[Trang chu] [Kinh sach]

THIỀN TÔNG BẢN HẠNH

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3-d1][p3-d2-c1][p3-d2-c2]

[p3-d2-c3-a1][p3-d2-c3-a2][p3-d2-c4][p3-d2-c5-a1][p3-d2-c5-a2][p3-d2-c6][p4][p5][p6][p7]


THIỀN TÔNG BẢN HẠNH

(tt)

GIẢNG: (tt)

6. D̉NG THIỀN TRÚC LÂM

            Nhân Tông gặp thầy Tuệ Trung,

            Làm đệ nhất Tổ Nam cung nước này.

            Đệ nhị Pháp Loa bằng nay,

            Rập đời Anh Tông đêm ngày yêu đương.

            Đệ tam Tổ sư Huyền Quang,

            Truyền cho Minh Tông ḷng càng từ bi.

            Dầu ai xem đấy xá ngh́,

            Năm Vua ba Tổ đều th́ chứng nên.

            Truyền cho thiên hạ bốn bên,

            Người ta đắc đạo thiên thiên vàn vàn.

            Nhờ ơn Hoàng Giác vua quan,

            Phát ḷng tu trước, dân gian học cùng.

            Đời đời nối đạo Thiền Tông,

            Chính pháp truyền ḷng ai được th́ hay.

            Tổ đă đắp nấm trồng cây,

            Mộng Bồ Đề nở sau này càng cao.

            Khai hoa kết quả xao xao,

            Dơi truyền đất Việt thấp cao trùng trùng.

            Ai khôn có trí có công,

            Tu hành ngộ được Tâm Tông mới mầu.

            Nhân duyên có trước có sau,

            Ai ai cũng có tính châu Bồ Đề.

            Kiến văn tri giác khác ǵ,

            Mày ngang mũi dọc xem th́ bằng nhau.

            Phật tiền Phật hậu trước sau,

            Bát Nhă huyền chỉ đạo mầu Ma Ha.

            Mênh mông bể Thích tuy xa,

            Biết đường vượt tắt đến nhà một giây.

            Ḷng Bụt thương chúng sinh thay!

            Bách ban phương tiện mở nay để chờ.

            Bằng người cao sĩ quán cơ,

            Thông sao một hớp cạn bờ sông Tây.

            Bảo thật cứu cánh cho hay,

            Tứ Mục Tương Cố đă th́ ấn tâm.

            Bụt truyền từ cổ đến câm (kim),

            Ai tin th́ được ấn tâm thật thà.

            Xem Thánh Đăng Lục giảng ra,

            Kéo đèn Phật Tổ sáng ḥa Tam Thiên.

            Việt Nam thắng cảnh Hoa Yên,

            Sát tiêu cực lạc Tây Thiên những là.

            Vĩnh trấn cửu phẩm Di Đà,

            Phần hương chúc Thánh quốc gia thọ trường.

            Đời đời tượng pháp hiển dương,

            Thiệu long Tam Bảo Tây Phương Phật đường.

            Điều Ngự, Pháp Loa, Huyền Quang,

            Tam vị Phật Tổ Nam bang Trần triều.

            Hoa Yên, Long Động, Vân Tiêu,

            Quỳnh Lâm tượng pháp độ siêu vô cùng.

            Kính khuyên Nam Bắc Tây Đông,

            Muốn được nên Bụt, phát ḷng xuất gia.

            Trước là độ lấy thân ta,

            Sau là cứu được mẹ cha Tổ Huyền.

            Vua Trần tước lộc binh quyền,

            Người c̣n thoát để tu Thiền lọ ta.

            Cửu liên đài thượng khai hoa,

            Những người niệm Bụt Di Đà Phật danh.

            Cùng về Cực Lạc hóa sinh,

            Ḿnh vàng vóc ngọc quang minh làu làu.

            Tiêu dao khoái lạc chẳng âu,

            Bất sinh bất diệt ngồi lầu Ṭa Sen.

* * *

Đoạn này ngài Chân Nguyên nói về sự truyền thừa của hệ phái Trúc Lâm.

            Nhân Tông gặp thầy Tuệ Trung,

            Làm đệ nhất Tổ Nam cung nước này.

Ngài Trần Nhân Tông gặp được Thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy, cho nên sau nầy Ngài làm Tổ thứ nhất của hệ phái Trúc Lâm ở Việt Nam.

            Đệ nhị Pháp Loa bằng nay,

            Rập đời Anh Tông đêm ngày yêu đương.

Tổ thứ hai là Tổ Pháp Loa. Chữ “rập” là tiếp nối. Tiếp đời Anh Tông đêm ngày đều kính mến ngài Pháp Loa.

            Đệ tam Tổ sư Huyền Quang,

            Truyền cho Minh Tông ḷng càng từ bi.

Tổ thứ ba là Tổ Huyền Quang, truyền cho vua Minh Tông ḷng càng thương xót.

            Dầu ai xem đấy xá nghỉ,

            Năm Vua ba Tổ đều th́ chứng nên.

            Truyền cho thiên hạ bốn bên,

            Người ta đắc đạo thiên thiên vàn vàn.

“Dầu ai xem đấy xá ngh́”. “Xá ngh́”, chữ xá là hăy, chữ ngh́ là nghĩ suy. Dầu ai đấy hăy nghĩ suy. “Năm Vua ba Tổ đều th́ chứng nên”. Năm Vua là: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Ba Tổ là: Sơ Tổ Trúc Lâm, Tổ Pháp Loa và Tổ Huyền Quang. Những vị nầy đều ngộ đạo.

“Truyền cho thiên hạ bốn bên”, nghĩa là bốn phía thiên hạ đều được truyền dạy giáo hóa. “Người ta đắc đạo thiên thiên vàn vàn”, người ta ngộ được lư thiền rất nhiều có đến ngàn muôn người.

            Nhờ ơn Hoàng Giác vua quan,

            Phát ḷng tu trước, dân gian học cùng.

