[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]


Khóa Thứ Nhất 
Nhân Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 3

Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
(từ thành đạo đến nhập Niết bàn)

 

A - Mở Đề:

Trong bài trước chúng ta đă thấy Đức Phật Thích Ca v́ một đại nguyện lớn lao, v́ một ḷng từ bi vô bờ bến mà xuất gia t́m Đạo. Đại nguyện và ḷng từ bi lớn lao ấy là:"cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ".

Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết bàn, mà nghĩ ngay đến sứ mạng của Ngài là: Thay thế chư phật đời trước, tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người.

Sứ mạng ấy Ngài biết trước không phải dễ dàng, v́ cái Đạo của Ngài th́ cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đă lặn hụp trong si mê lầm lạc, khó có thể nhận hiểu được ngay ư nghĩa cao thâm của Giáo lư Ngài. Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si mê, ngày nay chắc không khỏi choá mắt, hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói của trí tuệ. Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong tăm tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Ngài cương-quyết thực-hiện sứ mạng của ḿnh.

B - Chánh Đề

I - Sự Hóa Độ Rộng Lớn Và Cùng Khắp Của Đức Phật 
Sứ mạng hóa độ của Đức Phật, như chúng ta đă biết, thật nặng nề và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, ḷng từ bi rộng sâu, nhờ tinh thần b́nh đẳng triẹt để và nhờ ư chí dũng mănh không thối chuyển, mà Đức Phật đă hoàn thành sứ mạng của ḿnh một cách viên măn. Trong khi hóa độ, Ngài đă dựa theo ba nguyên tắc sau đây:

1. Ḥa độ theo thứ lớp căn cơ.
Khi bắt đầu đi truyền Đạo, ư nghĩ trước tiên của Ngài là đến vườn Lộc Uyển t́m mấy người bạn đồng tu với Ngài trước kia để thuyết pháp. Mấy người bạn ấy là các ông: KiềuTrầnNhư, AùcBệ, ThậpLực, MaHaNam và BạcĐề. Bài thuyết pháp đầu tiên ấy là Tứ-diệu-đế. Năm vị nầy đều được khai ngộ, và trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Phật. Kế đó Phật thuyết luôn ba tháng cho 55 người Bà-la-môn, mà người đứng đầu là ông Da-Xá, 55 người nầy đèu xin qui y theo Phật, và hợp với 5 người trong nhóm ông KiềuTrầnNhư thành 60 đệ tử, 60 đệ tử này sau khi giữ đúng giới luật, được Phật thọ-kư cho đi truyền Đạo khắp nơi.

Đức Phật rời vườn Lộc-uyển đi về phía Nam đén xứ Ưulầutầnloa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của Đạo Thờ Lửa là ông Ma-ha Ca-Diếp và hai người em của Oâng. Oâng Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của ḿnh là 1,250 vị, xin qui-y theo Phật.

Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ Makiệtđà vào thành Vươngxá để độ cho vua. Vua Tầnbàxala gặp lại Ngài, vui mừng khôn xiết, truyền xây cất tịnh xá Trúc lâm, để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại thuyết Pháp độ sanh.

Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc lâm, th́ vua Tịnh-Phạn nghe tin Ngài đă thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài về thành Catỳlavệ. Nhưng 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm, không trở lại. Th́ ra những người này khi đến Trúc lâm tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đă say mê quên sứmạng của ḿnh và xin thọ giới xuất gia. Lần thứ 10, Tịnh Phạn-vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Đà-Di, mới thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương xá trở về Catỳlavệ, Đức Phật đă thuyết pháp độ cho không biết bao nhiêu người. Về thành Catỳlavệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, Đức Phật đă cảm hóa tất cả ḍng họ Thích và tất cả những người trong ḍng họ này đều xin qui y và một số lớn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan-Đà, A-Nan-Đà, A-Nậu-Lâu-Đà, La-Hầu-La...

