[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]


Khóa VII

Triết Lư Đạo Phật hay là
Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm


Bài thứ hai

 

I.   Phật dạy: chơn tâm phi tất cả tướng

II.  Phật dạy: chơn tâm tức là tất cả Pháp

III. Đến một từng nữa là chơn tâm không thể nói “phi” và “tức”

IV.  Phật lấy cây đờn để tỷ dụ

V.  Ông Phú Lâu Na hỏi Phật: chơn tâm nhơn đâu có vọng

VI.  Phật dạy: đă là vọng th́ không có sở nhơn, như ông Diễn Nhă Đạt Đa

VII.  Nếu các “vọng duyên” dứt, tâm “cuồng vọng” tiêu th́ chơn tâm hiện bày

VIII.  A Nan nghi “tâm bồ đề” do nhơn duyên sanh

IX.  Phật định nghĩa chữ nhân duyên tự nhiên và bác

X.  Pht phá chp nhân duyên để dn vào “vô công dng”

XI.  Pht phá chp t nhiên để thành vô hí lun

XII.  Pht qu ông A Nan hc nhiu không tu, th́ chng có li ích ǵ

XIII.  So sánh để khuyến khích tu hành

 

I.                  Phật dạy: chơn tâm phi tất cả tướng

Phật  dạy:  Chơn tâm này phi tâm (thức) phi đất, nước, gió, lửa và phi hư không.

(Đoạn này nói:  Chơn tâm phi ngũ uẩn.

Thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm;

c̣n đất, nước, gió, lửa thuộc về sắc.)

Nó phi nhăn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ư; phi sắc, thinh, hương, vị, xú, pháp; phi nhăn giới cho đến phi thức giới.

(Đoạn này nói:  Chơn tâm phi lục nhập, thập nhị xứ và thập bát giới.  Nó phi ấm, giới, nhập tức là nói phi cảnh giới lục phàm)

Chơn tâm phi minh vô minh và minh vô minh tận, cho đến phi lăo tử và phi lăo tử tận.

(Đoạn này nói:  phi 12 nhơn duyên, cả lưu chuyển và hoàn diệt là cảnh giới của Duyên giác)

Phi khổ, tập, diệt, đạo; phi trí và phi đắc.

(Đoạn này nói:  phi tứ đế là cảnh giới của Thinh văn)

Phi bố thí, tŕ giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ.

(Đoạn này nói:  phi lục độ là cảnh giới của Bồ tát).

Cho đến phi Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri... (mười hiệu) phi Đại Niết Bàn và phi bốn đức của Niết Bàn:  thường, lạc, ngă, tịnh.

(Đoạn này nói: phi cảnh giới Phật.  Từ Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật gọi là tứ thánh).

Tóm lại, chơn tâm phi tất cả các pháp thế gian (6 cơi phàm) và xuất thế gian (4 quả thánh) vậy.

LƯỢC GIẢI

            Đă là chơn tâm th́ không c̣n vọng.  V́ không c̣n vọng nên không có đối đăi: ngộ mê, thánh phàm, chúng sanh và Phật, hữu vi hay vô vi v.v... v́ nó  tuyệt tánh, ly tướng.

*

II.  Phật dạy: chơn tâm tức là tất cả Pháp

Phật dạy:  Chơn tâm này, cũng tức tất cả pháp; tức là tâm; tức là đất, nước, gió, lửa và hư không; tức là nhăn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ư; tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; tức là nhăn thức giới cho đến ư thức giới; tức Tứ đế; tức Thập nhĩ nhân duyên; tức là Lục độ; tức là Phật và bốn đức Niết bàn.  Nói tóm lại, chơn tâm tức là tất cả pháp  thế gian và xuất thế gian.

LƯỢC GIẢI

Tâm đă sanh ra tất cả pháp, th́ tâm là tất cả pháp.  Cũng như bột đă làm ra các thứ bánh, th́ bột đó tức là bánh.

III.           Đến một từng nữa là chơn tâm không thể nói “phi” và “tức”

Phú Lâu Na, cái chơn tâm này lại rời tất cả “tức” và “phi”, mà cũng là “tức” và “phi tức”.

Chơn tâm như thế, th́ từ kẻ phàm phu cho đến các vị thánh: Thinh văn, Duyên giác, làm sao lấy tâm trí suy nghĩ cho đến đạo vô thượng bồ đề của Như lai, hay dùng lời nói luận bàn của thế gian mà ngộ nhập chỗ tri kiến của Phật cho được?