            Đời đời nối đạo Thiền Tông,

            Chính pháp truyền ḷng ai được th́ hay.

Đây là lời tán thán của ngài Chân Nguyên.

“Nhờ ơn Hoàng Giác vua quan” là nhờ ơn các vua giác, và quan như ngài Huyền Quang là Trạng nguyên đi tu. “Phát ḷng tu trước dân gian học cùng”. Những ông vua và những ông quan phát tâm tu trước cho nên nhân dân bắt chước tu theo. “Đời đời nối đạo Thiền Tông”, nghĩa là đời đời nối đạo Phật tu theo Thiền. “Chính pháp truyền ḷng ai được th́ hay”, chánh pháp truyền trong tâm ḿnh, ai được th́ người đó thấm, người đó hiểu.

            Tổ đă đắp nấm trồng cây,

            Mộng Bồ Đề nở sau này càng cao.

            Khai hoa kết quả xao xao,

            Dơi truyền đất Việt thấp cao trùng trùng.

Sơ tổ Trúc Lâm, Ngài đă đắp nền để ương hột trồng cây, cho nên sau này mộng của hạt Bồ đề nở càng ngày càng cao, khai hoa kết quả rất là nhiều.

“Dơi truyền đất Việt thấp cao trùng trùng”, bản nầy là “thấp cao trùng trùng”, bản 1932 là “tháp cao trùng trùng”. Chữ “tháp cao trùng trùng” tức là tháp cao lớp lớp, tằng tằng. C̣n “thấp cao trùng trùng” tức là lớp cao lớp thấp, từng cấp từng bậc rất nhiều. Nghĩa là những người nối theo hệ thống Thiền này, người tu cao người tu thấp từng lớp từng lớp rất là đông.

            Ai khôn có trí có công,

            Tu hành ngộ được Tâm Tông mới mầu.

            Nhân duyên có trước có sau,

            Ai ai cũng có tính châu Bồ Đề.

Người nào khôn ngoan có trí, có công phu tu hành ngộ được Tâm tông tức là Thiền tông, đó mới là đạo mầu.

“Nhân duyên có trước có sau”, tùy nhân duyên có người tu trước có người tu sau. Nhưng “Ai ai cũng có tính châu Bồ Đề”, dù tu trước hay tu sau, ai ai cũng sẵn có hạt châu giác ngộ, không phải tu trước mới có, c̣n tu sau th́ không. V́ thế Tăng Ni cũng như Phật tử đừng có tủi ḿnh tu muộn, chỉ có điều là nếu người tu trước tu từ từ chậm chậm, c̣n người tu sau nỗ lực tu nhanh, rốt cuộc rồi lại tới trước. Cũng như người đi đường, cùng đi một đoạn đường, mà người đi trước thả bộ từ từ, c̣n người đi sau thấy ḿnh đă trễ nên hấp tấp đi nhanh, có khi cũng tới trước. Thế nên chúng ta đừng có mặc cảm rằng tôi tu sau, mà chỉ có mặc cảm là tôi tu lừng chừng, tu cho lấy có. C̣n tuy tu sau mà hăng hái quyết liệt th́ cũng có kết quả như thường. Ở đây nói rất rơ: Tuy nhân duyên có trước  có sau, nhưng ai ai cũng sẵn có tính châu Bồ đề, tức là sẵn có tánh giác sáng suốt.

            Kiến văn tri giác khác ǵ,

            Mày ngang mũi dọc xem th́ bằng nhau.

Tánh giác sẵn có nơi mọi người, tánh giác ấy hiện ra ở đâu? Theo bản nầy là: “Kiến văn tri giác khác ǵ. Mày ngang mũi dọc xem th́ bằng nhau”. C̣n bản 1932 là: “Hay ăn hay nói khác chi. Mày ngang mũi dọc xem th́ bằng nhau”. Tuy câu văn hai bản khác nhau, nhưng ư không khác.

“Kiến văn tri giác khác ǵ”, nghĩa là thấy, nghe, biết, và cảm nhận, đâu khác ǵ nhau. Tất cả chúng ta ai cũng thấy, cũng nghe, cũng biết, cũng có cảm giác, không có khác nhau. Đó là tánh giác chớ ǵ. Người nào cũng mày ngang là chân mày nằm ngang, mũi dọc là mũi xuôi xuống, xem giống hệt nhau. Đâu có ai chân mày ngược đứng lên hay dọc xuôi xuống... Như vậy tất cả chúng ta đều sẵn có cái thấy, cái nghe, cái cảm giác như nhau, và ai cũng có mày ngang mũi dọc như nhau, không có ai khác ai cả. Chỉ khác nhau là chỗ huân tập, huân tập nghiệp nào th́ có khả năng trong nghiệp đó. Nghiệp có sai biệt mà tánh giác không sai biệt. Thế th́ chúng ta sống đừng v́ những huân tập sai biệt mà tự cho ḿnh là hay, chê người là dở. Trái lại chúng ta phải thấy rơ rằng ai cũng có tánh giác, ai cũng có mày ngang mũi dọc như nhau, đừng có khinh ai. Chúng ta phải học hạnh của Bồ tát Thường Bất Khinh, Ngài không khinh ai cả. Song trong giới người tu chúng ta thường có hai bệnh, nếu không bị mặc cảm tự ti th́ bị bệnh tự tôn. Mặc cảm tự ti là khi nghe nói tới giác ngộ th́ nghĩ rằng ḿnh làm không nổi, chuyện đó của Phật, của Bồ tát, chớ làm sao ḿnh giác ngộ được. C̣n bệnh tự tôn là khi nghe nói ḿnh có tánh giác rồi không lo tu, thấy ai cũng ngẩng đầu, tôi có sẵn tánh giác, tôi có thua các người đâu! Tuy ḿnh có tánh giác nhưng người tu trước dẹp phiền năo nhiều hơn ḿnh, ḿnh có tánh giác mà không dẹp phiền năo th́ cũng như có viên ngọc c̣n nằm trong đống rác, biết có ngọc mà không dùng được việc ǵ! C̣n người dẹp được rác, lấy ngọc bỏ túi th́ người ta hơn ḿnh. Hiểu như vậy chúng ta phải khéo tránh hai bệnh, bệnh tự ti mặc cảm và bệnh tự tôn ngạo mạn.