Sau khi trở về thăm gia đ́nh và quê hương, Đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Đạo. Ngài đi đến thành Xá-Vệ là kinh đô nước Kiều tát la, thuộc quyền thống trị của vua Ba-tư-Nặc. Ở thành này có một vị đại thần tên là Tu-Đạt-Đa, giàu ḷng bố thí cho những kẻ bần cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Trưởng giả cấp cô độc. Oâng rất ngưỡng mộ Đức Phật nên đă trút hết tất cả tiền của vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái tử KỳĐà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sanh.

Được ít lâu nghe tin vua Tịnh-Phạn đau nặng, sắp băng hà, Đức Phật vội trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ thân buồn rầu trên giường bịnh Phật thuyết về  "Lẽ vô-thường, khổ, không, vô ngă" cho vua nghe. Nghe xong ,vua liền dứt phiền năo, gương mặt vui tươi, cất tiếng niệm Phật, rồi băng hà một cách êm ái.

Sau khi Tịnh-Phạn-Vương mất, bà mệ nuôi của Phật là MaHaBaXàBaĐề và bà DaDuĐàLa cùng nhiều người bên nữ giói họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong Đạo Phật lần đầu tiên có hàng TỳKheoNi.

Đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Đạo, đi đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều người noi theo gương của ông CấpCôĐộc lập TịnhXa, cất giảng đường để Ngài thuyết pháp độ sanh.

Như thế chúng ta thấy Đức Phật đă tuần tự hóa độ và kết nạp đệ tử, từ những hạn người đủ căn trí dễ hiểu thấu giáo lư của Ngài rồi mới rộng ra những người 
khác; Lập TỳKeo trước rồi TỳKheoNi sau.

2- Hóa độ tùy phương tiện.
Trong suốt thời gian đi thuyết pháp độ sanh, lắm khi Đức Phật cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do ḷng đố kĩ của ngoại đạo, tà giáo, hay ḷng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tuỳ phương tiện để cảm hóa ho, và đưa họ về đường ngay lẽ phải. Chẳng hạn, khi th́ Ngài bị cô gái con ngoại đạo độn bụng giả có chửa dến giữa Đạo tràngđể vu oan cho Ngài; khi th́ Ngài bị anh chàng Vô năo đuổi theo quyết giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số một ngàn ngón mà nó đă giết người để lấy, v́ theo thuyết tà đạo, nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi th́ Phật bị Đề Bà Đạt Đa, người em họ hung ác, âm mưu hăm hại Phật bằng cách thả voi say cho chạy đến chà đạp Phật, hay lăn đá to từ trên núi xuống đè Phật.

Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, v́ oai đức uy danh và trí huệ của Phật bao bọc Phật, không một hành động xấu xa nào có thể thắng Phật được. Ngài có đủ phương tiện khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hương dễ dàng, hoán cải được tất cả nghịch cảnh trở thành thuận lợi. Và cuối cùng kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính mến Ngài; người chống ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo trở thành phật tử. Bằng chứng là: ĐếBàĐạtĐa cũng được Phật thọ kư; anh chàng VôNăo cũng được qui y; bầy voi say cũng được sám hối; Vua AXàThế cũng hối cải và quay về đường ngay.

Nói tóm lại, Đức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa độ tất cả những ai mà Ngài gặp trên đường truyền Đạo của Ngài. Không phải chỉ ở ngoài đời, mà trong Giáo hội của Ngài, Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, tâm lư của mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối với ông NanĐà, mặc dù thân đă xuất gia, mà tâm vẫn muốn ngao du, luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đua ông lên cơi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những h́nh phạt đau đớn, rùng rợn hăi hùng để ông so sánh hai cảnh đời trái ngưọc nhau mà tự chọn lấy một đường.

C̣n đối với ông A-Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng v́ nghiệp duyên c̣n nặng, nên mắc nạn "MaĐăngGià", th́ Phật lại đem giáo lư thâm sâu là Kinh Lăng-Nghiêm ra giảng dạy để cho ông A-Nan thấy rơ được cái quí giá của chân tâm mà lo tu luyện, chứ không giong ruổi theo giả cảnh nữa.

