[Trang chu] [Kinh sach]

THIỀN TÔNG BẢN HẠNH

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3-d1][p3-d2-c1][p3-d2-c2]

[p3-d2-c3-a1][p3-d2-c3-a2][p3-d2-c4][p3-d2-c5-a1][p3-d2-c5-a2][p3-d2-c6][p4][p5][p6][p7]


THIỀN TÔNG BẢN HẠNH

(tt)

GIẢNG: (tt)

2.  CỖI GỐC THIỀN TÔNG

            Trước kể tông phái Thiền gia,

            Ai ai học đạo xem ḥa biết hay.

            Tây Thiên Thích Ca là thầy,

            Truyền cho Ca Diếp cùng thầy A Nan.

            Tính được nhị thập bát viên,

            Hai mươi tám Tổ Tây Thiên thuở này.

            Đạt Ma Tổ mái phương Tây,

Vượt sang Đông Độ truyền nay kệ rằng:

            “Ngô bản lai tư thổ,

            Truyền pháp cứu mê t́nh.

            Nhất hoa khai ngũ diệp,

            Kết quả tự nhiên thành.”

            Nguồn cơn tao đến chưng đây,

            Mở truyền giáo pháp làm thầy cứu mê.

            Một cây nở được năm chi,

            Khai hoa kết quả đều th́ chứng nên.

            Tuệ Khả, Tăng Xán tục liên,

            Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, lục Thiền Huệ Năng.

            Chư Tổ truyền dơi Tâm đăng,

            Tây Thiên Đông Độ thiệu long khắp trời.

            Ngũ gia tông phái mọi nơi,

            Kéo đèn chong ngọn đợi người hữu duyên.

            Chư Phật trỏ bảo căn nguyên,

            Khẩu thụ tâm truyền Bát Nhă chính tông.

            Tứ mục tương cố nhăn đồng,

            Thầy tớ trao ḷng đăng chúc giao huy.

            Bổng đầu cử nhăn ấn tri,

            Cơ quan thấu được thật th́ tri âm.

            Đến khi phó pháp truyền tâm,

            Vận dụng trí tuệ thiển thâm nhiều bề.

            Hoặc là nghiễm tọa vô vi,

            Hoặc là thuấn mục, dương mi, dao thần.

            Hoặc hiện sư tử tần thân,

            Quát thét một tiếng xa gần vang uy.

            Ai khôn xem đấy xá ngh́,

            Hội ngộ tự tính tức th́ chứng nên.

            Thuở xưa hội cả Kỳ Viên,

            Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày.

            Ca Diếp trí tuệ cao tay,

            Liễu ngộ tự tính bằng nay mỉm cười.

            Trần trần sát sát Như Lai,

            Chúng sinh mỗi người mỗi có hoa sen.

            Hoa là vốn tính trạm viên,

            Bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng.

            Hậu học đà biết hay chăng?

            Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời.

            Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi,

            Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông.

            Chân hoa sắc tức thị không,

            Không tức thị sắc thể đồng như như.

            Tam thế chư Phật Tổ sư,

            Tứ mục tương cố thị cừ thiền cơ.

            Ai chưa tín thụ c̣n ngờ,

            Thỉnh Kinh Lăng Già quyển nhị ḥa trông.

            Tự nhiên đốn ngộ Tâm tông,

            Kẻo t́m kinh giáo luống công lâu ngày.

            Giáo là kinh lục kể bày,

            Giấy mực văn tự chất đầy hà sa.

            Tông là nguyên tự tính ta,

            Vốn vô nhất vật lặng ḥa hư linh.

            Thuở xưa trời đất chưa sinh,

            Cha mẹ chưa có thật ḿnh chân không.

            Chẳng có tướng mạo h́nh dung,

            Tịch quang phổ chiếu viên đồng thái hư.

            Thánh phàm vô khiếm vô dư,

            Bất sinh bất diệt như như Di Đà.

            Liễu tri vạn pháp không hoa,

            Văn tự ngôn ngữ ấy là vọng duyên.

            Chân như tính vốn thiên nhiên,

            Vô tạo vô tác căn nguyên của nhà.

            Xem kinh Bụt thốt c̣n xa,

            Nghiệm cơ Tổ bảo sát na biết rồi.

            Ngộ tính không tịch th́ thôi,

            Chẳng lạ chi lời vấn đáp tiêu hao.

            Cơ quan thuận nghịch thấp cao,

            Những sự huyễn trí chiêm bao đặt làm.

            Đại vi thuyết pháp chỉ nam,

            Cho ta ngộ đạo kẻo đàm kinh lâu.

            Cho hay Phật pháp lẽ mầu,

            Bất quan văn tự bất cầu đa ngôn.

            Khuyên người học đạo trí khôn,

            Giác tri tự tính chớ c̣n t́m đâu.

            Phật Tổ phó chúc bấy lâu,

            Pháp ấn như thị làu làu chân không.

            Cùng truyền Bát Nhă Tâm tông,

            “Ngộ vô sở đắc” thật ḍng chân tăng.

            Thiệu Phật kế Tổ liên đăng,

            Tương truyền y bát thừa thằng thiệu long.

* * *

            Trước kểë tông phái thiền gia,

            Ai ai học đạo xem ḥa biết hay.

            Tây Thiên Thích Ca là thầy,

            Truyền cho Ca Diếp cùng thầy A Nan.

