[Trang chu] [Kinh sach]

THIỀN TÔNG BẢN HẠNH

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3-d1][p3-d2-c1][p3-d2-c2]

[p3-d2-c3-a1][p3-d2-c3-a2][p3-d2-c4][p3-d2-c5-a1][p3-d2-c5-a2][p3-d2-c6][p4][p5][p6][p7]


THIỀN SƯ CHÂN NGUYÊN

Pháp danh TUỆ ĐĂNG

(1647 - 1726)

(Đời pháp 36, tông Lâm Tế.)

Sư họ Nguyễn tên Nghiêm, tên chữ là Đ́nh Lân, mẹ họ Phạm quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Một hôm, mẹ Sư nằm mộng thấy cụ già cho một hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đây biết có mang. Năm Đinh Hợi (1647), tháng 9 ngày 11 giờ ngọ, mẹ sinh ra Sư. Lớn lên theo học với cậu là ông Giám Sinh. Sư rất thông minh, hạ bút là thành văn. Năm 16 tuổi Sư đọc quyển Tam Tổ Thực Lục, đến Tổ thứ ba là Huyền Quang liền tỉnh ngộ nói : “Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà c̣n chán sự công danh, huống ta là một chú học tṛ”. Sư liền phát nguyện đi tu.

Năm 19 tuổi, Sư lên chùa Hoa Yên vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú). Thiền sư Tuệ Nguyệt hỏi : “Ngươi ở đâu đến đây?” Sư thưa : “Vốn không đi lại”. Tuệ Nguyệt biết Sư là pháp khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp danh là Tuệ Đăng. Sau không bao lâu Tuệ Nguyệt tịch. Sư cùng bạn đồng liêu là Như Niệm phát nguyện tu hạnh đầu đà đi du phương để tham vấn Phật pháp. Thời gian sau, Như Niệm đổi ư trở về trụ tŕ chùa Cô Tiên. Sư đi lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ tử của Chuyết Chuyết. Sư hỏi: “Bao năm dồn chứa ngọc trong đăy, hôm nay tận mặt thấy thế nào, là sao?'' Thiền sư Minh Lương đưa mắt nh́n thẳng vào Sư, Sư nh́n lại, liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương bảo: “Ḍng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời'', đặt cho Sư pháp hiệu là Chân Nguyên và bài kệ phó pháp:

Âm :

            Mỹ ngọc tàng ngoan thạch,

            Liên hoa xuất ứ nê.

            Tu tri sanh tử xứ,

            Ngộ thị tức Bồ đề.

Dịch :

            Ngọc quí ẩn trong đá ,

            Hoa sen mọc từ bùn.

            Nên biết chỗ sanh tử,

            Ngộ vốn thiệt Bồ đề.

Chính v́ chỗ ngộ này, sau Sư soạn quyển : “Trần Triều Thiền Tôn Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành” có cả thảy bảy lần nói về “Tứ mục tương cố” (Bốn mắt nh́n nhau).

Sau khi được tâm ấn rồi, Sư thọ giới Tỳ kheo. Một năm sau, Sư lập đàn thỉnh ba đức Phật (Phật Thích Ca, Di Đà, Di Lặc) chứng đàn, thọ giới Bồ tát và đốt hai ngón tay nguyện hành hạnh Bồ tát. Về sau, Sư được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trụ tŕ chùa Long Động và chùa Quỳnh Lâm, là hai ngôi chùa lớn của phái Trúc Lâm.

Năm 1684, Sư dựng đài Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm theo kiểu mẫu đài Cửu Phẩm Liên Hoa mà Thiền sư Huyền Quang đă dựng trước kia ở chùa Ninh Phúc. Năm 1692, lúc 46 tuổi, Sư được vua Lê Hy Tông triệu vào cung để tham vấn Phật pháp. Vua khâm phục tài đức Sư, ban cho Sư hiệu Vô Thượng Công và cúng dàng áo ca sa cùng những pháp khí để thừa tự. Năm 1722 lúc 76 tuổi, Sư được Vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống và ban hiệu Chánh Giác Ḥa Thượng.