Xem như thế th́ Đức Phật đă dùng phương tiện để tùy duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bịnh cho thuốc, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định nào cả. Đối với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông minh hay người ngu độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài.

3 - Hóa độ theo tinh thần b́nh đẳng.
Tinh thần triệt để b́nh đẳng là một điểm son quí giá nhật trong giáo lư của Đức Phật, cũng như trong tâm hồn Ngài. Ngay từ khi c̣n ấu thơ, tinh thần ấy đă được bộc lộ trong những cử chỉ cứu giúp nhữ kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn, như chúng ta đă thấy trong bài trước.

Khi thành Đạo, tinh thần b́nh đẳng ấy lại bộc lộ rơ ràng hơn nữa. Ngài đă có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thưóc ngọc, như khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn-độ, người nầy sợ làm lây ô-uế cho Ngài, th́ Ngài phán bảo:"không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh và có thể thành Phật".

Trong Giáo hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Như ông ƯuBaLy, một đệ tử của Ngài có tiếng tăm về giới luật, lại là một người thuộc giới hạ tiện Chiênđàla, làm nghề gánh phẩn. Sự thâu nhập ấy đă làm cho các vị vua chúa bất măn. Chính vua BaTưNặc đă bạch Phật:" Đấng Chí Ton thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng Tăng Đồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?" Phật dạy rằng: "Người hèn hạ mà biết phát tâm BồĐề, xuất gia tu hành, chứng được quả Thánh, th́ quí báu vô cùng, chẳng khác ǵ hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho". "Một người sanh ra không phải liền thành Bàlamôn (giai cấp trên hết) hay Chiênđàla (giai cấp thấp nhất)m mà chính v́ sở hành của người ấy, tạo thành Chiênđàla hay Bàlamôn".

Ngài xâu giùm kim cho người mù, hoan hỷ nhận ḥn đất sét mà đứa bbé đă nắn để dâng Ngài, thọ lănh bữa cơm cuối cùng do người thợ đốt than nghèo nàn dâng cúng. Chính v́ sự hóa độ b́nh đẳng như thế, mà kinh Đại Niết-Bàn đă táụn thán:

-"Đức Như Lai không chỉ thuyết pháp cho hạng người quyền quí như vua BạcĐềCa, mà cũng thuyết pháp cho hạng người bẫn cùng như ông ƯuBaLy; không riêng thọ lănh sự cúng dường của những người giàu có như ông TuĐạtĐa, mà cũng thọ lănh sự cúng dường của các hạng nghèo khổ như ông ThuầnĐà; không riêng cho phép xuất gia các hạn không có tánh tham như Ngài CaDiếp, mà cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh tham như ông NanĐà; không những thuyết pháp cho hạng người an tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua TầnBàSaLa trong lúc đang bận rộn việc nước; không những thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho ông già 80 tuổi; không những thuyết pháp cho bà hoàng hậu MạtLĩ, mà cũng thuyết pháp cho dâm nữ LiênHoa".

II- Năm Thời Kỳ Nói Kinh 

Tóm lại, trong một đời của Đức Phật, tùy theo tŕnh độ của mọi người mà thuyết pháp giáo hóa, măi đến khi Ngài nhập diệt, cộng là 49 năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói ra, về sau các đệ tử kết tập chia ra làm năm thời:

1.Thời thứ nhất nói Kinh Hoa-Nghiêm

Khi Phật mới thành Đạo, ở tại cội BồĐề, nói KINH HOA NGHIÊM 21 ngày. Vạch rơ chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu mầu nhiệm của Đạo Phật, chủ dích có hai điều:
a) Dẫn dắt các bậc Bồtát lên địa vị Đẳng giác và Diệu giác.
b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của NhưLai, chỉ có Phật với Phật mới hiểu rơ mà thôi; Ngoài ra hàng nhị thừa ngồi nghe nhu đui, như điếc, huống chi ngoại đạo,tà giáo làm sao hiểu nổi! Đức Phật tŕnh bày giáo pháp siêu việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại chúng phải tu theo Đại thừa Phật giáo mới được hoàn toàn rốt ráo.