            Đây nói về nguồn gốc Thiền tông.

Tông phái nhà thiền từ buổi đầu, ai học đạo cũng nên biết rơ. Ở Tây Thiên tức là Ấn Độ, đức Phật Thích Ca là thầy, kế đó Phật truyền cho Ca Diếp, và Ca Diếp truyền cho A Nan.

            Tính được nhị thập bát viên,

            Hai mươi tám Tổ Tây Thiên thuở này.

            Đạt Ma Tổ mái phương Tây,

Vượt sang Đông Độ truyền nay kệ rằng:

Bản này là chữ ''mái'', bản in 1932 là ''mới'', có thể chữ mới đúng hơn.

Ở Ấn Độ, tính ra có 28 vị Tổ, Tổ thứ 28 là Tổ Đạt Ma từ phương Tây là từ Ấn Độ, vượt sang Đông Độ là Trung Hoa, truyền bài kệ rằng:

            Ngô bản lai tư thổ,

            Truyền pháp cứu mê t́nh.

            Nhất hoa khai ngũ diệp,

            Kết quả tự nhiên thành.

Đây là nguyên bản chữ Hán, nghĩa là:

            Tôi xưa đến cơi này,

            Truyền pháp để cứu độ những kẻ mê,

            Một cành hoa nở ra năm cánh,

            Kết quả thành tựu một cách tự nhiên.

            Nguồn cơn tao đến chưng đây,

            Mở truyền giáo pháp làm thầy cứu mê.

Lư do Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa là để mở truyền giáo pháp cứu độ những kẻ mê lầm, truyền măi cho đến ngày nay.

            Một cây nở được năm chi,

            Khai hoa kết quả đều th́ chứng nên.

            Tuệ Khả, Tăng Xán tục liên,

            Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, lục Thiền Huệ Năng.

Đây nói một cây có năm nhánh hay nói một hoa nở được năm cánh, hoa quả đều thành tựu. Năm cánh là năm vị Tổ ở Trung Hoa, trước tiên là Tổ Tuệ Khả, kế là Tổ Tăng Xán, đến Tổ Đạo Tín, Tổ Hoằng Nhẫn và Tổ Huệ Năng.

            Chư Tổ truyền dơi Tâm đăng,

            Tây Thiên Đông Độ thiệu long khắp trời.

            Ngũ gia tông phái mọi nơi,

            Kéo đèn chong ngọn đợi người hữu duyên.

Bản này là “Kéo đèn”, bản in 1932 là “khêu đèn”. Có lẽ chữ “khêu đèn” hay hơn và rơ hơn.

Chư Tổ truyền ngọn đèn tâm từ Ấn Độ sang Trung Hoa làm cho hưng thịnh khắp nơi. Tiếp đến là Ngũ gia tông phái tức là năm tông phái được lập ra ở Trung Hoa sau Lục Tổ, đó là tông Lâm Tế, tông Tào Động, tông Qui Ngưỡng, tông Vân Môn và tông Pháp Nhăn. Năm tông phái này làm cho Thiền tông truyền khắp mọi nơi, khêu sáng ngọn đèn trí tuệ đợi những người hữu duyên đến phát tâm tu hành.

            Chư Phật trỏ bảo căn nguyên,

            Khẩu thụ tâm truyền Bát Nhă chính tông.

Trỏ bảo căn nguyên là chư Phật chỉ bảo cội nguồn. Miệng trao tâm truyền tức là trao truyền chánh tông Bát Nhă. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có tŕnh với Ngũ Tổ bài kệ trong đó có câu ''Bản lai vô nhất vật'', đó là tinh thần Bát Nhă. Bát Nhă cứu kính cùng tột là bản lai vô nhất vật.

            Tứ mục tương cố nhăn đồng,

            Thầy tớ trao ḷng đăng chúc giao huy.

Tứ mục là bốn mắt, tương cố là nh́n nhau. Bốn mắt nh́n nhau có thông cảm, có nhận định tường tận nên nói là nhăn đồng. Sự truyền thừa đơn giản như trường hợp ngài Chân Nguyên đă ngộ nơi thầy là Thiền sư Minh Lương. Khi đệ tử hỏi, thầy chỉ cần nh́n thẳng đệ tử, đệ tử nh́n lại thầy, hai thầy tṛ thông cảm, tṛ liền đảnh lễ. Thông cảm cái ǵ mà được truyền tâm ấn? Đó là chỗ rất thiết yếu.

Trong Thiền tông, khi xưa đức Phật đưa cành hoa sen.., sau này chư Tổ có khi đưa cành hoa, có khi đưa cây gậy hay phất trần, là để chỉ nương từ một vật nhận ra tánh thấy nơi ḿnh.

Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Phật đưa cành hoa sen nh́n thẳng đại chúng để xem ai nh́n Phật thông cảm. Khi nh́n đến Ca Diếp, thấy Ca Diếp nh́n Phật mỉm cười, Phật liền ấn chứng. Nếu Phật không nh́n đại chúng, làm sao thấy Ca Diếp mỉm cười? Cho nên khi đắp tượng Phật cầm hoa sen, phải sửa lại mắt Phật không phải ngó xuống mà nh́n thẳng đại chúng.

Ở thế gian những người có t́nh ư, khi bốn mắt nh́n nhau, họ cũng cảm thông nhưng cảm thông theo thế tục.

