[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Mục Lục]


Khóa Thứ Hai 
Thiên Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 10

Tịnh Độ 

 

A. Mở Đề

Trong vũ trụ có vô lượng thế giới

Như đức Phật ngày xưa đă dạy và các nhà khoa học ngày nay đă xác nhận, trong vũ trụ nầy có hằng hà sa số thế giới. Mỗi đem, chúng ta ngước mặt lên ḍm trời, bao nhiêu ngôi sao lấp lánh hay lu mờ xa tít, hiện ra trước mắt ta đây là bao nhiêu thế giới. Ngay một dăy ngân hà với những đám trắng lờ mờ như mây bạc đó, cũng đă chứa đựng từng triệu thế giới rồi. Huống cho trong vũ trụ, đâu phải chỉ một dăy ngân hà mà có mấy ngàn dăy như thế. Cái phần chúng ta thấy được mỗi đem, mặc dù không thể đếm hết, chỉ mới là phần trất nhỏ so với vũ trụ mênh mông mà ta không thể thấy được.

Trong kinh thường dạy: phương Đông có vô số thế giới như cát sông hằng, mà phương Tây, phương Nam, phương Bắc cũng như thế (kinh Di đà).

Nhưng chỉ có thế giới Cực lạc (Tịnh độ) là vui hơn cả

Trong bao nhiêu thế giới ấy, có thế giới ô uế, có thế giới thanh tịnh, có thế giới đau khổ, có thế giới an vui, có thế giới mới thành h́nh, có thế giới sắp tiêu diệt, có thế giới thiên về vật chất, có thế giới trọng về tinh thần.

Theo lời đức Phật Thích Ca dạy, th́ trong vô lượng thế giới ấy, chỉ có thế giới Cực lạc hay Tịnh độ của đức Phật A Di_Đà là vui hơn cả.

Hôm nay chúng tôi xin tŕnh bày về thế giới Cực lạc ấy, theo như lời đức Phật Thích Ca đă dạy.

B.Chánh Đề

I. Danh Hiệu Và Cảnh Trí Cơi Cự Lạc Hay Tịnh Độ 
Một hôm nh́n thấy Đức Phật Thích Ca, dung mạo khác lạ, vô cùng hoan hỷ, Ngài A Nan mới hỏi Phật:

Hôm nay tại sao dung mạo của Phật lại khác hơn ngày thường?

Phật dạy rằng:

Ta cảm nhớ đức Phật A Di Đà, muốn nhắc đến nhân địa của Ngài, để chỉ dạy cho chúng sanh pháp môn tu Tịnh độ.

Ngày dạy rằng: từ cơi Ta Bà nầy hướng về phía tây, hơn mười muôn ức cơi, có một thế giới gọi là Cực lạc hay Tịnh độ. Ở nước đo có đức Phật, hiệu là A Di Đà, Ngài thường thuyết pháp. Cảnh giới ở nước thanh tịnh ấy, vô cùng đẹp đẽ, sáng lạng vui tươi, phong cảnh cả toàn xơi như là một vườn hoa vĩ đại với những hàng cây ngay ngắn, những tường hoam những dây leo rũ xuống như màu gấm, như lụa là; có những hồ nước chứa đầy những thứ nước có tám công đức. Đáy hồ lát bằng cát vàng; trong hồ có những hoa sen lớn bằng bánh xe, đủ màu sắc, hương tỏa thơm ngát, và có ḥa quang đẹp đẽ: hễ hoa màu xanh, th́ phát ra ḥa quang xanh; hoa màu trắng, th́ phát ra ḥa quang trắng; hoa màu hồng, th́ phát ra ḥa quang hồng...Đường sá cầu cống, đèn đài, điện các ở cơi Tịnh độ đều làm bằng ngọc vàng châu báu, vô cùng quư giá.