            Phật tiền Phật hậu trước sau,

            Bát Nhă huyền chỉ đạo mầu Ma Ha.

Phật tiền là Phật trước, Phật hậu là Phật sau, tuy có Phật trước Phật sau, nhưng huyền chỉ của Bát Nhă th́ đạo mầu rộng lớn thênh thang. Chữ Ma ha là rộng lớn thênh thang.

            Mênh mông bể Thích tuy xa,

            Biết đường vượt tắt đến nhà một giây.

Biển Thích rộng mênh mông, tuy xa xôi nhưng biết đường đi tắt th́ một giây là đến nhà. Hiện giờ chúng ta cũng thấy rơ điều nầy: Ngày xưa từ đây qua Trung Quốc hay qua Ấn Độ th́ xa ngàn trùng. Nhưng ngày nay nhờ có phi cơ phản lực chỉ cần vài tiếng đồng hồ là đến nơi. Thế nên nếu đi đường rừng hay đường biển th́ rất lâu, nếu đi đường chim th́ rất nhanh chóng. Cũng như vậy, nếu người tu biết đi thẳng đừng có quanh co th́ cũng rất nhanh. Sao gọi là đi đường rừng, đi đường biển, đi đường chim? Như hiện giờ có nhiều vị tu cứ nói: Ḿnh căn cơ tŕ độn, rán lạy Phật, cúng Phật, cầu nguyện đời sau gặp Phật tu nữa, bây giờ tu được tới đâu hay tới đó. Tu như vậy th́ chừng bao nhiêu đời? Tu cách nầy th́ đến ba vô số kiếp. Đó là đi đường rừng, đường biển, đường quanh co. C̣n nếu biết rằng chúng ta sẵn có tánh Phật, sở dĩ không thấy được là tại vô minh phiền năo phủ che, ngay đây phải cố gắng dẹp tan vô minh phiền năo th́ tánh Phật hiện ra, chỉ trong gang tấc chớ không phải xa. Đó gọi là đi thẳng đường chim. Thế nên biết tu th́ mau, không biết th́ lâu là như vậy.

            Ḷng Bụt thương chúng sinh thay!

            Bách ban phương tiện mở nay để chờ.

Ḷng Phật thương chúng sanh rất nhiều, rất thắm thiết, cho nên Ngài mở bày cả trăm phương tiện để chỉ dạy tùy theo căn cơ của mỗi người.

            Bằng người cao sĩ quán cơ,

            Thông sao một hớp cạn bờ sông Tây.

Đến đây ngài Chân Nguyên nói thẳng về Thiền. Tuy Phật có chia cả trăm phương tiện để hướng dẫn chỉ dạy người, nhưng nếu là người cao sĩ quán triệt được căn cơ của ḿnh, thấu suốt được ư nghĩa thâm trầm của Thiền, th́ chỉ cần hớp một hớp cạn nước sông Tây là được ngộ. Đây là dẫn câu chuyện ông Bàng Long Uẩn đến tham vấn Mă Tổ, hỏi: “Người chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người ǵ?” Mă Tổ bảo: “Ông hớp một hớp cạn nước Tây giang, ta sẽ nói cho ông nghe”. Ngay đó ông Bàng Long Uẩn liền ngộ, biết được con người không cùng muôn pháp làm bạn.

Câu hỏi của ông Bàng cũng khó hiểu: Người không cùng muôn pháp làm bạn là người nào? Có phải là người phàm phu chúng ta không? Chúng ta thích hoa kiểng, thích núi sông..., tức là chúng ta đang làm bạn cùng muôn pháp. C̣n người không cùng muôn pháp làm bạn là người mà Lục Tổ đă nói: “Bản lai vô nhất vật”, tức là “xưa nay không một vật” th́ làm bạn với ai? C̣n cái ǵ để làm bạn? Vậy người đó là người nào? Câu hỏi thật là sâu, cho nên Mă Tổ chỉ nói: “Ông hớp một hớp can gịng Tây giang, ta sẽ v́ ông mà nói”. Ngay đó ông Bàng Long Uẩn ngộ, ngộ được “người không cùng muôn pháp làm bạn”. Như vậy đó là hàng cao sĩ.

            Bảo thật cứu cánh cho hay,

            Tứ Mục Tương Cổ đă th́ ấn tâm.

Nói thật đến chỗ cứu cánh là: “Tứ mục tương cố đă th́ ấn tâm”. Tứ mục tương cố là bốn mắt nh́n nhau, đó là ấn tâm rồi. Chúng tôi nói lại một lần nữa để quí vị khỏi hiểu lầm chữ Tứ mục tương cố. Bởi v́ Thánh với Thánh tứ mục tương cố hiểu nhau liền, c̣n phàm với phàm tứ mục tương cố cũng hiểu nhau. Nhưng hiểu theo cách nào? Phàm th́ hiểu theo phàm, Thánh th́ hiểu theo Thánh, chớ đừng nghĩ tứ mục tương cố là thánh hết, hiểu như vậy là lầm. Trong nhà đạo người hỏi người đáp bốn mắt nh́n nhau là cảm thông, cảm thông là ngộ đạo. C̣n người thế gian bốn mắt nh́n nhau cảm thông theo thế t́nh, chớ không có ngộ đạo. Đó là chỗ đặc biệt.

            Bụt truyền từ cổ đến câm (kim),

            Ai tin th́ được ấn tâm thật thà.

Đức Phật truyền từ khi xưa cho đến ngày nay ai tin nhận được điều đó th́ được ấn tâm không có nghi ngờ, thật thà tức là đúng như vậy.