LƯỢC GIẢI

Đây là chỗ tuyệt đối, không thể nói năng, suy nghĩ và kêu gọi là ǵ được.  Túng cùng chỉ gọi “Chơn tâm” thôi.  Bởi thế nên Phật đóng cửa thất tại nước Ma Kiệt; ông Duy Ma ngậm miệng ở thành Tỳ Gia, cũng v́ lư đạo quá cao siêu và nhiệm mầu, nên không thể nói ra được vậy.

IV.           Phật lấy cây đờn để tỷ dụ

Tỷ dụ như cây đờn cầm  hay đờn tỳ bà v.v... tuy sẵn có tiếng hay, nhưng phải nhờ ngón tay hay của người biết khảy (nhạc sĩ) mới có thể phát ra tiếng hay được.

LƯỢC GIẢI

            Thí dụ này rơ ràng và thật tế lắm.  Người đờn hay khảy ra tiếng hay, người đờn vừa khảy ra tiếng vừa, người đờn dở khảy tiếng dở, song đều có tiếng cả.  Dụ như chơn tâm của chúng ta tùy duyên biến hiện các pháp; nếu khéo dùng th́ hiện ra Phật, c̣n vừa vừa th́ thành Bồ tát, Thinh văn, vụng lắm th́ thành tam đồ lục đạo, đều có biến hiện cả.

*

            Ta cùng với các ông cũng đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh này và viên măn khắp giáp tất cả.  Song ta làm việc ǵ và lúc nào cũng đều chơn cả.  C̣n các ông tâm vừa móng lên, th́ phiền năo trần lao đă khởi trước.

            Bởi các ông không siêng năng cầu đạo vô thượng, chỉ ưa mến quả Tiểu thừa, mới vừa chứng được chút ít lại cho là đầy đủ.

V.              Ông Phú Lâu Na hỏi Phật: chơn tâm nhơn đâu có vọng

Ông Phú Lâu Na thưa:  Bạch Thế tôn, con cùng với Phật đă đồng một chơn – tâm viên măn không khác.  Nhưng con bị vọng tưởng từ vô thỉ, nên nhiều kiếp phải chịu sanh tử luân hồi, nay tuy chứng đặng quả Thánh, mà chưa cứu cánh (c̣n ở về Tiểu thừa).

C̣n đức Thế Tôn th́ tất cả các vọng đă hoàn toàn diệt, Ngài đă chứng chơn tâm thường trụ rồi, được tự tại giải thoát.  Vậy con xin kín hỏi đức Thế tôn: Tất cả chúng sanh v́ sao có vọng, tự che lấy chơn tâm mà phải chịu trầm luân?

VI.           Phật dạy: đă là vọng th́ không có sở nhơn, như ông Diễn Nhă Đạt Đa

Phật dạy:  Này Phú Lâu Na, ông tuy trừ nghi, mà các mê lầm chưa hết.  Tôi nay dùng việc thật tế và hiện tiền trong thế gian để chỉ dạy ông:  vừa rồi đây, ông có nghe câu chuyện chàng Diễn Nhă Đạt Đa tại thành Thất la không?  Một buổi sáng nọ chàng lấy gương soi mặt, thấy cái đầu trong gương (bóng) có mặt mày đáng thương.  Chàng trở lại giận trách “cái đầu thiệt của ḿnh đây sao không thấy được mặt mày của ḿnh; hay là ma quỷ?”.  Rồi bỗng nhiên chàng nổi cuồng vùng chạy...  Theo ư ông, người này nhơn cái ǵ mà bỗng nhiên nổi cuồng vụt chạy?

Ông Phú Lâu Na thưa:  Người ấy tự tâm họ cuồng, chớ không có nhơn cái chi cả.

Phật dạy:  Cũng vậy đó, ông Phú Lâu Na.  Đă nói là “vọng” th́ đâu có sở nhơn, c̣n có sở nhơn th́ không phải là vọng.  Các vọng tưởng tự nó nhơn nhau liên tiếp phát sanh; từ đời này đă mê rồi chất chứa thêm cái mê, cho đến nhiều kiếp.  Ta đă nhiều lần chỉ dạy, mà các ông hăy c̣n chưa ngộ trở lại.

Này Phú Lâu Na, cái “mê” như vậy đó, nhơn mê tự có?  Nếu người biết được cái “mê” ấy không nguyên nhân, th́ cái “mê vọng” đó không c̣n gá nương vào đâu nữa.  Lúc bấy giờ dầu muốn cho nó sanh c̣n không thể được, huống chi muốn diệt.