Chim chóc ở đây là những thứ chim báu, như bạch hạc, khổng tước, anh vỏ, xá lợi, ca lăng, tần già v.v...những thứ chim này, ngày đem sáu thời, hót ra những thứ tiếng pháp vi diệu, ḥa lẫn trong những điệu nhạc thiêng, làn cho ai nghe đến, cũng phải liền phát tâm hoan hỷ niệm Phật. Các loài chim do đức Phật A Di Đà biến hóa ra để thuyết [háp cho chúng sinh nghe. Chẳng những chim biết nói pháp, mà cho đến nước chảy, gió thổi cây reo đều là những lời thuyết pháp vi diệu, ai nghe cũng đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Ở đấy, không bao giờ có bóng tối, v́ nhờ hào quang của Phật phát ra, sáng chói luôn luôn. Cảnh giới trang nghiêm, huy hoàng, xinh đẹp như thế là do sức đại nguyện của đức Phật A Di Đà, các bậc Bồ Tát và Thánh chúng, toàn là bậc Thượng thiện gây nên.

Trong hoàn cảnh thuận tiện, vui tươi như thế nên tất cả mọi người ở đấy, ai cũng tinh tấn tu hành và dễ được thành đạo nghiệp.

II. Những Điều Kiện Để Văng Sanh Về Cơi Tịnh Độ

Muốn được sanh về cơi Tịnh độ, trước tiên cần phải đủ ba điều kiện sau đây:

1. Đức tin chắc chắn:

Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: "Tin là mẹ các công đức. Tin có thể thành tựu quả bồ đề". Ḷng tin có ba khía cạnh:

a) Tin Phật là đáng sáng suốt từ bi cứu khổ mọi loài. V́ muốn cứu độ chúng sanh mau hết khổ sanh tử, nên Ngài mới chỉ bày cảnh Tịnh độ của Phật A Di Đà là một cảnh có thật.

b) Tin giáo pháp của Phật nói ra là đúng đắn chơn thật, dạy chúng ta phải nhất tâm niệm Phật, cầu vănh sanh về cảnh giới của Phật A Di Đà. Chúng ta tin chắc theo giáo pháp của Ngài mà tu hành th́ sẽ được thành công.

c) Tin ở nơi sức mạnh của ḿnh. nếu ta thật tâm tin chắc: ta là Phật sẽ thành, nhất tâm tŕ niệm danh hiệu Phật, quyết chắc sẽ được vănh sanh cơi Tịnh độ.

2. Lập nguyện vững vàng:

Nguyện là ư muốn tốt đẹp. lập nguyện vững vàng nghĩa là thiết tha mong muốn, lập chí nguyện không thối chuyển, quyết sinh về Cực lạc, dù có gặp bao trở ngại gian lao, khổ sở. Phải có tấm ḷng thiết tha, không giờ phút nào xao lăng ư muốn được về gần Phật A Di Đà, như con đi xa thiết tha được về gặp mẹ.

Trong mọi công việc lớn lao, chí nguyện là quan trọng. Không có chí nguyện, th́ không có ǵ thành tựu được cả. một nhà văn đă viết rất đúng: "Đường đi khó, không khó v́ ngăn sông cách núi, mà khó v́ ḷng người ngại núi e sông". Người có chi nguyện, như thuyền có lái, như ngựa có cương. Từ việc đời cho đến việc đạo, muốn thành công, điều cần yếu là lập chí nguyện cho vững vàng.

3. Thực hành theo đúng chí nguyện:

Đă so chí nguyện rồi, phải thực hành theo đúng chí nguyện. Thực hành ở đây là luôn luôn tŕ niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm luôn luôn trong khi đi đứng, nằmd ngồi, cho đến "nhất tâm bất loạn".