            Xem Thánh Đăng Lục giảng ra,

            Kéo đèn Phật Tổ sáng ḥa Tam Thiên.

Bản nầy là “Kéo đèn”, bản 1932 là “khêu đèn”, chữ khêu đèn th́ hợp lư hơn. V́ ngày xưa đốt đèn dầu, ngọn đèn cháy ṃn bị mờ đi, nên ḿnh khêu lên nó liền sáng. Cho nên nói: “Khêu đèn Phật Tổ sáng ḥa Tam Thiên”. Hiện nay người nào muốn hiểu rơ chỗ đạo lư chân thật th́ nên xem quyển Thánh Đăng Lục, đó là khêu ngọn đèn Phật Tổ sáng khắp cả Tam Thiên.

            Việt Nam thắng cảnh Hoa Yên,

            Sát tiêu Cực lạc Tây Thiên những là.

Cảnh chùa Hoa Yên ở Việt Nam rất đặc biệt rất thù thắng, gần với cảnh Cực lạc ở Tây phương, chớ không phải tầm thường. Chúng tôi có lên đến Hoa Yên nhưng v́ chưa thấy cảnh Cực lạc nên không so sánh được. Chỉ thấy Hoa Yên đơn độc quá. C̣n đối với ngài Chân Nguyên th́ cảnh chùa Hoa Yên với cảnh Cực lạc không khác nhau bao nhiêu.

            Vĩnh trấn cửu phẩm Di Đà,

            Phần hương chúc Thánh quốc gia thọ trường.

Đây là lời Ngài tán thán muốn ở măi nơi Cửu Phẩm Liên Hoa của đức Phật Di Đà, đốt hương cầu nguyện cho quốc gia được an lành măi măi.

            Đời đời tượng pháp hiển dương,

            Thiệu long Tam Bảo Tây Phương Phật đường.

Nguyện cho thời tượng pháp nầy đời đời được hiển bày sáng tỏ, nối tiếp hạt giống Tam Bảo như là cơi Phật ở Tây phương.

            Điều Ngự, Pháp Loa, Huyền Quang.

            Tam vị Phật Tổ Nam bang Trần triều.

Theo cái nh́n của ngài Chân Nguyên, th́ Sơ Tổ Trúc Lâm, Tổ Pháp Loa và Tổ Huyền Quang là ba vị Phật Tổ đời Trần ở nước Việt Nam.

            Hoa Yên, Long Động, Vân Tiêu,

            Quỳnh Lâm tượng pháp độ siêu vô cùng.

Hệ phái Trúc Lâm có những ngôi chùa, như trên núi Yên Tử có chùa Hoa Yên, trên Hoa Yên có am Vân Tiêu, dưới chân núi có chùa Long Động; và c̣n có chùa Quỳnh Lâm v.v... Đó là thời tượng pháp để độ siêu cho chúng sanh.

            Kính khuyên Nam Bắc Tây Đông,

            Muốn được nên Bụt, phát ḷng xuất gia.

Vậy nên khuyên những người ở Nam Bắc Tây Đông muốn được thành Phật phải phát ḷng xuất gia tu hành.

            Trước là độ lấy thân ta,

            Sau là cứu được mẹ cha Tổ Huyền.

Ngài khuyên người xuất gia để làm ǵ? Trước là độ lấy thân ḿnh, sau là cứu độ cha mẹ, cửu huyền thất tổ. Như vậy người đi tu không phải chỉ lo cho ḿnh, mà c̣n lo độ cha mẹ và cửu huyền thất tổ.

            Vua Trần tước lộc binh quyền,

            Người c̣n thoát để tu Thiền lọ ta.

Các vua đời Trần như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông ... là các vị vua binh quyền mạnh mẽ mà các Ngài c̣n bỏ ngôi báu đi tu, huống nữa là chúng ta. Chúng ta chưa phải là quan, c̣n là dân dă, tại sao lại tiếc không chịu tu? Đó là lời nhắc nhở rất thiết yếu của ngài Chân Nguyên.

            Cửu liên đài thượng khai hoa,

            Những người niệm Bụt Di Đà Phật danh.

Trong Cửu Liên Đài hay Đường lối tu về Cực lạc tức là tu Tịnh Độ, có chia làm Cửu phẩm hay chín phẩm từ thấp lên cao. Những người muốn được về Cực lạc th́ phải niệm danh hiệu đức Phật Di Đà.

            Cùng về Cực Lạc hóa sinh,

            Ḿnh vàng vóc ngọc quang minh làu làu.

            Tiêu dao khoái lạc chẳng âu,

            Bất sinh bất diệt ngồi lầu Ṭa Sen.

Nếu niệm danh hiệu Phật Di Đà th́ được về cơi Cực lạc hóa sinh, chớ không phải cha mẹ sinh, được ḿnh vàng vóc ngọc hào quang sáng ngời, tiêu dao khoái lạc không có ǵ lo âu, không sanh không diệt, ngồi trên lầu ṭa sen.

Như vậy chúng ta thấy ngài Chân Nguyên vừa dạy tu Thiền vừa khuyên tu Tịnh Độ. Tại sao đường lối tu của Ngài lại hỗn hợp như vậy? Chúng tôi xin dẫn sử cho quí vị hiểu. Thiền sư Chân Nguyên (1647 - 1726) sống giữa thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, nhằm thời Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước Việt Nam chia đôi ra Đàng Trong Đàng Ngoài, lấy sông Linh Giang làm ranh giới. Từ năm 1600 thời vua Lê Kính Tông, ở ngoài Bắc có vua Lê chúa Trịnh, trong Nam có chúa Nguyễn. Chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều nói là tôn thờ nhà Lê, nhưng hai chúa không bằng ḷng nhau nên có chiến tranh liên tục. Nhưng đến khi vua Lê Hi Tông lên ngôi năm 1678 th́ nội chiến bớt căng thẳng.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, có 7 lần chiến tranh trong ṿng 45 năm, lần thứ nhất năm Đinh Măo 1627 đến lần thứ bảy năm Nhâm Tí 1672, hai bên đánh nhau chết chóc rất nhiều nơi ranh giới sông Linh Giang, c̣n gọi là sông Gianh. Thời nầy không c̣n quân Minh qua xâm chiếm, nhưng nội bộ đất nước chia đôi chém giết lẫn nhau, không có thống nhất. V́ thế mà ḷng dân bất an, chán nản, không biết nương tựa vào đâu.