Đến năm 1726, Sư triệu tập đệ tử dặn ḍ và nói kệ truyền pháp, kệ rằng :

Âm :

            Hiển hách phân minh thập nhị th́,

            Thử chi tự tánh nhậm thi vi.

            Lục căn vận dụng chân thường kiến,

            Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.

Dịch :

            Bày hiện rơ ràng được suốt ngày,

            Đây là tự tánh mặc phô bày.

            Chân thường ứng dụng sáu căn thấy,

            Muôn pháp dọc ngang giác ngộ ngay.

Nói kệ xong, Sư bảo chúng : “Ta đă 80 tuổi, sắp về cơi Phật”. Đến tháng mười, Sư nhuốm bệnh, đến sáng ngày 28 viên tịch, thọ 80 tuổi. Môn đồ làm lễ hỏa táng thu xá lợi chia thờ hai tháp ở chùa Quỳnh Lâm và chùa Long Động, tháp hiệu Tịch Quang. Sư là người khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm.

Tác phẩm của Sư có:

            1) -      Tôn sư pháp sách đăng đàn thọ giới.

            2) -      Nghênh sư duyệt định khoa.

            3) -      Long thư tịnh độ văn.

            4) -      Long thư tịnh độ luật bạt hậu tự.

            5) -      Tịnh độ yếu nghĩa.

            6) -      Ngộ đạo nhân duyên.

            7) -      Thiền tông bản hạnh.

            8) -      Nam Hải Quan Âm bản hạnh.

            9) -      Thiền tịch phú.

            10) -    Đạt Na thái tử hạnh.

            11) -    Hồng mông hạnh.

            12) -    Kiến tánh thành Phật.

GIẢNG :

Quyển Thiền Tông Bản Hạnh do Thiền sư Chân Nguyên đời Lê soạn, nói về đường lối tu hành của các vua đời Trần.

Thiền sư Chân Nguyên, pháp danh Tuệ Đăng, sinh năm 1647, tịch năm 1726, đời pháp thứ 36 tông Lâm Tế.

“Sư họ Nguyễn tên Nghiêm, tên chữ là Đ́nh Lân, mẹ họå Phạm quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Một hôm, mẹ Sư nằm mộng thấy cụ già cho một hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đây biết có mang. Năm Đinh Hợi (1647), tháng 9 ngày 11 giờ ngọ, mẹ sinh ra Sư. Lớn lên theo học với cậu là ông Giám Sinh. Sư rất thông minh, hạ bút là thành văn. Năm 16 tuổi, Sư đọc quyển Tam Tổ Thực Lục, đến Tổ thứ ba là Huyền Quang liền tỉnh ngộ nói : “Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà c̣n chán sự công danh, huống ta là một chú học tṛ”. Sư liền phát nguyện đi tu.”

Đọc đoạn sử này, chúng ta thấy ngài Chân Nguyên lúc c̣n là một học sinh trẻ, nhưng khi đọc sử Tam Tổ Trúc Lâm, thấy một vị Trạng nguyên bỏ chức quyền để vào chùa tu, Ngài mới than : “Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà c̣n chán sự công danh, huống ta là một chú học tṛ”. Người đă được công danh tột bậc mà c̣n chán bỏ, huống là ta mới ôm sách vào trường mong ngày sau được chút công danh nhỏ mà c̣n tiếc cái ǵ, cho nên Ngài liền phát nguyện đi tu.

“Năm 19 tuổi, Sư lên chùa Hoa Yên vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú). Thiền sư Tuệ Nguyệt hỏi : “Ngươi ở đâu đến đây?” Sư thưa: “Vốn không đi lại”. Chủng tử đối với nhà Thiền, Ngài đă gieo trồng sâu đậm, nên vừa nghe hỏi “Ngươi ở đâu đến đây”, Ngài đă thố lộ đường hướng của ḿnh “Vốn không đi lại”.

Như chúng ta hiện giờ, khi nghe vị thầy hỏi tất sẽ thưa : “Bạch thầy con ở ngoài Trung vào, hoặc là con ở miền Tây lên v.v...”. Câu đáp rất dễ sao không nói, lại thưa “Vốn không đi lại”. Cái ǵ không đi lại? Ở đây Ngài không nói thân hay chỗ ở của thân mà nói thẳng Thể tánh vốn không đi lại. Trong kinh thường giải thích Như Lai là không từ đâu đến và chẳng đi đâu. Tức là muốn nói Pháp thân bất sanh bất diệt, không có đến và không có đi. Dùng bốn chữ “Vốn không đi lại” là đă thể hiện được lư kinh mà Ngài chưa được học.