Tóm lại, điều kiện tiên quyết để văng sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà, không có ǵ khó khăn, cũng không có ǵ bó buộc lắm, mà trái lại, bất luận ai, sang hèn, giàu nghèo, trí thức hay thiếu học đều có thể có được. Đó là: Có đức tin mạnh mẽ, lập nguyện vững vàng, thực hành theo đúng chí nguyện. Có đủ ba yếu tố Tín, hạnh, Nguyện, là có thể oớc lên đường đi đến cơi Cực lạc. Cuộc hành tŕnh ấy có thể chậm có thể mau, có thể khó khăn có thể dễ dàng, nhưng ai đă có đủ ba điều kiện ấy, th́ thế nào cũng đến đích, Đức Phật A Di Đà lúc nào cũng sẵng sàng chờ đợi để đón tiếp chúng ta, như mẹ chờ con đi xa về. Nhưng nếu mẹ chờ con mà con không nhớ mẹ, không muốn quay về, th́ mặc dù có gần nhau đi nữa, cũng chẳng khác ǵ hai người xây lựng lại với nhau mà đi, một người đi về phương Nam, một người đi về phương Bác, càng đi càng xa, không thể gặp nhau được nữa. Trái lại, nếu con nhơ mẹ, mọt ḷng muốn gặp mẹ, trong lúc mẹ cũng đang nhớ và chờ đợi con th́, cũng như hai người hướng về nhau mà đi, mọt người ở phương Tây đi về phương Đông, một người ở phương Đông đi về phương Tây, mặc dù có cách xe muôn trùng, thế nào cũng sẽ gặp nhau.

Ta tin có Phật A Di Đà, ta quyết tâm thực hiện chí nguyện ấy, th́ mặc dù cơi Cực lạc cách xa mười muôn ức cơi, khi lâm chung, ta cũng sẽ được đức Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra để tiếp độ ta về cơi ấy.

III. Pháp Tu Về Cực Lạc (Tịnh Độ)

Phương pháp tu về Cực lạc có nhiều lối, nhưng không ngoài các pháp niệm Phật. Đây lược kể bốn pháp niệm Phật:

1. Tŕ danh niệm Phật:

Tŕ danh niệm Phật tức là giữ một ḷng nhớ nghĩ danh hiệu Phật, là niệm "Nam mô A Di Đà Phật ". Khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống cũng niệm. Niệm từ buổi mai khi mới thưc dậy, cho đến buổi tối, trước khi đi ngủ. Niệm suốt cả ngày không xen hở. Khi gần đi ngủ, ngồi xếp bằng bán già hay kiết già, chắp tay mà nguyện rằng:

"Con tin lời của đức Phật A Di Đà, giữ một ḷng niệm danh hiệu Ngài, nguyện đời nầy, bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu sạch, đến khi lâm chung được Phật và các vị Bồ Tát, đến tiếp dẫn chúng con về Cực lạc.

2. Tham cứu niệm Phật:

Pháp niệm Phật tương tợ pháp tŕ danh, nhưng mà có khác nghĩa, làm môi miệng không động, niệm không ra tiếng, mà trong tư tưởng có niệm Phật.

Khi niệm có tiếng th́ xét tiếng ấy từ đâu mà sanh ra. Đến khi hết niệm không nghe nữa, th́ xét tiếng ấy coi nó đi vào chỗ nào. Xét cho biết chỗ sinh ra, chỗ trở về là đă được một phần công phu khá cao rồi, cứ giữ như thế mà niệm, đừng cho tán loạn, th́ chắc có ngày minh tâm kiến tánh.

3. Quán tưởng niệm Phật:

Là quán tưởng h́nh dung đức Phật à ở trước mắt ta, ḿnh cao một trượng sáu thước, đứng trên hoa sen, và quán thân ta cũng ngồi trên hoa sen, chắp tay hầu Phật. Phật thấy ta, ta thấy Phật. Quán như thss lâu ngày, đi, đứng, nằm, ngồi, nhắm mắt, mở mắt đều thấy Phật, tức là pháp quán đă thuần thục.

4. Thật tướng niệm Phật:

Thật tướng niệm Phật là niệm Phật hợp với chân tâm. V́ tất cả các pháp đều do tâm biến hiện, bởi tâm biến hiện, nên tướng nó đều là hư vọng (phàm sở tướng, giai thị hư vọng), duy có chân tâm là chân thật, không sinh, không diệt; không chứ, không lai, xưa nay thanh tịnh b́nh đẳng như như, không hư vọng, không biến diệt, cho nên mới gọi là thật tướng.

