sanh tử, Luân hồi.
Muốn thoát ra ngoài cảnh giới sanh tử Luân hồi, và đến bốn cơi Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, và Phật, th́ phải tu nhân giải thoát.
IV. Vài Bằng Chứng Về Luân Hồi Một Chuyện Luân Hồi Ở Aán Độ 
Cách đây vài chục năm, tờ báo Mai có chụp h́nh và đăng một câu chuyện như sau:
Tại Aán độ, ở thánh Delhi (đen li) có một cô gái 8 tuổi tên Phatidevin (Pha ti đơ vanh). Co gái đă nhiều lần khóc lóc với cha mẹ đ̣i về thành Mita thăm chồng là một giáo viên. Thành Delhi cách thành mita trên 200 cây số. Cha mẹ co gái lấy làm lạ, mờ một phóng viên nhà báo đến, để nhờ anh điều tra giùm.
Phóng viên nhà báo đén hỏi, th́ được cô cho hay rằng: Cô là vợ của một giáo viên, ăn ở với nhau sanh được một đứa con. Khi đứa con lên 11 tuổi, th́ cô lâm bịnh và từ trần. Người phóng viên hỏi xem cô ta, có cái ǵ làm bằng chứng không. Cô trả lời cô có để lại vàng bạc và đồ đạc chôn ở chỗ nọ chỗ kia...Và cô c̣n nhớ rơ có một cái quạt, do người chị em bạn tặng, trên quạt có ghi lại mấy ḍng chữ, rồi cô đọc mấy dơng chữ ấy cho phóng viên chép vào sổ tay.
Phóng viên liền đến thành Mita, t́m hỏi tên họ ông giáo viên, th́ thật quả không sai. Phóng viên hỏi ông giáo:
Ông có người vợ chết độ 8,9 năm nay phải không?
Ông giáo trả lời:
Vâng, có ! Vợ tôi chết nay đă chín năm. Chảng biết ông hỏi có việc chi?
Phóng viên tŕnh bày những lời cô bé đă nói.
Ông giáo nghe đều cho là đúng cả.
Phóng viên lại lấy quyển sổ tay đưa mấy ḍng chữ cho ông giáo, đọc và hỏi:
Khi vợ ông mất, có để lại một cây quạt, trên ấy có ghi mấy ḍng chữ như thế này có phải không?
Ông giáo trả lời:
trúng y như vậy cả !
Qua ngày sau, phóng viên lại mời cha mẹ và cô Phatidevin cùng đi tới thành Mita. từ khi sanh ra đến tám tuổi, cô chưa từng đi xa, thế mà đường đi đến thành Mita, cô đều thuộc cả, cô chỉ đường nầy là đường ǵ, đi về đâu, đường kia tên ǵ, đi về đâu, và c̣n nói trúng cả tên những nhà quan ở hai bên đường nữa. gần đến nhà ông giáo, cô bảo xe đi chậm lại và dừng ngay trước nhà ông giáo.
Vào đến nhà, gặp ông già độ 80 tuổi, đầu tóc bạc phơ, cô vừa mừng vừa khóc ̣a mà nói rằng:
Đây là cha chồng tôi.
Cô chỉ ông giáo mà nói:
Kia là chồng tôi.
Rồi chạy lại ôm đứa con mà khóc và nói:
Đây là con tôi.
Mọi người trông thấy ai cũng lấy làm ngạc nhiên và cảm động !
Việc này làm sôi nổi dư luận Aán độ và các báo trên thế giới đều bàn tán xôn xao. Các nhà Bác học ra sức t́m ṭi nghiên cứu, nhưng không sao giải thích được. Chúng ta đă rơ biết lư Luân hồi, th́ việc này cũng chẳng lại ǵ.
Một Chuyện Luân Hồi Ở Mỹ 
vào khoảng năm 1956, ở Mỹ có một thiếu phụ 33 tuổi, tên ỘXi MôngỢ (Ruth Simmons) v́ quá tin tưởng có kiếp Luân hồi nên cô đă nhờ nhà thôi miên ỘMô rây Bét tanhỢ (Morey Bernstein) giúp, được thấy lại kiếp trước của cô. Nhà thôi miên kia, sau khi đưa cô vào giấc ngủ, liền bảo:
Thử nhớ lại hồi 10 tuổi, cô đă làm ǵ?
Cô Xi Mông, trong cơn mê, nói lại thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:
Thử nhớ lại hồi 10 tuổi, cô đă làm ǵ?
Cô Xi Mông, trong cơn mê, nói lại thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:
Bây giờ thử nhớ lại lúc cô 1 tuổi, cô thấy ǵ?
Cô trả lời bằng những tiếng bập bẹ y như đứa trẻ chưa biết nói. Nhà thôi miên lại dồn hết tinh thần vào cặp mắt, nh́n thẳng vào mặt cô Xi Mông và nói:
Thử nhớ lại tiền kiếp của cô?