Các ông nên biết:  người đặng đạo Bồ đề rồi (ngộ chơn tâm), cũng như người thức giấc mộng, mà muốn nói lại việc chiêm bao; mặc dầu trong tâm nhớ biết rơ ràng, nhưng không làm sao chỉ các vật trong chiêm bao ra được, v́ nó không thật có, vả lại nó cũng không có nguyên nhân nữa.  Cũng như chàng Diễn Nhă Đạt Đa, tự sợ cái đầu của ḿnh, rồi nổi cuồng vụt chạy, chớ không có sở nhơn ǵ cả.

Nếu cái “cuồng” kia thoạt nhiên hết, th́ cái “đầu” vẫn y nguyên.  Dù cho khi chưa hết cuồng th́ cấi đầu ấy cũng không mất.  Này Phú Lâu Na, các “mê vọng” như vậy đó, chớ có nhơn cái ǵ đâu!

LƯỢC GIẢI

Cái đầu là dụ cho “chơn tâm”.  Tự nổi cuồng là dụ cho các “vọng tưởng” tự sanh.  Hết cuồng rồi th́ cái đầu vẫn y nguyên, dầu đương cuồng cái đầu cũng không mất, là dụ cho ngộ rồi th́ chơn tâm tự hiện, dầu chưa ngộ, chơn tâm cũng không mất.

VII.       Nếu các “vọng duyên” dứt, tâm “cuồng vọng” tiêu th́ chơn tâm hiện bày

Này Phú Lâu Na, các ông khi đối với trần cảnh (thế giới, chúng sanh, nghiệp quả) chỉ đừng có khởi vọng niệm phân biệt, th́ tham, sân, si (ba duyên) không khởi.  Ba duyên không khởi, thời ba nhơn sát, đạo, dâm chẳng sanh.  Lúc bấy giờ anh khùng Diễn Nhă Đạt Đa (mê) ở trong tâm các ông tự hết, mà hết tức là Bồ đề (sáng suốt). Khi ấy chơn tâm của ông thanh tịnh sáng suốt tự hiện bày, khắp cả pháp giới, không cần phải cực nhọc khó khăn tu chứng, hay xin cầu nơi ai cả.

LƯỢC GIẢI

Bởi đối cảnh khởi tâm phân biệt, nên sanh ra tham, sân, si.  V́ tham, sân, si mới có sát, đạo, dâm.  Do sát, đạo, dâm nên phải chịu sanh tử luân hồi.

Tỷ dụ như người khi đối với nữ sắc v.v... chỉ thấy qua không khởi vọng niệm phân biệt th́ chẳng có hại chi.  Đến lúc khởi tâm phân biệt đây là xấu, th́ tâm ghét giận nổi lên.  C̣n phân biệt kia đẹp th́ tâm tham muốn sanh ra.  Tham, sân đă sanh th́ si cũng theo đó mà khởi.

C̣n khi đối cảnh, ma tâm không khởi phân biệt thời vọng niệm chẳng sanh, vọng niệm không sanh th́ chơn tâm tự hiện.

Thật là một pháp tu trực chỉ mau thành Phật nhứt, mà cũng là khó nhất. Chúng ta suốt đời chỉ tu theo bốn chữ Phật dạy: “Bất tùy phân biệt” (đối cảnh không khởi phân biệt) cũng chưa chắc đă tu xong

*

Tỷ dụ cùng tử, trong túi áo có sẵn hột châu như ư, nhưng không hay biết, nên chịu nghèo hèn vất vả phải đi làm thuê mướn ở các phương xa, kiếm ăn qua ngày tháng, song hột châu ấy không mất.  Đến khi gặp người tri thức (quen) chi cho biết “Anh đă sẵn có hột châu vô giá trong túi áo kia”.  Lúc bấy giờ anh muốn ǵ được nấy, giàu có vô cùng.  Chừng ấy anh mới hối ngộ rằng:  hột thần châu này chính ḿnh đă sẵn có, không phải do nơi người mà được.

LƯỢC GIẢI

Lời tỷ dụ này rất hay, Phật chỉ rơ chúng sanh đều sẵn có Phật tánh (chơn tâm).  Nhưng v́ không ngộ, nên phải nhiều kiếp làm chúng sanh khổ sở, mà Phật tánh th́ vẫn không mất.  Đến khi ngộ được chơn tâm, chứng thành quả Phật, phước trí đầy đủ rồi mới biết rằng: chơn tâm này chính ḿnh sẵn có, không phải do nơi người mà được.