“Tuệ Nguyệt biết Sư là pháp khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp danh là Tuệ Đăng. Sau không bao lâu Tuệ Nguyệt tịch, Sư cùng bạn đồng liêu là Như Niệm phát nguyện tu hạnh đầu đà đi du phương để tham vấn Phật pháp. Thời gian sau, Như Niệm đổi ư trở về trụ tŕ chùa Cô Tiên. Sư đi lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ tử của Chuyết Chuyết(*). Sư hỏi : “Bao năm dồn chứa ngọc trong đăy, hôm nay tận mặt thấy thế nào, là sao?” Ngài Chân Nguyên dẫn lại câu hỏi của người xưa. “Là sao”, tức là câu hỏi này ư thế nào? Trong Kinh Pháp Hoa có nói về thí dụ Hệ châu, đă có hạt châu trong chéo áo, hiện giờ ngay ở trước đây phải thấy hạt châu đó thế nào ?

“Thiền sư Minh Lương đưa mắt nh́n thẳng vào Sư, Sư nh́n lại, liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương bảo : “Ḍng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời”.

Thầy nh́n thẳng tṛ, tṛ nh́n lại thầy, thầy liền truyền tâm ấn. Chưa dạy một câu, chưa nói một lời, làm sao ngộ? Trong nhà thiền, gốc và ngọn không bao giờ lệch. Khi xưa nơi hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen nh́n khắp hội chúng, nh́n đến Ca Diếp, Ca Diếp nh́n lại Phật mỉm cười, Phật liền ấn chứng. Phật thuyết pháp câu ǵ, lời ǵ ? - Không có lời!

Ngày nay thiền khách bất chợt hỏi Thiền sư, Thiền sư không có sẵn hoa sen, chỉ dùng mắt nh́n thẳng vào người khách, khách nh́n lại. Hai thầy tṛ cảm thông nhau, tṛ sụp xuống lạy, thầy biết nên bảo: “Ḍng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời”.

“Đặt cho Sư pháp hiệu là Chân Nguyên”. Vị thầy ban đầu là Thiền sư Tuệ Nguyệt ban cho Ngài pháp danh là Tuệ Đăng. Sau này Thiền sư Minh Lương là vị thầy làm cho Ngài cảm ngộ được thiền, đặt pháp hiệu cho Ngài là Chân Nguyên.

“Và bài kệ phó pháp” :

Âm :

            Mỹ ngọc tàng ngoan thạch,

            Liên hoa xuất ứ nê.

            Tu tri sanh tử xứ,

            Ngộ thị tức Bồ đề.

Dịch :

            Ngọc quí ẩn trong đá,

            Hoa sen mọc từ bùn.

            Nên biết chỗ sanh tử,

            Ngộ vốn thiệt Bồ đề.

Lời dạy của vị thầy đúng như chỗ Ngài đă hỏi.

            “Ngọc quí ẩn trong đá,

            Hoa sen mọc từ bùn”.