Trong đạo, thầy nh́n thẳng tṛ là muốn đem tâm tư nguyện vọng của ḿnh, chỗ ḿnh thấy biết trao lại cho đương sự hiện có mặt. Thế nên khi ngài Tuệ Đăng hỏi Thiền sư Minh Lương: Viên ngọc giấu trong đăy, hiện đây phải làm sao để biết? Thiền sư Minh Lương nh́n thẳng Tuệ Đăng, Tuệ Đăng nh́n lại, hai thầy tṛ cảm thông nhau. Chính ngay lúc thầy tṛ nh́n nhau là lúc thấy được ḥn ngọc giấu trong đăy. Đến đây chúng tôi chỉ nói bóng thôi, chớ không nói hết được.

“Thầy tớ trao ḷng đăng chúc giao huy.” Thầy tớ là thầy tṛ, trao ḷng là trong ḷng thông cảm nhau, giống như ánh sáng của cây đuốc và ánh sáng của ngọn đèn giao hợp nhau không chống nghịch.

            Bổng đầu cử nhăn ấn tri,

            Cơ quan thấu được thật th́ tri âm.

            Đến khi phó pháp truyền tâm,

            Vận dụng trí tuệ thiển thâm nhiều bề.

Bản này là “phó pháp truyền tâm”, bản 1932 là “phó pháp truyền tôn”, chữ tâm đúng hơn.

“Bổng đầu cử nhăn ấn tri”. Bổng đầu là đầu cây gậy, cử nhăn là mắt nh́n, ấn tri là biết để truyền tâm ấn.

“Cơ quan thấu được thật th́ tri âm.” Những người thấu triệt, cảm thông được những thủ thuật đặc biệt đó mới thật là người tri âm của ḿnh.

“Đến khi phó pháp truyền tâm”. Đến khi đó mới trao pháp và truyền tâm ấn.

“Vận dụng trí tuệ thiển thâm nhiều bề”. Vận dụng trí tuệ khi cạn khi sâu, tùy theo hoàn cảnh tùy theo trường hợp. Cạn sâu như thế nào?

            Hoặc là nghiễm tọa vô vi,

            Hoặc là thuấn mục, dương mi, dao thần.

            Hoặc hiện sư tử tần thân,

            Quát thét một tiếng xa gần vang uy.

Chư Tổ vận dụng trí tuệ khi cạn khi sâu để trao truyền .

Như khi có thiền khách đến hỏi: “Bạch Ḥa thượng, thế nào là Phật?” Ngài ngồi im lặng không nói, gọi là nghiễm tọa vô vi.

Hoặc thuấn mục là chớp mắt, dương mi là nhướng mày, dao thần là dao động đôi môi mà không nói lời nào. Khi hỏi: Thế nào là ư Tổ sư từ Ấn Độ sang? Hay hỏi: Thế nào là đại ư Phật pháp? Các Ngài chỉ chớp mắt, hoặc nhướng mày hay máy động đôi môi mà không nói.

“Hoặc hiện sư tử tần thân, Quát thét một tiếng xa gần vang uy”. Tức là hét lên như tiếng gầm sư tử. Như khi có người hỏi Thiền sư Lâm Tế: Thế nào là Phật? Ngài im lặng không đáp, chỉ hét một tiếng muốn điếc tai, đó là sư tử tần thân.

Như vậy chư Tổ ngày xưa truyền thiền, các Ngài không nói lời nào, có khi im lặng, có khi chớp mắt nhướng mày, có khi chuyển động đôi môi, có khi hét v.v...

            Ai khôn xem đấy xá ngh́,

            Hội ngộ tự tính tức th́ chứng nên.

Người có trí tuệ khi thấy những hiện tượng như nhướng mày chớp mắt hoặc dao động môi, liền nhận ra yếu chỉ, nghĩa là ngộ được tự tánh.

            Thuở xưa hội cả Kỳ Viên,

            Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày.

            Ca Diếp trí tuệ cao tay,

            Liễu ngộ tự tính bằng nay mỉm cười.

Bản này là trí tuệ cao tay, bản in 1932 là trí tuệ khôn thay. Chữ cao tay là cao tay ấn có thể hay hơn.

Hội Kỳ Viên thuở xưa là ở vườn ông Cấp Cô Độc. C̣n sự tích Phật đưa cành hoa sen, Ca Diếp mỉm cười là trong hội Linh Sơn, trên núi Linh Thứu. Hội Kỳ Viên và núi Linh Thứu ở hai nơi khác nhau, nếu nói “Thuở xưa hội cả Linh Sơn” th́ đúng hơn.

Thuở xưa ở hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen, ngài Ca Diếp do trí tuệ sâu, do tài phi thường, Ngài nh́n thấy liền ngộ được tự tánh nên mỉm cười.

            Trần trần sát sát Như Lai,

            Chúng sinh mỗi người mỗi có hoa sen.

Trần là bụi, sát là cơi. Khi ngộ rồi, cơi Phật nhiều trùng trùng điệp điệp như cát bụi. Chúng sinh ở các cơi đó người nào cũng có hoa sen, không phải chỉ riêng Tổ Ca Diếp mới có. Hoa sen là ǵ?

            Hoa là vốn tính trạm viên,

            Bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng.