*

VIII.  A Nan nghi “tâm bồ đề” do nhơn duyên sanh

Khi đó A Nan đứng dậy lạy Phật, chắp tay bạch rằng:  -  Đức Thế Tôn nói: “Ba duyên tham, sân, si đứt rồi, thời ba nhơn sát, đạo, dâm không sanh.  Lúc bấy giờ anh khùng Diễn Nhă Đạt Đa trong tâm ông tự hết, mà hết tức là Bồ đề, không phải do nơi người mà đặng”.

-  Bạch Thế tôn, như thế th́ tâm Bồ đề rơ ràng là do nhân duyên sanh rồi.  Tại sao đức Như Lai lại bác thuyết nhơn duyên sanh?

Không những riêng chúng con là hàng Thinh văn tuổi trẻ hữu học, do nhơn duyên mà tâm được khai ngộ; chính như trong hội này, những vị đă đặng vô lậu, như ông Đại Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất và ông Tu Bồ Đề từ ḍng Phạm chí ngoại đạo, cũng do nghe Phật nói nhân duyên, mà tâm được khai ngộ.

Nay Phật nói:  “Tâm Bồ đề không từ nơi nhơn duyên sanh”.   Như thế th́ chúng ngoại đạo Câu Xá Ly kia nói về thuyết “tự nhiên” cũng thành đúng lư hay sao?  Xin Phật duỗi ḷng đại bi, vạch mở chỗ mê mờ cho chúng con.

LƯỢC GIẢI

Ông A Nan trước đă nghi nhân duyên và tự nhiên, đều bị Phật phá rồi, nay ông lại c̣n nghi nhân duyên và tự nhiên nữa.  Bởi v́ lưới nghi chồng chập nhiều đời, vả lại hàng Thinh văn pháp chấp khó trừ.  Cũng như cây chuối, lột được bẹ này, lại bày ra bẹ khác.  Lột cho hết bẹ th́ lơm chuối mới bày.  Phá nghi cho hết, th́ “chơn tâm” mới hiện.

*

IX.  Phật định nghĩa chữ nhân duyên tự nhiên và bác

Phật dạy rằng:  Này A Nan, như chàng Diễn Nhă Đạt Đa kia, v́ nhân duyên soi gương, cho nên chàng mới sanh ra cuồng.  Đến khi hết cuồng th́ tánh không cuồng (tỉnh) tự nhiên sanh ra; có phải cái lư nhân duyên và tự nhiên cùng tột như thế chăng?

Này A Nan, chàng Diễn Nhă Đạt Đa kia, nếu cái đầu của chàng đă là tự nhiên, th́ lúc nào cũng vẫn tự nhiên, vậy do nhân duyên ǵ nổi cuồng sợ chạy?

Nếu cái đầu là tự nhiên, v́ nhơn duyên soi gương cho nên mới cuồng, vậy cái đầu cũng vẫn tự nhiên, sao chẳng v́ nhân duyên soi gương mà mất đi.  Phải biết: cái đầu vẫn không biến đổi hay mất đi, c̣n “cuồng sợ” tự nó vọng sanh.  Vậy th́ cần ǵ phải có nhân duyên soi gương mới sanh ra cuồng?

LƯỢC GIẢI

Đoạn này đại ư nói:  Nếu nói “chơn tâm tự nhiên” th́ lúc nào cũng vẫn tự nhiên, vậy do nhân duyên ǵ mà nổi vọng.   Nếu nói “có nhân duyên nên nổi vọng” sao chẳng do nhân duyên mà chơn tâm kia mất.  Vậy th́ biết, chơn tâm không biến đổi cái “cuồng vọng” tự nó vọng sanh, không cần ǵ phải có nhân duyên.

*

-  C̣n nói “cái cuồng đó tự nhiên sẵn có”, vậy th́ khi chưa cuồng nó núp ở chỗ nào?

Cái đầu đă tự nhiên không có cuồng vọng, vậy v́ sao nổi cuồng vụt chạy?

Nếu như người ngộ được “cái đầu ḿnh sẵn có”, biết được cái “cuồng” tự nó vọng sanh, th́ thuyết nhân duyên và tự nhiên đều là nói chơi cả.