Hai câu này nói lên rất chí thiết tinh thần Phật giáo. Phật giáo không bỏ thế gian phàm tục để đi cầu giải thoát giác ngộ ở nơi nào. Từ thế gian phàm tục, nếu chúng ta khéo nhận th́ thấy đă có giác ngộ giải thoát ngay trong đó. Cũng như hoa sen thơm không phải từ trên ngọn núi hay những nơi đất khô, mà vốn từ chỗ bùn hôi. Tất cả con người phàm tục của chúng ta không ra ǵ, đáng xem thường, nhưng chính con người không ra ǵ lại có tánh giác! Không bỏ cái dở để cầu cái hay, chính ngay cái dở mà biết chuyển đổi tất thành hay. Thế nên việc tu của đạo Phật rất giản đơn. Ở thế gian người ăn trộm ăn cướp, cờ bạc rượu chè hút xách là người tồi tệ nhất xă hội. Nhưng nếu họ thức tỉnh biết chừa bỏ những nghề dở tật xấu th́ họ thành người tốt. Như thế chúng ta mới thấy giá trị tu của đạo Phật, không t́m giác ngộ trên trời trên mây, không t́m giải thoát trên đầu non góc núi, mà ngay cơi trần tục đầy phiền năo này, chúng ta khéo tỉnh khéo giác th́ từ cái dở chuyển thành hay, từ cái xấu biến thành tốt, chớ không t́m ở đâu xa. Hoa sen khi c̣n là mầm là ngó, lúc ấy nằm trong bùn hôi. Nhưng khi nó vươn lên, vượt khỏi bùn, ra khỏi nước, th́ nở hoa thơm thanh khiết. Hương thơm của hoa không tách rời bùn hôi nhơ nhớp buổi đầu. Hiểu như vậy chúng ta mới an ḷng, tất cả người trên thế gian không ai là không có thể tu được. Xấu dở như kẻ cướp một phen thức tỉnh tu cũng được, làm nghiệp dữ như người hàng thịt tu cũng được. Mọi người ai cũng tu được nếu biết chừa bỏ cái xấu dở, tất nhiên thành người tốt.

Thế nên khi giáo hóa người tu, chúng ta không phải đi t́m người nào sanh ra không ăn được cá thịt, có đời sống như một thầy tu, người đó mới tu được. Dù người đó ăn cá thịt, hay làm những điều tội lỗi, nhưng chúng ta khuyến khích nhắc nhở để họ biết lỗi và chừa bỏ, th́ người đó cũng tu được. Đúng ra chúng ta nên dạy người nào? Dạy người sanh ra đă hiền lành không làm tội lỗi là cần thiết, hay dạy những người tội lỗi là cần thiết? Thật vậy tinh thần đạo Phật rất thiết thực, muốn đem lợi ích chân thật cho cuộc đời, th́ chính từ những con người hư xấu mà đánh thức để họ chuyển thành người hay tốt, đó là hướng giáo dục của đạo Phật. Đó là ư nghĩa thâm trầm của hai câu đầu bài kệ.

            “Nên biết chỗ sanh tử,

            Ngộ vốn thiệt Bồ đề.”

Bồ đề không ở ngoài sanh tử, ngay chỗ sanh tử chúng ta giác ngộ, đó là Bồ đề. Chúng ta có thể thấy cội nguồn này để ứng dụng tu. Như người thế gian khi gia đ́nh gặp hoạn nạn có người cha hay người mẹ mất th́ buồn khổ vô cùng. Nhưng cũng cùng hoàn cảnh khi thấy cha hay mẹ mất, người con liền thức tỉnh cuộc đời vô thường nên đi tu. Trước cảnh khổ người mê chỉ biết than khóc, c̣n người thức tỉnh th́ sớm lo tu hành. Thế là từ đau khổ biến thành giải thoát.

“Chính v́ chỗ ngộ này, sau Sư soạn quyển “Trần Triều Thiền Tôn Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành” có cả thảy bảy lần nói về “Tứ mục tương cố”. (Phần này sẽ giải thích sau).

“Sau khi được tâm ấn rồi, Sư thọ giới Tỳ kheo. Một năm sau, Sư lập đàn thỉnh ba đức Phật (Phật Thích Ca, Di Đà, Di Lặc) chứng đàn, thọ giới Bồ tát và đốt hai ngón tay nguyện hành hạnh Bồ tát.  Về sau, Sư được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trụ tŕ chùa Long Động và chùa Quỳnh Lâm, là hai ngôi chùa lớn của phái Trúc Lâm.”

Ngài ngộ ở tông Lâm Tế, nhưng được truyền thừa y bát của phái Trúc Lâm. Tại sao? V́ vị thầy làm cho Ngài ngộ đạo là Thiền sư Minh Lương, đệ tử của một Thiền sư từ Trung Hoa sang, Ḥa thượng Chuyết Công thuộc tông Lâm Tế. Nhưng bản chất của Ngài thích làm sống dậy Phật giáo đời Trần, cho nên sau này Ngài nhận sự truyền thừa y bát của hệ phái Trúc Lâm.