Bản in 1932 là Hoa là bản tính tự nhiên, nhưng ở bản này là Hoa là vốn tính trạm viên, câu này hay hơn. Trạm viên là lặng lẽ trùm khắp, hoa sen là chỉ tánh lặng lẽ trùm khắp, tánh ấy bao trùm cả trời đất, trên dưới không thiếu sót. Đó là chỉ thể tánh chân thật của mỗi người, tượng trưng bằng h́nh ảnh hoa sen. Tất cả chúng sinh dù ở cơi nào, trên cơi trời hay dưới cơi phàm, đâu đâu cũng đều có tánh giác, không nơi nào thiếu vắng.

            Hậu học đà biết hay chăng?

            Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời.

Những câu này nói lư đạo rất là thiết yếu. Ngài hỏi kẻ hậu học có biết chăng? Kẻ hậu học là chúng ta hiện nay, chúng ta là những người học sau, có biết chăng?

“Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời”. Do tâm hoa ứng ra nơi miệng nên chúng ta biết nói, biết ăn, biết uống trà v.v..., chớ tự cái miệng nó không biết. Đúng như câu chuyện Thiền sư Huệ Hải đến hỏi đạo với Mă Tổ.

Tổ hỏi: Đến đây tính cầu việc ǵ?

Sư thưa: Đến cầu Phật pháp.

Tổ bảo: Kho báu nhà ḿnh chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi t́m cái ǵ? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái ǵ?

Sư lễ bái, thưa: Cái ǵ là kho báu nhà ḿnh của Huệ Hải?

Tổ bảo: Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ t́m cầu bên ngoài.

“Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi”. Nay tôi hỏi lại: Có người nào không có kho báu không? Có người nào không biết hỏi, không biết nói, không biết uống nước ăn cơm không? Ai cũng biết uống nước ăn cơm, ai cũng biết nói biết hỏi, thế sao chỉ thấy có nước có cơm mà không thấy được kho báu, không thấy được tâm hoa? Chính ngay nơi uống nước, ăn cơm, nói năng đều từ tâm hoa ứng hiện. Không có nó th́ những cái kia cũng không.

            Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi,

            Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông.

Ở đây ngài Chân Nguyên cũng nói rơ ràng, không có giấu giếm. Cái tâm hoa đó rất thiêng liêng ứng hiện khắp mọi nơi, sáu căn vận dụng mà không chướng ngại, đó là thần thông.

Sáu căn của chúng ta có hai tên, một tên là lục thông, một tên là lục tặc. Khi nào sáu căn là lục tặc? Khi mắt nh́n sắc luôn luôn thích cái đẹp ghét cái xấu, v́ thích cái đẹp nên đi t́m, đó là lục tặc. Tai nghe tiếng th́ thích lời khen ghét tiếng chê, mũi ngửi mùi th́ thích hương thơm ghét mùi hôi, lưỡi nếm vị th́ thích thức ăn ngon chê món ăn dở..., đó là lục tặc. Sáu căn làm chúng ta mệt cả ngày, dẫn chúng ta chạy từ chỗ này đến chỗ kia không cho yên nghỉ, không phải lục tặc là ǵ?

C̣n nếu sáu căn thông suốt, tự tại không dính mắc, đó là lục thông. Thông là thông suốt không dính mắc. Thấy sắc là sắc, nghe tiếng là tiếng..., cái ǵ rơ ràng cái ấy mà không dính mắc ǵ cả, dù đi giữa chợ về mà không biết người ta nói ǵ, không biết cái ǵ trước mắt, như vậy không thông là ǵ?

Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan hỏi về nguồn gốc của phiền năo và nguồn gốc của Bồ đề, đức Phật trả lời: “Chính sáu căn của ông là nguồn gốc của phiền năo sinh tử, cũng chính sáu căn của ông là nguồn gốc của Bồ đề giải thoát”. Nơi sáu căn mà chúng ta dung dưỡng lục tặc, đó là nguồn gốc phiền năo. Cũng chính nơi sáu căn mà chúng ta sống đúng với lục thông, đó là nguồn gốc Bồ đề. Vậy t́m Bồ đề ở đâu? Ở ngay nơi mắt, tai, mũi, lưỡi... Làm sao khi nghe tiếng khen tiếng chê, mà chúng ta vẫn thản nhiên tự tại, đó là Bồ đề, không phải t́m kiếm đâu xa. Khi thấy cái đẹp cái xấu, chúng ta cũng thản nhiên không dính mắc, đó là Bồ đề ngay trước mắt. Đâu phải bịt mắt bịt tai để được yên, chính mắt thấy tai nghe mà vẫn yên, đó là yên thật sự. Nếu bịt mắt bịt tai mà được yên, chỉ là yên giả hiệu, tạm thời, mở mắt buông tai th́ hết yên. Thế nên chúng ta tu phải tu cho thật, tập cho đúng, đừng đi sai lệch.

Như vậy sáu căn là lục thông, sáu căn cũng là lục tặc. Nếu hiện giờ ai lỡ để sáu căn thành lục tặc, th́ nên chuyển thành lục thông. Nếu để thành lục tặc suốt đời, th́ sau khi nhắm mắt sáu chú giặc sẽ dẫn chúng ta đi vào các cảnh địa ngục. Nếu chuyển thành lục thông th́ khi nhắm mắt được thong dong tự tại khắp muôn cơi, không dính ở cơi nào.

            Chân hoa sắc tức thị không,

            Không tức thị sắc thể đồng như như.