2.Thời thứ hai Phật nói Kinh A-Hàm

Biết rằng: "Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp", Đức Thích Ca y theo chư Phật mà nói pháp Tam thừa. V́ vậy thời thứ hai, Ngài nói Kinh A Hàm trọn 12 năm, dùng thí dụ thực tế, chỉ rơ chân lư cho hàng Tiểu thừa dễ nhận, mà lo bề tự tu và tự độ.

3.Thời thứ ba Phật nói Kinh Phương Đẳng.

Đạo Phật chẳng những dạy pháp giác ngộ phần ḿnh mà Ngài c̣n chỉ bày phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến khích từ cái giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu thứa (AlaHán), để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la của Đại thừa Phậtgiáo. Aáy là thời nói Kinh phương Đẳng trọn 8 năm, dẫn dắc Tiểu thừa qua Đại thừa.

4.Thời thứ tư Phật nói Kinh Bát Nhă.

Đến khi Đức Phật xem căn cơ của chúng sanh có thể tiến lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp Đại thừa, nên Ngài chỉ bày Đạo lư chân không của Vũ trụ, thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp. Aáy là thời kỳ nói Kinh Bát Nhă trọn 22 năm.

5.Thời thứ năm Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn.

Sự hóa độ một đ̣i của Đức Phật gần viên măn, thêm thấy căn cơ của chúng sanh đă thuần thục, có thể gánh vát Đại thừa Chánh pháp của NhưLai, nên Ngài bèn nói rơ bản hoài của Ngài thị hiện ra đời là v́ một nguyên nhân lớn: "Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến". Ngài phú chúc, thọ kư cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành Phật. Aáy là thời nói Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn trọn 8 năm. Đến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài đă viên măn.

Tóm lại 5 thời thuyết pháp Cổ nhơn có làm bài kệ như sau:


Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt
A-Hàm thập nhị Phương Đẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát Nhă đàm
Pháp Hoa Niết Bàn cộng bát niên.
DỊCH NGHĨA
Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày
A-Hàm mười hai, Phương Đẳng tám
Hai mươi hai năm nói Bát Nhă
Pháp Hoa Niết Bàn cộng tám năm.

III- Sự Hóa Độ Viên Măn 

Từ khi thành Đạo dưới gốc cây BờĐề cho đến ngày nhập diệt, trải qua một thời gian 49 năm, Đức Phật đă đi khắp xứ Aán độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài dẫm đến là Aùnh Đạo Vàng bừng tỏa huy hoàng.

Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương tŕnh nhất định, không bao giờ xao lảng, giải đăi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày khi trời chưa sáng, Ngài đă ĺa khỏi giường đi tắm rửa, thay đổi y phục rồi vào pḥng quán cơ cho đến lúc mặt trời xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng Tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thụ trai. Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho Tín đồ các vùng l6an cận đến nghe; rồi lại giảng giải những nghi vấn của các Tăng về những vấn đề mà Ngài đă thuyết pháp buổi sáng.

Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sanh trong 9 tháng nắng ráo; c̣n ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời tiết Aán độ), th́ Ngài lại ở luôn trong Tịnh xá để an cư kiết hạ.

Ṛng ră trong 49 năm như thế, hạt giống Từbi được Ngài tinh tấn gieo rắc khắp các xứ ở Aénđộ. Từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, từ rừng rú đến đồng bằng, không nơi nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến thay Ngài để hóa độ chúng sanh. Và ở đâu Ngài và các đệ tử cũng được, nhân dân, từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài, vui thú đươc tắm gội trong ánh nắng trí huệ và nước Từ bi do Ngài tưới xuống. Ở đâu có Anh Đạo vàng đến, th́ Tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan biến như những làn mây, như những bóng tối, tan biến trước ánh b́nh minh Đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp phục, như tiếng Hải triều lên, lấn ác tất cả bao nhiêu tiếng tỉ tê của côn trùng, chim chóc.