Sau một lúc im lặng, cô Xi Mông mới nói, nhưng giọng nói của cô đă đổi khác, giọng Ái Nhĩ Lan (ở Anh Quốc), chứ không phải giọng người Mỹ.
Cô kể lại rằng:"Kiếp trước cô đầu thai vào gia đ́nh họ "Mướt phi" (Murphy) ở làng "Cót" (Cork) bên Ái Nhĩ Lan vào năm 1898. Cô tả tơi chôn nhau cắt rún của cô và cho biết nhiều chi tiết về làng này. Cô nói thêm rằng chồng cô tên "Mắc Các Ty" (Brian Mac Carthy), giáo sư trường luật đă từng cộng sự với tờ báo "Ben phát niu" (Belfast News). Rồi sau cùng cô nói đến ngày cô chết, mả cô hiện ở đâu, và cô phải làm ma hơn một thế kỷ. Sau đó, cô đầu thai vào gia đ́nh họ "Xi Mông" (Simmons) ở Mỹ hồi năm 1923.
Nhà Thôi miên đă thâu tất cả lời nói của Xi Mông về tiền kiếp của cô, và sau đó viết một quyển sách nhan đề là: ỘĐi t́m gốc tích cô Mướt phi (Murphy)Ợ. Sách này in ra 170 ngàn cuốn, và chỉ trong ba tháng đă bán sạch. Sau đó, nhà Thoi miên lại lấy lời thuật chuyện của cô Xi Mông thâu vào ba mươi ngàn (30.000) dĩa nhựa và chỉ trong hai ngày đă bán sạch.
Chuyện này báo chí quốc tế có đăng tin, riêng ở Pháp có tờ "Ba ri Mách"Baris Math) thuật lại rất rơ; ở Việt Nam cũng có nhiều tờ báo nói đến, như tờ Tin Điển, tờ Liên Hoa v.v...
Một Câu Chuyện Thay Nghiệp Đổi Xác Ở Việt Nam 
Ở Cà Mau cách đây vào khoảng 30 năm, có một câu chuyện lạ lùng đă làm dư luận bàn tán xôn xao:
Oâng Cả Hiêu, ở làng Tân Việt, xứ Đầm Dơi (Cà Mau) có cô gái 19 tuổi, lâm bịnh rồi chết. Cách đó độ 100 cây số, ông Hương Thừa ở làng Vĩnh Mỹ (Bạc Liêu) cũng có cô con gái đau rồi chết, nhưng lại sống lại. Khi sống lại, cô nầy nh́n không biết cha mẹ và nói chuyện đâu đâu, không ai hiểu ǵ cả. Cha mẹ cô tưởng rằng, v́ cô đau nên lăng chí nói bậy. Nhưng khi cô lành mạnh hẳn, cô lại khóc lóc, một hai đ̣i về nhà ông Cả Hiêu và chỉ cả nơi ở, làng tổng rơ ràng nữa.
Cha mẹ cô cho người đến t́m ông Cả Hiêu và thuật câu chuyện cho vợ chồng ông này nghe. Vợ chồng con cái ông Cả nghe xong, đều đi đến xem thật hư như thế nào.
Khi mọi người đến nơi, cô gái chạy ngay đến ôm ông Cả, bà Cả khóc kể...Rồi cô thuật những chuyện đă xảy ra trong nhà ông Cả, không sai một mảy. Vợ chồng ông Cả, tuy thấy xác cô gái này không phải con ḿnh, nhưng về tinh thần lại chính là con họ, nên đều thương yêu và công nhận là con. Về sau, cô hưởng được hai phần gia tài của cải, cả hai bên cha mẹ.
V. Quyết Nghi
1. Có người hỏi: Nếu có luân hồi, th́ khi chết rồi, một người chỉ sanh lại một người thôi, tại sao trên thé giới nầy, khi mới khai thiên lập địa, chưa có người, mà cứ mỗi ngày nhân loại cứ thêm đông? Vậy do đau mà có nhiều người thế?
Trả lời: Trong đoạn trước, chúng tôi đă nói: chúng sinh luân hồi trong sáu cảnh giới là Thiên, Nhơn, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, và một chúng sanh ở cảnh giới này, có thể đầu thai qua cảnh giới khác, đắp đổi cho nhau, khi lên khi xuống, chứ không phải chỉ có người mới đầu thai làm người mà thôi. Những loài thú có những tâm trạng gần giống người, có thể đầu thai làm người được, cũng như những người, có tâm trạng lang sói, sẽ trở thành lang sói.