Chân hoa là chỉ tánh giác hay trí tuệ. Thấy sắc tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, đó là thấy với mắt trí tuệ chân hoa. C̣n thấy sắc riêng, không riêng, sắc không phải không, không không phải  sắc là thấy theo mắt mê muội phàm tục. Nếu thấy đúng với mắt trí tuệ chân hoa th́ thể các pháp sắc không đều là như như.

            Tam thế chư Phật Tổ sư,

            Tứ mục tương cố thị cừ thiền cơ.

Ba đời chư Phật chư Tổ đều dùng bốn mắt nh́n nhau làm máy thiền. Ngài Chân Nguyên ngộ từ Tứ mục tương cố, cho nên mỗi đoạn Ngài đều dẫn việc nầy làm gốc.

            Ai chưa tín thụ c̣n ngờ,

            Thỉnh kinh Lăng Già quyển nhị ḥa trông.

Bản nầy là ḥa trông, bản in 1932 là ḥa nung.

Nếu ai chưa tin nhận, c̣n nghi ngờ th́ xin xem kinh Lăng Già quyển hai sẽ biết. Thật ra chúng tôi đọc tới cuối quyển ba mới thấy đoạn nầy. Phật dạy Bồ tát Đại Huệ: Không phải tất cả cơi nước trong vũ trụ nầy đều dùng ngôn ngữ để thuyết pháp, mà có những cơi nước chỉ nh́n rồi ngộ đạo, hoặc thấy cành hoa rồi ngộ đạo, có cơi nước mời ăn bữa cơm hay xúc chạm rồi ngộ đạo v.v... Như vậy không phải chỉ có ngôn ngữ mới nói được đạo lư.

Phật dạy tiếp: Như ở thế gian, những con kiến có nói ǵ với nhau đâu, mà chúng tổ chức thành tổ rất chu đáo, mỗi nhóm kiến có việc làm riêng, đâu phải sử dụng lời nói. Những tổ ong tổ mối cũng như vậy.

Thế nên ngôn ngữ là phương tiện, không phải chỉ có ngôn ngữ mới thuyết pháp được, mà tất cả hành động đều có thể thuyết pháp, v́ tâm hoa ứng hiện trong các hành động không riêng ǵ ở miệng và lưỡi.

            Tự nhiên đốn ngộ Tâm tông,

            Kẻo t́m kinh giáo luống công lâu ngày.

Muốn hiểu rơ, nên xem kinh Lăng Già Tâm Ấn cuối quyển ba, liền ngộ được Tâm tông. Nếu xem các kinh khác th́ luống phí nhiều công.

Vậy muốn đốn ngộ Tâm tông hay Thiền tông, không phải chỉ ở ngôn ngữ mà ở mọi hành động. Như ngài Hương Nghiêm nhân nghe tiếng ḥn sỏi chạm trúng cây tre mà ngộ đạo, ngài Linh Vân nh́n hoa đào nở liền ngộ đạo. Như vậy đâu có nói lời ǵ, đâu có nói pháp ǵ, mà các Ngài cũng ngộ đạo. Nếu nơi sáu căn chín muồi rồi, khi duyên đến bỗng dưng sáng ra.

            Giáo là kinh lục kể bày,

            Giấy mực văn tự chất đầy hà sa.

Nói giáo là để đối với tông. Giáo là những quyển kinh Phật dạy và những quyển lục của chư Tổ giải thích. Những quyển nầy là giấy mực văn tự viết thành tập sách, chất đầy cả tủ cả kho, đọc không hết.

            Tông là nguyên tự tính ta,

            Vốn vô nhất vật lặng ḥa hư linh.

Bản nầy là “lặng ḥa hư linh”, bản 1932 là “sáng ḥa hư linh”. Tông là thiền, là chỉ thẳng tự tính của chính ḿnh, c̣n gọi là tánh giác hay tâm hoa, ai cũng sẵn có. Tự tính của ḿnh vốn không phải một vật, nó lặng lẽ rỗng sáng.

Thế nên chúng tôi chủ trương ngồi thiền không phải ngồi măi cho đến già c̣ng lưng, nhưng v́ chúng ta ngồi càng lâu càng sáng, nên càng phấn khởi thích ngồi. Tại sao phải ngồi thiền? V́ sáu căn của chúng ta ngày nay thành lục tặc. Thật ra mắt tai mũi lưỡi thân không phải là giặc, chỉ có ư hợp tác với năm căn mới thành lục tặc. Như hiện giờ mắt chúng ta nh́n b́nh hoa hồng, nh́n thấy vậy thôi th́ không phải lục tặc. Nhưng chúng ta đâu có ngừng ngang đó, nh́n hoa rồi hỏi hoa hồng nầy tên ǵ, hiệu ǵ, đẹp hay xấu, rồi khen hoặc chê, đó là thành lục tặc. Thấy đẹp xấu rồi khen chê là có sự cộng tác của ư, chớ tự các căn kia không thành lục tặc. Ư luôn luôn chạy ra mắt tai mũi lưỡi... chạy liên tục, không lúc nào ngừng nghỉ.

Có nhiều người nói tại sao Thầy bắt chúng con ngồi thiền hoài. Khi ngồi thiền chúng con thấy vọng tưởng lăng xăng, sao không cho chúng con ra ngoài rừng thông nh́n cây cối chim chóc, có lẽ thoải mái yên lặng hơn. Thật ra khi nh́n cây thông rồi khen thông đẹp là lúc ư đang hướng ra mắt để nh́n th́ đâu thấy vọng tưởng. Khi nghe chim kêu th́ lắng nghe xem tiếng chim ǵ hay, lúc đó ư đă chạy ra tai, đâu c̣n thấy vọng tưởng nữa.