Ba pháp niệm Phật trước thuộc về Sự, có tánh cách tiệm tu và tiệm quán. Đến pháp thứ tư nầy, là thuộc về Lư tánh, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến đây, mới hoàn toàn rốt ráo, mới ngộ tánh ḿnh là Phật A Di Đà, tâm ḿnh là cảnh Tịnh độ.

Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự mới hiển ra Lư. Trớc hết cũng do Tŕ danh niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật v.v...nhờ lối dụng công tu ba pháp trước, đến lúc thuần thục không c̣n thấy có ḿnh là người niệm Phật và Phật là một vị ḿnh niệm, chỉ c̣n có một chơn tánh vừa yên lặng, vừa chiếu soi không năng, không sở, không bỉ, không thử, không hữu, không vô. Chỗ này chính như trong Kinh tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: "Niệm đến chỗ vô niệm"; hay trong kinh A Di Đà nói: "Được nhứt tâm bất loạn".

IV. Sự Quan Hệ Của Niệm Phật Trong Lúc Lâm Chung 

Theo quan niệm sai lầm của phần đông, th́ khi ông bà cha mẹ chết, con cháu phải khóc cho nhiều mới là có hiếu. Nhiều gia đ́nh lại c̣n thuê người đến "khóc mướn" để cho "rậm đám". Theo đạo Phật th́ trái lại, lúc ông bà cha mẹ chết, mà con cháu khóc lóc nhiều, làm ồn, rối loạn tâm thần người sắp chết là con cháu bất hiếu. Thật thế, phút quan trọng ấy cần để cho người sắp lâm chung được yên tĩnh, đừng làm cho họ động tâm, cảm xúc quá mà khó ĺa bỏ cơi đời.

Một điều quan trọng nữa là, khi gần lâm chung, biết rằngk thể sống được, các trần duyên nên buông bỏ, đừng mến tiếc của cải, nhà cửa đẹp, con cháu ngoan. Ḷng quyến luyến ấy làm cho người sắp từ trần khó vănh sanh. Trong sách có ví dụng: như con c̣ bị con ngao kẹp miệng lại, mặc dù có đủ cánh quạt mạnh, mà không thể bay lên được.

Nên nhớ rằng trong các nghiệp nhân, cận tử nghiệp (nghiệp trước khi lâm chung) là có một lực rất lớn trong sự đầu thai. Nếu c̣n tâm niệm tham lam mến tiếc, th́ bị luân hồi trở lại, để giữ ǵn của cải, và kết duyên làm t́nh nghĩa ái ân nữa, măi măi sanh tử luân hồi không dứt.

Vậy trong phút lâm chung, người đương sự cần có tâm hồn thanh thoát, không luyến tiếc đau khổ, mà trái lại, phải thiết tha cầu sinh Tịnh độ. C̣n những người thân thuộc th́ phải tránh sự khóc lóc, níu kéo người sắp từ trần và phải hộ niệm hết sức thành tâm, để vong linh người lâm chung được nhẹ nhàng siêu thoát.

V. Pháp Môn Niệm Phật Dễ Tu Và Chắc CHắn Có Kết Quả 

Đạo Phật có muôn ngàn pháp môn, tựu trung có pháp môn niệm Phật là dễ tu hơn cả. Các pháp môn khác như con mọt đục ống tre từng mắt mà lên, c̣n pháp môn niệm Phật như con mọt đục ngay ḿnh tre mà ra. hai phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương pháp sau kết quả mau chóng hơn phương pháp trước.

Cổ nhơ dạy: "Người tu Thiền mà không tu Tịnh độ (niệm Phật ) th́ mười người lầm hết chín. Người tu Tịnh độ mà không tham Thiền, muôn người tu, muôn người được vănh sanh (nếu nhất tâm). Niệm Phật có cả tham Thiền, như cọp đă có sức mạnh, lại c̣n mọc thêm sứng". Nghĩa là lối tu niệm Phật đă chắc chắn rồi, mà c̣n tham Thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa. C̣n người không tu Thiền, mà cũng không tư Tịnh độ, th́ như nằm gường sắt nóng, và ôm trụ đồng; nghĩa là không tu môn nào, cứ tạo điều ác, th́ phải đọa vào địa ngục, chịu hành phạt khổ sở. Một phen để mất thân người rồi, khó mà trở lại người được.