Hơn nữa, trong đoạn trước, chúng ta cũng đă thấy, trong kinh Phật có chép: thế giới trong vũ trụ nầy nhiều như cát sông Hằng, chứ đâu phải chỉ một quả đất nầy là trung tâm điểm của vũ trụ, và mới coù người? Các nàh bác học cũng công nhận mỗi ngoi sao là một thế giới, trong hằng hà sa số thế giới ấy, có biết bao nhiêu là thế giới có hoàn cảnh giống như quả đất nhỏ bé chúng ta đang ở đây ! Thế giới đă nhiều như thế, th́ nhân loại đâu phải ít? Tại sao chúng ta không thể tin được rằng: thế nào cũng có sự luân chuyển, sự lưu thông, sự trao đổi về phương diện tinh thần, về cái nghiệp giữa thế giới khác? Mỗi một thế giới sặp hoại, th́ chúng sinh ở thế giới ấy sẽ di cư đến thế giới khác, gần đó. Trong kinh Địa Tạng có chép:
"Thử thế giới hoạt thời, hoàn kư tha phương.."( thế giới nầy hoại, gởi qua thế giới khác, thế giới khác hoại, lại gởi đến thế giới khác nữa...). Như châu thành Saigon hiện nay, dân số rất đông, là do người ở các tỉnh đến. Khi giặc yên, dân chúng lại trở về các tỉnh, th́ dân số Saigon tự nhiên bớt. Nên nhiều hay ít là do số dân ở các nơi tựu đến, hay tan đi. Trong thế giới hiện nay nhân loại nhiều hay ít cũng như vậy.
2. Có người hỏi: Người và thú vật hoàn toàn khác nhau, làm sao người có thể tái sanh thành thú vật và thú vật thành người được?
Trả lời: Người ta thường có quan niệm sai lầm rằng, người có linh hồn người, thú vật có linh hồn thú vật. Linh hồn người hay linh hồn thú vật đều bất biến, dù chết hay sống. V́ tưởng tượng như thế, nên người ta không thể công nhần rằng: chết rồi, linh hồn người trở lại chui vào thân h́nh chó, mèo chẳng hạn, và hồn chó mèo lại có thể vào nằm trong lốt thân h́nh người ta.
Thật ra, nghiệp không phải là linh hồn, mà là một năng lực có nhuốm tính chất những hành động của mỗi chúng sinh. V́ tính chất riêng biệt ấy, mà nghiệp lực nhập vào một h́nh thức nầy hay một h́nh thức khác, do cái luật hấp dẫn, (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu).
Thay v́ nói người kia trở thành thú, hay trái lại, thú kia trở thành người, đúng hơn, nên nói: Ộnghiệp lực phát hiện dưới h́nh thể người hay dưới h́nh thẻ thú !"(Narada Maha Théra).

C. Kết Luận:
Giáo lư luân hồi đem lại cho chúng ta nhiều điều lợi ích:
Nó phá "đoạn kiến" sai lầm, làm cho con người đâm ra chán nản, v́ nghĩ rằng, dù ḿnh có cố gắng ăn ở cho có đạo đức, làm các điều hay đẹp, rồi cuối cùng cũng chẳng đem theo địa được cái ǵ, chẳng được hưởng ǵ cả, một khi thân thể đă tiêu tan.
Nó phá "thường kiến" sai lầm, làm cho con người tin rằng, loài người chết rồi, vẫn giữ địa vị của ḿnh, dù có làm phúc hay tôi cũng vậy. Do đó, người ta cũng không cần phải cố gắng trong lúc sanh tiền.
Với giáo lư luân hồi, chúng ta phấn khởi mà tin rằng: chết rồi không thể mất hẳn; nhưng nếu chúng ta không biết vun trồng cội phúc, không cố gắng sống một đời sống có đạo đức, th́ đời sau, chúng ta sẽ sanh vào cảnh giới xấu xa đen tối.
Giáo lư luân hồi làm cho chúng ta thêm ḷng tự tín, tự thấy ḿnh là chủ nhân của đời ḿnh, ḿnh tạo nghiệp nhân ǵ, th́ ḿnh chịu nghiệp quả ấy, chứ không ai cầm cân thưởng phạt, ban phước, giáng họa cho ḿnh cả.
Nay chúng ta đă hiểu ư nghĩa và giá trị của giáo lư luân hồi, chúng ta nên cố gắng cải tạo tư tưởng, lời nói là hành vi của chúng ta, để tránh cho kiếp sau khỏi lâm vào cảnh giới đau khổ. Một khi các nhân ác đă được rửa sạch, những quả lành đầy đủ, các nghiệp hữu lậu không c̣n, lúc bấy giờ chúng ta có thể thoát ra khỏi luân hồi sanh tử và đạt đến cảnh giới tốt đẹp, bất sanh bất diệt của các vị A La Hán, Bồ Tát hay Phật.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]