C̣n khi ngồi thiền ngó xuống, mắt không thấy ǵ, tai không nghe ǵ, mũi cũng chẳng ngửi ǵ..., th́ đâu có ǵ để ư hợp tác, cho nên nó nhảy lên nhảy xuống chạy ngược chạy xuôi. Nếu cho con khỉ ư chạy theo hợp tác với các căn kia, khi ấy nó đang dựa đang níu người vật th́ nó yên. Nhưng nếu không cho nó níu cái ǵ hết, có một ḿnh th́ nó quậy. Trong khi con khỉ đang lăng xăng nhảy nhót, mà ḿnh chinh phục được nó th́ gọi là con khỉ ngủ. Khỉ ngủ rồi nó hết hợp tác với các căn kia th́ lúc đó mới là thảnh thơi tự tại. Giai đoạn đầu là đang xiềng con khỉ ở rừng - con khỉ đang nuôi mà xiềng c̣n không được, huống nữa là con khỉ ở rừng - cho nên nó mới nhảy tứ tung không cho ḿnh yên. Ngồi một tiếng đồng hồ không có phút nào yên, hết nghĩ cái nầy đến cái kia, hết cái kia đến cái khác, đó là v́ không có chỗ cho nó chạy th́ nó phải quậy ở trong, chớ có ǵ lạ đâu. Thấy nó quậy chúng ta chỉ cười, không theo nó. Quậy mệt rồi nó ngủ, th́ không có ǵ để sợ.

Như vậy để giải thích v́ sao ḿnh đi chơi không có vọng tưởng, c̣n ngồi một chỗ vọng tưởng quá nhiều. Tưởng đi là hay, không ngờ lúc đi nó đang chạy theo các căn kia để ngắm nh́n hoặc nghe ngóng th́ đâu có rảnh để quậy! C̣n khi ngồi không có chỗ nào để tựa th́ nó phải nổi loạn, nó nổi loạn ḿnh thấy cho nên ḿnh mới điều phục được. Như thế mới hiểu tại sao khi ngồi thiền, nó c̣n đang quậy th́ thật là khổ, vừa đau chân, vừa nó lăng xăng kiềm không được, muốn xả thiền đi chơi cho rồi. Nhưng ḿnh cố gắng b́nh yên trong ḷng được chút nào nhẹ chút ấy, khi nó ngủ rồi th́ ngồi bao lâu cũng thấy thảnh thơi tự tại. Đến khi đó chúng tôi không khuyên ngồi, quí vị cũng mang bồ đoàn đi ngồi, v́ ngồi nó thảnh thơi tự tại, nếu không ngồi th́ uổng quá!

Thế nên sau khi thành Phật, đức Phật vẫn ngồi thiền. Đi khất thực về, thọ trai xong, Ngài đem tọa cụ đi vào rừng ngồi thiền. Các Tỳ kheo hỏi Phật: Bạch Thế Tôn, Ngài đă thành Phật c̣n ngồi thiền làm ǵ? Chúng con chưa ngộ đạo, chưa thành Phật, nên Thế Tôn dạy chúng con ngồi thiền để được định, rồi trí tuệ sáng và ngộ đạo. C̣n Thế Tôn đă ngộ đạo, ngồi thiền chi cho dư? Phật bảo: Ta ngồi thiền với hai mục đích: một là cho khỏe, hai là để đệ tử ta thấy Phật đă thành Phật mà c̣n tọa thiền. Phật mà c̣n tọa thiền huống ḿnh là chúng sanh lại không chịu tọa thiền hay sao? Cho nên noi gương đức Phật, chúng ta phải ngồi thiền.

Như vậy đức Phật ngồi được khỏe, nên Ngài thường ngồi thiền. C̣n chúng ta hiện nay ngồi nhọc quá, bị bắt buộc tới giờ phải ngồi, cho nên mỗi khi nghe rung chuông ngồi thiền th́ đi chậm chậm, trễ được phút nào mừng phút ấy, làm cho người có trách nhiệm phải rầy hoài. Đến khi nghe lắc chuông xả thiền th́ xả rất nhanh, không có chậm nữa. Hai thái độ rất rơ khi bắt đầu vào ngồi và khi xả thiền cho biết tinh thần chúng ta như thế nào th́ nó hiện ra thế ấy.

Hiện giờ con khỉ chúng ta đang lăng xăng nhào lộn, ḿnh ngồi nh́n để chế phục nó. V́ thế khi mới bắt đầu ngồi, tâm c̣n lăng xăng, vừa phải cố kềm chế, vừa bị đau chân, cho nên trong ngoài bức bách nhọc nhằn. Đến khi bên trong yên lặng thảnh thơi, bên ngoài cũng nhẹ nhàng, lúc ấy thích ngồi hơn là ở ngoài. Chúng tôi nói ư nghĩa ngồi thiền cho quí vị hiểu thật rơ để khi thực hành không có chán mỏi.

Tóm lại thiền là tự tính của ḿnh, chớ không có ǵ lạ. Tự tính đó không có một vật chất h́nh tướng, cho nên nó lặng lẽ rỗng sáng.