Lại nữa sau khi nhà Trần mất, đến nhà Hồ rồi quân Minh qua xâm lăng và đến nhà Lê. Nhà Lê khi ấy trọng Nho khinh Phật, không c̣n dùng Phật giáo để giúp đỡ về văn hóa trong triều chính, mà lấy Nho làm căn bản trong việc giữ nước trị dân. Thế nên Phật giáo trong đời Lê lui về thôn dă sống với dân quê. Với dân quê nói Thiền họ không hiểu, nói Tịnh độ dạy niệm Phật người dân dễ hiểu dễ tu hơn. V́ vậy qua đời Lê, Phật giáo nghiêng về Tịnh độ.

Phần th́ nhà Lê trọng Nho khinh Phật, phần th́ đất nước phân tranh, ḷng dân ly tán, không c̣n ư chí tin tưởng vững chắc nơi ḿnh nữa, hai điều nầy làm cho người dân không c̣n sức mạnh để nhận được lư thiền, do đó vừa nói Thiền vừa nói Tịnh cho nó hợp. Thế nên tinh thần Phật giáo đời vua Lê Hy Tông, tuy các vị lănh đạo tu hành ngộ lư thiền như ngài Chân Nguyên, nhưng trong Thiền đă có Tịnh để gần với quần chúng dân quê... V́ vậy Thiền Tịnh thời nầy ḥa quyện với nhau, nói Thiền rồi nói Tịnh chớ không có tách rời như thời Trần. Chúng ta phải thấy cho thật rơ ư nghĩa nầy.

Nói đến đây chắc nhiều người sẽ thắc mắc, tại sao hiện nay chúng tôi không dạy Thiền Tịnh ḥa quyện nhau, tức là Thiền Tịnh song tu? Chúng ta không bao giờ có quan niệm chống Tịnh độ v́ Tịnh độ là một pháp tu trong nhà Phật, cũng như đoạn trước đă nói là Phật có cả trăm phương tiện để giáo hóa chúng sanh. Tuy nhiên chúng ta phải có cái nh́n cho thuận hợp với thời cơ. Nếu nói tu Tịnh độ th́ chúng ta xét kỹ Tịnh độ là thế nào? Tu Tịnh Độ phải có hai phần: Sự Tịnh độ và lư Tịnh độ. Sự Tịnh độ là niệm danh hiệu Phật Di Đà cầu văng sanh về Cực lạc. C̣n lư Tịnh độ th́ niệm Phật tức là niệm tâm, hễ tâm tịnh th́ độ tịnh. Cho nên nói “tự tánh là Di Đà, duy tâm là tịnh độ”. Tự tánh là tánh giác, v́ tự tánh là tánh ḿnh mà tánh ḿnh là tánh giác, cho nên nói là Phật Di Đà vô lượng quang. “Duy tâm là tịnh độ”, tâm tịnh th́ độ tịnh. Tâm ḿnh nếu dứt hết phiền năo, sạch hết vọng tưởng th́ tâm tịnh, đó là tịnh độ. Như vậy về “lư Tịnh độ” th́ Thiền với Tịnh không hai, song về “sự Tịnh độ” th́ có khác.

Sự Tịnh độ là niệm Phật cầu sanh về Cực lạc, đây là một vấn đề mà lâu nay chúng tôi hơi thắc mắc. Nếu nói về Cực lạc th́ hiện giờ chúng ta có cái ǵ làm bằng chứng cơi Cực lạc chắc trăm phần trăm không? Cũng như là Mộc tinh Hỏa tinh đang được thám hiểm, sau nầy có thể dùng phi thuyền phóng tới Cực lạc được không? Không có ǵ làm chứng được. Chỉ nghe Kinh nói cách đây mười muôn ức cơi có cơi Cực lạc, nơi đó có đức Phật A Di Đà đang giáo hóa. V́ kinh nói nên chúng ta tin vậy thôi, chớ chưa có ai biết chắc cơi đó ở chỗ nào. Kinh nói cơi Cực lạc ở phương tây, mà phương tây là phương nào? Nếu nói đông tây nam bắc th́ phương tây là phương mặt trời lặn. Nhưng trái đất quay tṛn, không biết đứng chỗ nào mà chỉ phương tây. Mới nói đông lần lần nó qua tây, nói tây lần lần nó qua đông. Trái đất cứ lăn tṛn măi không dừng một chỗ, nên không cố định đây là đông, kia là tây! Như vậy đi phương nào để đến phương tây?

Lại nữa, nói rằng niệm Phật được về Cực lạc, có nhiều người đặt câu hỏi: Nếu ông bà ḿnh niệm Phật được về Cực lạc hưởng sự sung sướng, ông bà v́ thương con cháu tất nhiên phải báo tin cho hay để chúng nó lo được về bên ấy với ông bà. Nhưng tại sao bao nhiêu người ra đi từ trước đến nay mà không bao giờ có tin tức nhắn về cho con cháu? Không có chỗ nơi, không có tin tức mà nói có cơi ấy th́ nghĩ làm sao? Đó là một vấn đề nan giải. Nếu chúng ta nói để mà tin th́ dễ, nếu nói để chứng thực th́ rất khó!