VI. Dẫn Chứng

Pháp môn niệm Phật, chắc chắn được kết quả mỹ măn như ư muốn. Kinh Di Đà, kinh Thập Lục Quán, kinh Hoa Nghiêm, kinh Phương Đẳng v.v...đều tán thán pháp môn niệm Phật.

Các vị Bồ Tát cũng đều tu pháp môn niệm Phật. Như Ngài Văn Thù Bồ Tát, trong bài kệ phát nguyện, có nói: "Nguyện ngă lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhứt thế chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc vănh sanh An lạc quốc". (Nghĩa là: Nguyện khi tôi lâm chung, dứt trừ các điều ngăn ngại, thấy đức A Di Đà trước mắt, liền được vănh sanh về cơi An lạc).

Ngài Phổ Hiền, Ngài Mă Minh, Ngài Long Thọ, Ngài Vô Trước, Ngài Thiên Thân bên tướng tôn, Ngài trí Giả Đại sư bên Thiên Thai tôn, Ngài Hiền Thủ bên Hiền thủ tôn, và con nhiều vị Tổ sư khác cũng chuyên niệm Phật cầu vănh sanh Cực lạc.

Pháp môn niệm Phật có sự linh nghiệm rơ ràng. Như ở Trung Hoa, Ngài Huệ Viễn lập hội Liên Xă, chuyên tu pháp môn niệm Phật, ba lần thấy Phật, khi lâm chung, biết trước ngày giờ vănh sanh. Tại Việt Nam, Ngài Nhất Định chùa Từ Hiếu, Ngài tường Vân (ở Huế), Ngài Ḥa Thượng Tế Xuyến (ở Hà Nam) đều biết trước ba ngày thị tịch. Chằng những các Ngài xuất gia, mà bên hàng cư sĩ như ông chủ Thời (Gia Định), ông Phó Kinh ở Nam Định (Bắc Việt) v.v...cũng biết trước ba ngày sẽ lâm chung.

Pháp niệm Phật c̣n có nhiều linh nghiệm lạ thường khác nữa, không thể kể xiết được.

VII. Lợi Ích Của Niệm Phật Trong Đời Sống Hiện Tiền

Niệm Phật có nhiều lợi ích, không những đời sau được vănh sanh cỗi Phật, là lợi ích chính, mà hiện tại cũng có nhiều lợi ích thiết thực.

1. Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh:

Niệm chúng sanh tức là nhớ nghĩ đến những điều xấu xa như tham, giạna, kiêu căng...Do những điều nhớ nghĩa ấy mà lời nói hay việc làm đều vương mang tội lỗi. Nếu ta niệm Phật, th́ tâm trí không c̣n nhớ nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác nghĩa là ta diệt được niệm chúng sanh. Một giờ niệm Phật, là một giờ bớt niệm chúng sanh; một ngày, một tháng, một năm, một đời chuyên niệm Phật, làm một ngày, một tháng, một năm, một đời tránh được niệm chúng sanh, tránh được điều ác, và làm được việc lành.

2. Niệm Phật sẽ trừ được tâm buồn phiền:

Trong những lúc buồn phiền đau khổ, như khi gặp cảnh con cái biẹt ly, vợ chồng xa cách, nhà cửa tiêu tan v.v...nếu ta niệm Phật, th́ buồn phiền đau khổ sẽ tiêu tan. V́ sao vậy? V́ một khi ta nhớ nghĩa đến Phật A Di Đà, đến cảnh giới của Ngài, th́ không c̣n bận tâm nghĩ đến những nỗi niềm riêng của ta nữa. Niệm Phật đổi được niệm phiền năo là thế. Nếu niệm Phật tăng th́ niệm phiền năo phải giảm. Cho nên Cổ đức có nói:

"Một câu niệm Phật giải oan khiên".