            Thuở xưa trời đất chưa sinh,

Cha mẹ chưa có thật ḿnh chân không.Như vậy cái vô nhất vật nầy đă có khi chưa có trời đất, đă có khi cha mẹ chưa sanh. Lúc đó gọi nó là ǵ? Là chân không. Tại sao? V́ nó không h́nh tướng, cho nên nói là không, nhưng nó là một cái lặng lẽ sáng suốt, cho nên là hiện tiền chân thật, v́ vậy mà gọi là chân không.

            Chẳng có tướng mạo h́nh dung,

            Tịch quang phổ chiếu viên đồng thái hư.

Thể chân thật hay tự tính của ḿnh không có h́nh dung, tướng mạo, nên nó sáng khắp mọi nơi, tṛn đồng như hư không. Phàm cái ǵ có tướng th́ có giới hạn, dù to như quả núi cũng có giới hạn của quả núi. Cái không tướng mạo, lấy ǵ làm giới hạn? Không giới hạn th́ trùm khắp. Như vậy tâm chân thật hay tự tính của ḿnh sáng suốt không h́nh tướng, trùm khắp không có ǵ ngăn che, nên nói tṛn đồng như hư không.

            Thánh phàm vô khiếm vô dư,

            Bất sinh bất diệt như như Di Đà.

Thể tánh trong sáng không h́nh tướng đó, nơi phàm không thiếu nơi thánh không thừa, v́ ai cũng sẵn có.

Thể tánh ấy không sinh không diệt, nên gọi là “như như Di Đà”. V́ sau nhà Trần, nhà Hồ, th́ nhà Minh qua cai trị, cho nên đến đời Hậu Lê, Thiền đă suy yếu, người dân hướng về Tịnh độ. Ở đây tuy nói về Thiền, nhưng ngài Chân Nguyên cũng xoay qua từ ngữ của Tịnh độ là Phật A Di Đà. Song không nói Phật A Di Đà ở Tây Phương mà nói Phật A Di Đà của tự tánh. Chữ A Di Đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô lượng thọ, Vô lượng quang, nghĩa là sống lâu vô lượng và sáng suốt vô lượng. Sống lâu vô lượng là bất sanh bất diệt, sáng suốt vô lượng là luôn luôn thường giác. Như vậy tự tánh Di Đà là tánh giác bất sanh bất diệt của ḿnh chớ không ǵ khác.

            Liễu tri vạn pháp không hoa,

            Văn tự ngôn ngữ ấy là vọng duyên.

Nếu chúng ta thấu suốt rằng muôn pháp ở giữa thế gian nầy như hoa đốm trong hư không, không có ǵ là thật, th́ ngôn ngữ văn tự cũng là vọng duyên không thật.

            Chân như tính vốn thiên nhiên,

            Vô tạo vô tác căn nguyên của nhà.

Tánh Chân như vốn là sẵn vậy, không phải cái ǵ làm ra, không do cái ǵ tạo tác, cho nên nó là cội nguồn của chính ḿnh. Tánh sáng suốt ấy mỗi người ai cũng sẵn có.

Trái lại tất cả vọng tưởng, tất cả hành động v́ do duyên khởi, v́ do duyên sinh nên đều là sinh diệt, không thật. Thấy rơ các pháp không thật, chúng ta không c̣n bị mê lầm, bị mù tối và sẽ sống trở lại cái sẵn có thanh tịnh sáng suốt của chính ḿnh.

Tôi thí dụ: Như mắt chúng ta hiện giờ nh́n hoa hồng, có người nào thấy nó màu trắng hay màu xanh không? Ai cũng thấy nó là hoa hồng màu vàng. Như vậy cái thấy hoa màu vàng giống nhau, nhưng qua sự phân biệt đẹp xấu th́ có khác. Người đánh giá nó đẹp, người đánh giá nó xấu. Tại sao có sự khác biệt? Đó là do chúng ta đem kư ức ra để so sánh. Nếu hôm trước ḿnh thấy hoa hồng nở to, hoa hôm nay nhỏ hơn, th́ nói hoa to đẹp, hoa nhỏ hôm nay là xấu. C̣n nếu thấy hoa hôm nay đẹp là v́ từ trước đến giờ ḿnh chỉ thấy hoa hồng nhỏ xíu rời rạc, nên cho hoa hồng sum sê hôm nay là đẹp. Như vậy nói xấu, nói đẹp là không c̣n cái thấy chân thật lúc ban đầu, mà qua chặng thứ hai đem kư ức ra để so sánh đối chiếu. Đó là những cái sinh diệt hư dối do bóng dáng của sáu trần c̣n tích lũy, ḿnh đem ra so sánh, nên không thật. C̣n nếu chỉ nh́n hiện tượng đó th́ ai cũng như ai, một trăm người nh́n hoa hồng cũng thấy như nhau. Ở chặng đầu, tánh đó đồng nhau. Như thế chúng ta có một tánh hằng hữu giống nhau, song vừa khởi so sánh liền thành sai biệt! V́ vậy so sánh là nghiệp, là thói quen đối đăi, cho nên có khác, c̣n thực thể không khác.