Thời nầy là thời đại văn minh, khi nói ra điều ǵ th́ phải có bằng chứng, nếu không biết chứng cứ th́ làm sao nói? Nói niệm Phật tâm tịnh th́ độ tịnh, điều nầy dễ nói. Tâm ḿnh không c̣n phiền năo, không c̣n loạn tưởng, đó là tâm tịnh. Tâm tịnh th́ sanh chỗ nào cũng tịnh, ở ngay đây cũng tịnh. Giả sử trong những người xuất gia hay tại gia, người nào trong ḷng không c̣n gợn một chút phiền năo không c̣n gợn một chút lo âu, th́ ở chỗ nào cũng không buồn, mà chỗ nào cũng tịnh cả. C̣n nếu người nào trong ḷng đầy phiền năo lo âu th́ ở chỗ nào cũng không vui, nếu có vui chỉ là vui gượng mà thôi. Như vậy rơ ràng là nếu tâm ḿnh chưa tịnh th́ ở đâu cũng không tịnh, nếu tâm ḿnh tịnh rồi th́ ở chỗ nào cũng tịnh. Cũng như thế, những người được vui trong ḷng th́ họ thấy cái ǵ cũng muốn cười với họ, c̣n người có chuyện âu sầu th́ họ thấy cái ǵ cũng muốn khóc với họ, đó  là v́ ḷng ḿnh chưa có tịnh. Cho nên ư nghĩa về lư Tịnh độ "tâm tịnh độ tịnh "th́ rất dễ nói, rất gần với Thiền, c̣n về sự Tịnh độ th́ thật khó nói, điều khó nói mà gượng nói th́ không ổn.

Thế nên chúng tôi chủ trương tu thiền, v́ khi ngồi thiền những tâm niệm xấu dở hiện ra, chúng ta biết ḿnh c̣n xấu dở, chúng hiện ra nhiều th́ biết ḿnh c̣n xấu dở nhiều, chúng hiện ra ít th́ biết chúng đă giảm. Như vậy chúng ta tự chứng nghiệm ḿnh, biết từng bước tiến của ḿnh trên đường tu. Đến một lúc nào tất cả niệm tham sân si đều dứt sạch, thấy ai ḿnh cũng vui cười không có chút ǵ phiền hà, đó là đă tự tại, là giải thoát ngay cơi trần gian, khỏi về Cực lạc hay Thiên đường, mà ở ngay đây cũng được giải thoát. Đó là một lẽ thật, tu đi tới lẽ thật đó là cụ thể, chớ không phải tưởng tượng. Nếu c̣n tưởng tượng một nơi nào, làm sao gọi là chân lư được? Phật Pháp là chân lư, tưởng tượng không phải là chân lư. Chúng ta nên nhớ rơ chân lư là trí tuệ thấy đúng như thật, xét đúng như thật. C̣n tưởng tượng là ảo tưởng, tưởng tượng ra cảnh nầy cảnh kia, th́ không phải là chân lư. V́ vậy mà chúng tôi chỉ truyền Thiền trong thời nầy mà không nói thêm Tịnh độ. Người tu Tịnh độ thích niệm Phật để về Cực lạc, mà cơi ấy có hay không chúng tôi không bảo đảm. V́ không bảo đảm mà dạy người làm th́ ḷng chúng tôi không an. Thế nên làm việc ǵ chúng tôi phải cẩn mật và dè dặt, cái ǵ bảo đảm, chúng tôi mới dám dạy, đó là lẽ thật vậy.

6.1 KẾT LUẬN VỀ GIÁO LƯ THIỀN

            Hạnh này cổ tích Thánh Hiền,

            Đời đời san bản để truyền lưu thông.

            Hậu lai ai có hiếu trung,

            Dù là ngộ được Tâm Tông hạnh này.

            Báo ơn Phật Tổ mai ngay,

            Thiệu long tượng Pháp san lai truyền đời.

            Công thành quả măn làm nơi,

            V́ hay hà đảm Như Lai tông Thiền.

            Niêm hoa đă lại kéo đèn,

            Công ấy muôn ngh́n thắng quả cao thay.

            Dược am gió mát bóng cây,

            Giọn Thiền Tông lại san nay để truyền.

            Phổ độ Pháp giới hữu duyên,

            Cùng thành chính giác quả viên Bồ Đề.

            Mưa xuân đượm ướt vườn lê,

            Cành cao cành thấp đều th́ nở hoa.

            Cho hay đức Bụt Thích Ca,

            Hóa thân bách ức khắp ḥa mười phương.

            Hiện ra làm quyền Đế Vương,

            Chí tôn Phật Tổ Giác Hoàng quốc trung.

            Cơ duyên ứng xuất vương cung,

            Cơ duyên măn hữu hội đồng Linh Sơn.

            Chân Phật nào có Nát Bàn,

                Nghiệm chứng không tịch phục hoàn bản nguyên.

            Hóa Phật thụ kư vô biên.

            Tứ Mục Tương Cố mật truyền Tâm Tông.

            Ai khôn chớ chạy Tây Đông,

            Bôn tŕ Nam Bắc, luống công mê hồn.

            Liễu ngộ Bất Nhị Pháp Môn,

            Chân không Tự Tính chẳng c̣n cầu ai.

            Điều Ngự cổ Phật tái lai,

            Tông giáo trong ngoài phó chúc tuân y.

            Thật ḍng Lâm Tế tông chi,

            Pháp phái vĩnh thùy Yên Tử Thiền lâm.

            Đạo truyền từ cổ đến câm (kim),

            Thánh Đăng Ngữ Lục ấn tâm trường tồn.

            Phật Đạo vô thượng chí tôn,

            Quốc gia hữu vĩnh, càn khôn vững bền.

            Phổ nguyện Pháp giới hữu duyên,

            Đồng đăng Cửu phẩm Tây Thiên Di Đà.

Vậy có kệ rằng:

            Tính vốn làu làu, tri bất tri,

            Đêm ngày bảo nhậm chữ Vô Vi.

            Bụt chỉn là Vua, Vua là Bụt,

            Tung hô vạn tuế, thọ tăng kỳ.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

* * *

            Hạnh này cổ tích Thánh Hiền,

            Đời đời san bản để truyền lưu thông.