“Năm 1684, Sư dựng đài Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm theo kiểu mẫu đài Cửu Phẩm Liên Hoa mà Thiền sư Huyền Quang đă dựng trước kia ở chùa Ninh Phúc. Năm 1692, lúc 46 tuổi, Sư được vua Lê Hy Tông triệu vào cung để tham vấn Phật pháp. Vua khâm phục tài đức Sư, ban cho Sư hiệu Vô Thượng Công và cúng dàng áo ca sa cùng những pháp khí để thừa tự. Năm 1722, lúc 76 tuổi, Sư được vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống và ban hiệu Chánh Giác Ḥa thượng.

“Đến năm 1726, Sư triệu tập đệ tử dặn ḍ và nói kệ truyền pháp, kệ rằng :

Âm :

            Hiển hách phân minh thập nhị th́,

            Thử chi tự tánh nhậm thi vi.

            Lục căn vận dụng chân thường kiến,

            Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.

Dịch :

            Bày hiện rơ ràng được suốt ngày,

            Đây là tự tánh mặc phô bày.

            Chân thường ứng dụng sáu căn thấy,

            Muôn pháp dọc ngang giác ngộ ngay”.

Ư bài kệ nói cái chân thật, gọi là chân thường, không ở đâu xa, mà luôn hiện rơ ràng nơi sáu căn của chúng ta. Muôn pháp trên thế gian này dù ngang hay dọc, nếu chúng ta khéo nhận, đó là chánh biến tri, tức là giác ngộ rồi.

“Nói kệ xong, Sư bảo chúng : “Ta đă 80 tuổi, sắp về cơi Phật.” Đến tháng mười, Sư nhuốm bệnh, đến sáng ngày 28 viên tịch, thọ 80 tuổi. Môn đồ làm lễ hỏa táng thu xá lợi chia thờ hai tháp ở chùa Quỳnh Lâm và chùa Long Động, tháp hiệu Tịch Quang. Sư là người khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm.

Tác phẩm của Sư có :

            1/-       Tôn sư pháp sách đăng đàn thọ giới.

            2/-       Nghênh sư duyệt định khoa.

            3/-       Long thư tịnh độ văn.

            4/-       Long thư tịnh độ luật bạt hậu tự.

            5/-       Tịnh độ yếu nghĩa.

            6/-       Ngộ đạo nhân duyên.

            7/-       Thiền tông bản hạnh.

            8/-       Nam Hải Quan Âm bản hạnh.

            9/-       Thiền tịch phú.

            10/-     Đạt Na Thái tử  hạnh.

            11/-     Hồng mông hạnh.

            12/-     Kiến tánh thành Phật.”

Ngài có cả thảy là 12 tác phẩm:

“Tôn sư pháp sách đăng đàn thọ giới” và “Nghênh sư duyệt định khoa” là hai bản nói về nghi thức truyền giới, thuộc về luật.

“Long thư tịnh độ văn”, “Long thư tịnh độ luật bạt hậu tự”, “Tịnh độ yếu nghĩa”, ba quyển này nói về pháp tu Tịnh độ.

“Ngộ đạo nhân duyên”, “Thiền tông bản hạnh” là nói thẳng về Thiền.

“Nam Hải Quan Âm bản hạnh,” nói về sự tích Phật Bà Quan Âm Diệu Thiện.

“Thiền tịch phú” là bài phú kể lại cuộc sống của Ngài.

“Đạt Na Thái tử hạnh” là hạnh của Ngài Đạt Na Thái tử Tu Đại Noa, sau cùng là quyển “Hồng mông hạnh” và “Kiến tánh thành Phật”.

V́ chúng ta chuyên về thiền, cho nên chúng tôi chỉ giảng Thiền tông bản hạnh, Ngộ đạo nhân duyên, Thiền tịch phú và Kiến tánh thành Phật.

]


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3-d1][p3-d2-c1][p3-d2-c2]

[p3-d2-c3-a1][p3-d2-c3-a2][p3-d2-c4][p3-d2-c5-a1][p3-d2-c5-a2][p3-d2-c6][p4][p5][p6][p7]

[Trang chu] [Kinh sach]