X.  Phật phá chấp nhân duyên để dẫn vào “vô công dụng”

-  Thế nên Ta nói:  “Ba duyên: tham, sân, si đoạn hết, tức là tâm Bồ đề”.   Nếu cái “vọng tâm sanh diệt kia diệt, mà tâm Bồ đề sanh”, như thế cũng c̣n ở trong ṿng sanh diệt.  Phải diệt và sanh đều hết, mới được vô công dụng đạo (chỗ cứu cánh).

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật phá chấp nhân duyên để dẫn nhập đạo vô công dụng.

*

XI.  Phật phá chấp tự nhiên để thành vô hí luận

-  Nếu ông chấp “vọng tâm sanh diệt kia diệt rồi, th́ tâm Bồ đề tự nhiên sanh”; như thế cũng c̣n ở trong ṿng sanh diệt, chưa phải thật là tự nhiên.  Phải không c̣n sanh và diệt, mới thật là tự nhiên.

Ông nên hiểu thêm: không phải tự nhiên sanh, không phải nhân duyên ḥa hiệp khởi; ly (rời) cả tự nhiên và nhân duyên ḥa hiệp, mà cái “ly” đó cũng không c̣n nữa, như thế mới phải là chỗ rốt ráo (vô hí luận).

LƯỢC GIẢI

Đoạn này là Phật chỉ đến chỗ cứu cánh tuyệt đối, nếu c̣n nói năng phân biệt, th́ chưa phải là tuyệt đối.

XII.  Phật quở ông A Nan học nhiều không tu, th́ chẳng có lợi ích ǵ

-  A Nan!  Ông đối với quả Bồ đề Niết Bàn của Phật hăy c̣n cách xa lắm!  Nếu ông không siêng năng, trải qua  nhiều kiếp chịu cực nhọc tu hành, th́ dầu cho có nhớ hết nghĩa lư nhiệm mầu trong mười hai bộ kinh của mười phương các đức Phật, nhiều như số cát sông Hằng, cũng chỉ giúp thêm cho ông việc nói giỏi mà thôi, chớ không lợi chi cho ông cả.

Ông nay luận bàn về thuyết nhân duyên và tự nhiên rất là thông suốt.  Người đời khen ông là bực học rộng nghe nhiều.  Nếu trong nhiều kiếp ông chỉ chứa chất cái học suông này mà không tu, th́ không bao giờ khỏi được cái nạn Ma Đăng Già kia vậy.

Nếu cái học và nghe suông của ông đó có lợi th́ cần ǵ phải nhờ đến thần chú Lăng nghiêm của ta, để làm cho nàng Ma Đăng Già kia nguồn t́nh khô cạn, lửa dục tiêu tan, lại tinh tấn tu hành, trong đạo pháp của ta, nàng chứng được quả thánh thứ Ba (A Na Hàm).  Khi đó ông mới được giải thoát.

XIII.  So sánh để khuyến khích tu hành

A Nan!  Ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ các nghĩa lư nhiệm mầu của Như Lai, nhưng không bằng một ngày tu tập nghiệp vô lậu, xa ĺa hai cái khổ thương ghét (tham, sân) ở thế gian.

Bằng chứng rơ ràng, như nàng Ma Đăng Già nguyên trước kia là kẻ dâm nữ, do nhờ thần chú của ta, mà nguồn t́nh khô cạn, lửa dục tiêu tan, lại xuất gia tu hành làm Tỳ kheo ni.

C̣n bà Gia Du Đà La là mẹ của La Hầu La, v́ biết được nhân đời trước, do tham ái mà nhiều đời phải chịu khổ, nên một niệm tu theo nghiệp lành vô lậu, mà được  ra khỏi t́nh ái ân triền phược và đặng thọ kư.

Kẻ phụ nhân tu hành c̣n được như thế, huống chi các ông là nam tử, đă học rộng nghe nhiều mà trở lại chấp chỗ thấy, nghe suông, chẳng biết tiến tu, sao tự khinh ḿnh đến thế!

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật quở trách rất là thống thiết! Nếu chỉ hịc nhiều mà không tu th́ chẳng có lợi ích ǵ. Chúng ta đọc đoạn này chớ nên nghĩ rằng: “Phật chỉ quở một ḿnh ông A Nan”, mà chính ngài quở trách chung tất cả chúng ta vậy.

LƯU Ư:           Từ trước đến đây, Phật nói về phần lư, từ đây về sau, Phật mới chỉ về đường lối tu hành


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]