            Hậu lai ai có hiếu trung,

            Dù là ngộ được Tâm Tông hạnh này.

            Báo ơn Phật Tổ mai ngay,

            Thiệu long tượng pháp san lai truyền đời.

Ngài Chân Nguyên nói “hạnh này” tức là hạnh của các bậc Thánh Hiền đă tu thuở xưa. “Đời đời san bản” là đời đời khắc bản in để lưu truyền những hạnh nầy cho mai sau.

“Hậu lai ai có hiếu trung” là những người có ḷng trung hiếu ở đời sau. “Dù là ngộ được tâm tông hạnh nầy”, nhưng để báo ơn Phật Tổ và nối tiếp thời tượng pháp, th́ phải san bản truyền lại cho đời, tức là cho khắc in bản nầy để truyền lại cho đời.

            Công thành quả măn làm nơi,

            V́ hay hà đảm Như Lai tông Thiền.

            Niêm hoa đă lại kéo đèn,

            Công ấy muôn ngh́n thắng quả cao thay.

Chúng ta biết in, biết tái bản tập sách này, đó là chỗ công quả đầy đủ của ḿnh. “V́ hay hà đảm Như Lai tông Thiền” là hay gánh vác được Thiền Tông Như Lai.

“Niêm hoa đă lại kéo đèn”, tức là niêm hoa vi tiếu là cầm hoa sen đưa lên, hoặc khêu ngọn đèn trí tuệ sáng lên. “Công ấy muôn ngh́n thắng quả cao thay”, công ấy rất nhiều như muôn ngh́n thắng quả cao thượng.

            “Dược am gió mát bóng cây,

            Giọn Thiền Tông lại san nay để truyền.

            Phổ độ Pháp giới hữu duyên,

            Cùng thành chính giác quả viên Bồ Đề.

            Mưa xuân đượm ướt vườn lê,

            Cành cao cành thấp đều th́ nở hoa.”

Đoạn nầy vừa tả cảnh vừa nói đạo lư rất thiết tha.

Bản nầy là ‘Dược am gió mát bóng cây”, bản 1932 là “Tuệ sách như xiển thuở nầy”, tuệ sách là sách trí tuệ, như xiển thuở nầy là như mở mang lúc nầy.

Bản nầy là “Giọn Thiền Tông lại san nay để truyền”, bản 1932 là “San Thiền Tôn lại để nay lưu truyền”. So sánh lại th́ bản nầy nói rất rơ:

“Dược am gió mát bóng cây”, trên núi Yên Tử có cái am tên là Dược am, ngài Chân Nguyên lên đó để tu. Nơi Dược am có tàng cây bóng mát, gió hiu hiu rất là thích.

“Giọn Thiền Tông lại san nay để truyền”, giọn là sửa sang lại, san là in ấn, san bản là khắc bản in. Nghĩa là sửa sang lại bộ Thiền Tông Bản Hạnh để khắc bản in truyền lại cho đời.

“Phổ độ Pháp giới hữu duyên” là phổ độ cho cả pháp giới những người có duyên. “Cùng thành chính giác quả viên Bồ Đề”, cùng thành chánh giác tṛn quả Bồ Đề.

            Mưa xuân đượm ướt vườn lê,

            Cành cao cành thấp đều th́ nở hoa.

Đến đây ngài Chân Nguyên vừa tả cảnh vừa nói đạo lư rất thâm trầm. Thời tiết ở miền Bắc có mưa mùa xuân, trong Nam có mưa mùa hè và mùa thu, ít có mưa xuân. Ở miền Bắc mưa mùa xuân đượm ướt cả vườn lê, cây cao cây thấp trong vườn nhờ mưa xuân đều được nở hoa. Cũng như vậy, người được đọc quyển Thiền Tông Bản Hạnh nầy, dù tŕnh độ cao hay thấp đều được thấm nhuần, đều thấy đạo lư.

            Cho hay đức Bụt Thích Ca,

            Hóa thân bách ức khắp ḥa mười phương.

            Hiện ra làm quyền Đế Vương,

            Chí tôn Phật Tổ Giác Hoàng quốc trung.

Cho hay đức Phật Thích Ca hóa thân trăm ức bủa khắp mười phương. Biết đâu Sơ Tổ Trúc Lâm là một hóa thân của Phật Thích Ca? Ngài hiện ra làm vua rồi tu hành ngộ đạo làm bậc chí tôn trong nước.

            Cơ duyên ứng xuất vương cung,

            Cơ duyên măn hữu hội đồng Linh Sơn.

            Chân Phật nào có Nát Bàn,

                Nghiệm chứng không tịch phục hoàn bản nguyên.

Theo cơ duyên mà ứng hiện trong vương cung, cơ duyên măn rồi th́ trở về hội Linh Sơn. C̣n Phật thật tức là Phật pháp thân th́ đâu có nhập Niết Bàn. Thế th́ có ứng hiện ở vương cung, có trở về hội Linh Sơn, đó là hóa thân Phật, c̣n pháp thân Phật th́ không có nhập Niết Bàn. Nghiệm chứng cho thật rơ khi tâm ḿnh lặng lẽ th́ trở về bản nguyên tức là trở về nguồn cội.

            Hóa Phật thụ kư vô biên,

            Tứ Mục Tương Cố mật truyền Tâm Tông.

Về hóa Phật th́ được thọ kư rất nhiều không thể kể hết, do bốn mắt nh́n nhau mà được truyền Tâm Tông.

            Ai khôn chớ chạy Tây Đông,

            Bôn tŕ Nam Bắc, luống công mê hồn.

            Liễu ngộ Bất Nhị Pháp Môn,

            Chân Không Tự Tính chẳng c̣n cầu ai.

Ai là người khôn ngoan th́ đừng chạy đông chạy tây làm ǵ, cũng đừng t́m kiếm ở nam hay bắc, luống công nhọc ḷng, chẳng ích ǵ. Nếu liễu ngộ được Pháp môn bất nhị th́ tự tánh chân không chẳng c̣n t́m cầu ở ai nữa.