Tóm lại, sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật, có lợi ích rất nhiều và thiết thực là làm tiêu tan được phiền năo nghiệp chướng. Nếu người không tin có nước Cực lạc, có Phật A Di Đà mà niệm Phật, cũng vẫn có lợi ích nhiều.

VIII. Quyết Nghi

1. Có người hỏi rằng:

Phật có vô số, v́ sao chỉ niệm Phật A Di Đà? Trả lời:

Tất cả chư Phật đều đồng một thể tánh chơn như b́nh đẳng. Niệm Phật A Di Đà tức là niệm tất cả chư Phật. Ví như trong một căn pḥng rộng, quanh tường có treo trăm cái gương, ta chỉ đứng soi vào một tấm gương, mà cả trăm tấm gương đều phản chiếu h́nh ảnh ta.

2. Lại có người hỏi:

Phật đă có khắp nơi, th́ cảnh Phật cũng có khắp nơi. Tại sao không niệm Đông phương Phật, Nam phương Phật, mà chỉ cầu về tây phương Cực lạc?

Trả lời:

Đúng là cơi Phật ở đâu cũng có, muốn cầu về cơi nào cũng được, nhưng chúng ta chỉ cầu về Tây phương Phật, v́ hai lư do:

a) cảnh Cực lạc Tây phương là cảnh mà nhờ đức Phật Thích Ca giới thiệu, chúng ta biết rơ hơn cả. Đến một cảnh giới mà ta đă có ư niệm bao giờ cũng hơn là đến một nơi ta c̣n xa lạ, không rơ biết ǵ cả.

b) Ta chuyên tưởng niệm một cảnh giới nhất định, th́ tâm sẽ được duy nhất. Nếu hôm nay niệm cảnh giới này, hôm sau niệm cảnh giới khác, th́ tâm sẽ tán loạn, ư niệm không được tập trung. Cũng như nhiều ngả th́ dễ lạc. Bắn tên phải nhắm vào một đích nhất định, mới hy cọng trúng. Tu pháp môn niệm Phật cốt nhất là được "nhất tâm bất loạn".

C. Kết Luận

Pháp môn niệm Phật là một pháp môn dễ tu hành hơn cả. Niệm Phật không phải hao công, nhọc sức, khó khăn. Người trí thức, kẻ đi buôn, người làm ruộng, kẻ thợ thuyền, bất luận ở đâu và lúc nào, đều có thể niệm được cả. Pháp môn niệm Phật đă dẽ tu mà lại có kết quả chắc thật, viên măn là vănh sanh về tây phương Cực lạc.

Song muốn có kết quả, điều kiện tiên quyết là phải có: Tín, Hạnh, Nguyện đầy đủ; phải có sự; lư viên dung, không nên chấp sự bỏ lư, hay chấp lư bỏ sự. Cốt yếu là phải niệm đến nhất tâm bất loạn, cầu sanh về Cực lạc, không c̣n khổ: sanh, già, bệnh, chết nữa.

Chúng ta đă trót sinh ra ở cơi đời nầy, ai lại không biết có thân là khổ, dù có vui đi nữa, cũng chỉ vui trong chốc lát, mà cái khổ lại đeo đuổi theo luôn, như hai bánh xe lăn theo sau chân con ḅ. Vậy chúng ta nên chuyên cầu niệm Phật, để sớm được giải thoát. Sách có cấu:

"Mạc đăi lăo lai phương niệm Phật.

Cô phần đa thị thiếu niên nhơn".

Nghĩa là: chớ đợi đến già mới niệm Phật; trong nghĩa địa, thiếu cho mồ của hàng thiếu niên. V́ vậy, trong giờ phút c̣n mạnh khỏe, chúng ta phải chuyên cần niệm Phật. Biết vô thường c̣n kiên tâm chờ đợi chúng ta cho đến ngày mai chăng?

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]