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nơi ḿnh có sẵn tự tánh thiên nhiên không phải làm ra, c̣n cái phân biệt đối đăi là cái làm ra, là đem cái nầy so sánh cái kia. Thế mà chúng ta chỉ nhớ cái so sánh đối đăi cho đó là ḿnh, lại quên đi cái thật sẵn có. Vậy chúng ta tu là dẹp cái so sánh để cái chân thật hiện bày, chớ không phải t́m Phật ở đâu xa. Thế nên nói Phật tánh là tánh giác sẵn có của ḿnh.

            Xem kinh Bụt thốt c̣n xa,

            Nghiệm cơ Tổ bảo sát na biết rồi.

Bản nầy là Bụt thốt, bản 1932 là Bụt thuyết.

Xem kinh Phật nói phải suy gẫm xa xôi, c̣n nghiệm lại cơ Tổ dạy chỉ trong sát na liền biết.

            Ngộ tính không tịch th́ thôi,

            Chẳng lạ chi lời vấn đáp tiêu hao.

Ngộ được tự tính là đủ, không c̣n t́m kiếm ǵ nữa. Đối với những lời hỏi qua thưa lại nghe lạ lùng kỳ đặc nhưng ngộ rồi th́ thấy rất dễ.

            Cơ quan thuận nghịch thấp cao,

            Những sự huyễn trí chiêm bao đặt làm.

Cơ quan là chỗ thấy nghe hiểu biết của mỗi người, chỗ ấy thuận nghịch, cao thấp khác nhau. Song những sự hiểu biết đó đều là trí huyễn giả dối như giấc chiêm bao, thấy đó rồi mất đó không có thật.

            Đại vi thuyết pháp chỉ nam,

            Cho ta ngộ đạo kẻo đàm kinh lâu.

Ở đây là đại vi, chỗ khác là đại v́.

Thuyết pháp chỉ nam là phải nhắm thẳng chỗ thuyết pháp chỉ cho ḿnh thấy cái chân thật. Chư Tổ thuyết pháp chỉ rơ cội gốc để chúng ta ngộ đạo, khỏi phải bàn luận kinh cho xa xôi, mất th́ giờ.

            Cho hay Phật pháp lẽ mầu,

            Bất quan văn tự bất cầu đa ngôn.

Chỗ mầu nhiệm của Phật pháp không có dính dáng với văn tự, cũng không phải nói nhiều. Chỗ đó một tiếng hét hay một cái đánh cũng có thể ngộ được, không bắt buộc phải nói nhiều.

            Khuyên người học đạo trí khôn,

            Giác tri tự tính chớ c̣n t́m đâu.

Ngài Chân Nguyên khuyên chúng ta, những người học đạo phải có trí khôn ngoan, phải ngộ được tánh giác của ḿnh, chớ đừng t́m kiếm ở đâu xa. Tánh giác là Phật, ở ngay nơi ḿnh, đừng t́m trên non trên núi, đừng t́m chỗ nầy chỗ kia, phải ngay nơi tâm ḿnh dứt hết loạn tưởng th́ tánh giác hiện bày.

            Phật Tổ phó chúc bấy lâu,

            Pháp ấn như thị làu làu chân không.

Đó là chỗ Phật Tổ dặn ḍ lâu nay. Pháp ấn là như thế, thể chân không sáng tỏ làu làu, không cần t́m kiếm ở đâu khác.

            Cùng truyền Bát Nhă Tâm tông,

            “Ngộ vô sở đắc" thật ḍng chân Tăng.

Bát Nhă Tâm tông là chỗ chân không, chân không là do “Bản lai vô nhất vật”. Đă là “vô nhất vật” th́ c̣n ǵ có sở đắc! Cho nên “Ngộ vô sở đắc thật ḍng chân Tăng”. V́ vậy người tu chân chánh là phải ngộ  chỗ vô sở đắc.

            Thiệu Phật kế Tổ liên đăng,

            Tương truyền y bát thừa thằng thiệu long.

Bản nầy là liên đăng, bản kia là truyền đăng. Tức là nối ḍng Phật Tổ trao truyền ngọn đèn sáng cho đời sau.

Bản nầy là “Tương truyền y bát thừa thằng thiệu long”. Bản kia là “Tương truyền y bát Huệ Năng vô cùng”, câu nầy bị lỗi rất lớn. Tại sao? V́ khi Ngũ Tổ trao y bát cho Lục Tổ có dặn: “Y bát đến đời ngươi không được truyền nữa”. Như vậy đến Lục Tổ Huệ Năng là không c̣n truyền y bát, mà chỉ truyền tâm ấn thôi. Cho nên khi Lục Tổ sai ngài Hành Tư đi giáo hóa có nói: “Y bát để lại nơi đây, ngươi sang nơi khác để hoằng hóa”. V́ thế y bát ngang đây không c̣n truyền nữa.

Thế nên bản kia nói: “Tương truyền y bát Huệ Năng vô cùng”, về ư th́ không sai, nhưng về h́nh thức th́ sai. C̣n bản nầy nói: “Tương truyền y bát thừa thằng thiệu long”, có nghĩa là ḿnh phải kế thừa Phật Tổ để truyền ngọn đèn trí tuệ và y bát làm cho hưng thịnh măi ở đời, chớ không phải truyền y bát của Lục Tổ Huệ Năng măi về sau.

?


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3-d1][p3-d2-c1][p3-d2-c2]

[p3-d2-c3-a1][p3-d2-c3-a2][p3-d2-c4][p3-d2-c5-a1][p3-d2-c5-a2][p3-d2-c6][p4][p5][p6][p7]

[Trang chu] [Kinh sach]