Đoạn nầy ngài Chân Nguyên muốn nhắc chúng ta: Ai tu theo đạo Phật mà khôn ngoan th́ đừng t́m kiếm ở đâu xa, mà phải ngay nơi tâm ḿnh nhận ra được Pháp môn không hai. Thế nào là Pháp môn không hai? Thấy có phải có quấy, có hơn có thua, đó là hai. Nếu người nào dẹp bỏ phải quấy, hơn thua, đó là Pháp môn không hai, rất dễ không có ǵ khó cả. Đừng thấy phải quấy, hơn thua, tốt xấu, thế là thấu được "Pháp môn bất nhị".

            Điều Ngự cổ Phật tái lai,

            Tông giáo trong ngoài phó chúc tuân y.

            Thật ḍng Lâm Tế tông chi,

            Pháp phái vĩnh thùy Yên Tử Thiền Lâm.

            Đạo truyền từ cổ đến câm (kim),

            Thánh Đăng Ngữ Lục ấn tâm trường tồn.

Ngài Điều Ngự cũng là một vị cổ Phật trở lại trong đời nầy, chớ không phải người thường. Về phần thiền phần giáo Ngài trao truyền lại, chúng ta phải tuân theo đó mà hành. Ngài thuộc ḍng Lâm Tế, nhưng pháp phái của Ngài là pháp phái Thiền Lâm ở Yên Tử hay là phái Trúc Lâm Yên Tử.

“Đạo truyền từ cổ đến câm”, là đạo truyền từ xưa đến nay. “Thánh Đăng Ngữ Lục ấn tâm trường tồn”, quyển Thánh Đăng Ngữ Lục là quyển ấn tâm măi măi c̣n chớ không có mất. V́ vậy quyển Thiền Tông Bản Hạnh nầy là trích từ bản Thánh Đăng Ngữ Lục, nhưng ngài Chân Nguyên có bổ túc, Ngài lượm lặt những tư liệu để đóng góp thêm chớ không phải thuần như vậy. Thế nên học xong quyển Thiền Tông Bản Hạnh, chúng ta phải đọc quyển Thánh Đăng Ngữ Lục để biết rơ thêm.

            Phật Đạo vô thượng chí tôn,

            Quốc gia hữu vĩnh, càn khôn vững bền.

            Phổ nguyện Pháp giới hữu duyên,

            Đồng đăng Cửu Phẩm Tây Thiên Di Đà.

Chúng ta thấy rơ đoạn trước nói về Thiền, đến đây lại nói về Tịnh.

Đạo Phật chí tôn vô thượng, quốc gia luôn luôn vững chắc, càn khôn măi măi lâu bền. Nguyện cho trong pháp giới những người có duyên đều được lên đài Cửu phẩm, được về cơi Tây Thiên của Phật Di Đà.

Vậy có kệ rằng:

            Tính vốn làu làu, tri bất tri,

            Đêm ngày bảo nhậm chữ vô vi.

            Bụt chỉn là Vua, Vua là Bụt,

            Tung hô vạn tuế, thọ tăng kỳ.

            Nam Mô A Di Đà Phật

Bài kệ nầy, ngài Chân Nguyên rút gọn lại cho chúng ta rơ:

“Tính vốn làu làu tri bất tri”. Tánh giác của mỗi người chúng ta vốn là sáng làu làu, “tri bất tri” tức là biết mà chẳng biết. Đây là một câu rất khó hiểu. Chúng tôi cho một ví dụ, như b́nh hoa hồng đặt ở đây tất cả quí vị nh́n lên thấy có hoa trắng, hoa vàng, hoa đỏ, th́ tất cả biết là trắng là vàng là đỏ, biết hết phải không? Nhưng nếu hỏi trắng là đẹp, vàng hay đỏ là đẹp, th́ quí vị trả lời thế nào? Nếu người nầy cho hoa trắng là đẹp, người kia lại cho hoa đỏ là đẹp th́ sanh tranh căi. Đó là biết mà biết. C̣n nếu chúng ta chỉ thấy có trắng có vàng có đỏ, thấy như vậy là như vậy. Nếu hỏi cái nào đẹp cái nào xấu th́ lắc đầu không trả lời. Đó là biết mà không biết, biết có trắng có vàng có đỏ mà không biết đẹp không biết xấu, v́ trắng vàng đỏ là cái trực diện của ḿnh từ mắt thấy, không có qua suy nghĩ, không có niệm phân biệt. C̣n nếu nói cái nầy đẹp, cái kia xấu th́ có qua suy nghĩ, có niệm phân biệt, đó là vọng trí là cái biết không thật. Nếu thấy mà không qua suy nghĩ, không có niệm phân biệt, đó là chân trí, là cái biết thật. V́ vậy đứng về mặt biết thật th́ biết mà không biết tức là “tri bất tri”.

“Đêm ngày bảo nhậm chữ Vô Vi”, đêm ngày hằng phải bảo nhậm ǵn giữ vô vi. Vô vi là không có niệm động, không có niệm khởi, đó là bảo nhậm vô vi. Hai câu đầu bài kệ nói về tinh thần Thiền.

“Bụt chỉn là Vua, Vua là Bụt”, Phật là Vua, Vua cũng là Phật.

“Tung hô vạn tuế thọ tăng kỳ”, đứng về Vua th́ tung hô vạn tuế, đứng về Phật th́ thọ tăng kỳ. Như vậy Phật Vua không hai, cũng như phàm thánh không hai, không có ǵ ngoài nhau. Bài kệ nầy kết thúc quyển Thiền Tông Bản Hạnh.

]

 

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3-d1][p3-d2-c1][p3-d2-c2]

[p3-d2-c3-a1][p3-d2-c3-a2][p3-d2-c4][p3-d2-c5-a1][p3-d2-c5-a2][p3-d2-c6][p4][p5][p6][p7]

[Trang chu] [Kinh sach]