Đạo BồĐề từ đây đă ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Aán độ bao la, và trở thành tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Aánđộ. Đức Phật sau khi đă tự giác, đă giác tha và đến đây giác hạnh của Ngài đă viên măn.

IV- Trước Khi Nhập Niết bàn 

1 - Phật báo tin sắp ĺa đời.

Khi giác hạnh đă viên măn th́ Phật đă 80 tuổi. Đến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu ǵa. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng SaLa trong xứ CâuLy, cách thành Balanại chừng 120 dặm. Một hôm Ngài gọi ông Anan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:
-"A Nan! Đạo ta nay đă viên măn. Như lời nguyện xưa, nay ta đă có đủ bốn hạng đệ tử: TỳKheo, TỳKheoNi, ƯuBàTắc, ƯuBàDi. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và Đạo ta cũng đă truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân h́nh ta, theo luật vô tường, bây giờ như một cổ xe đă ṃn ră. Ta đă mượn nó để chở pháp, nay xe đă vừa ṃn mà pháp cũng đă lan khắp nơi, vậy ta c̣n mến tiếc làm ǵ cái thân tiều tụy này nữa? A-Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn".

Tin Đức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.

Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, Đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền Đạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Đà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Đến nhà ông Thuần Đà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, v́ giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.

Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giă ông Thuần Đà ra đi. Được một quăng đường, Ngái giao b́nh bát cho ông A Nan và truyền treo vơng lên, trong rừng cây Ta-la (Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống vơng đầu trở về hướng Bắc, ḿnh nghiêng về phiá tay phải, mặt xây về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.

Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong sốấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên TuBạcĐàLa đến xin xuất gia thọ giới Sadi với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Đó là người đệ tử chót trong đời Ngài.

2- Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc

Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca-Diếp v́ đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn ḍ một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:

a) Y,bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma-Ha Ca-Diếp.

b) Các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy.

c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngă văn".

d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:

- Một phần cho Thiên cung,

- Một phần cho Long cung,

- Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở AánĐộ

Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đă để lại trong giờ phút cuối cùng.

- "Này! Các người phải tự ḿnh thắp đuốc lên mà đi! Các người hăy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hăy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Đừng t́m sự giải thoát ở  một kẻ nào khát, đừng t́m sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..". 

- "Này! Các người đừng v́ dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có ǵ quí giá. Chỉ có chân lư cuả Đạo ta là bất di, bất dịch. Hăy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!".

Sau khi đă dặn ḍ cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ  nhằm ngày rằm tháng hai ÂL (theo giáo sử Trung hoa).

Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như ch́m lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly.

Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).

Tám vị Quốc vương lớn ở Aánđộ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành XáLợi. Nhưng ông Hương-Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đ́nh, và nhờ thế việc phân chia XáLợi đều được ổn thỏa.

C - Kết Luận

Đức Phật đă nhập Niết Bàn, nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn c̣n chiếu sáng rực rỡ trước mắt chúng ta. Suốt một đ̣i, trong 80 năm trời, không một lúc nào Ngài xao lảng mục đích tối thượng là hóa độ chúng sanh đang trầm luân trong bbể khổ. Khi c̣n tại gia, Ngài là người ở trong một địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất của người đời.

Thế mà Ngài vẫn không màng tưởng đến; khi vào trong Đạo, Ngài là người ở trong địa vị cao chót vót của Đạo, thế mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa vị ấy, lại vất vả dủi rong trên mọi nẻo đường buị bặm, gai góc để đưa chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui và giải thoát hoàn toàn. Ḷng thương của Đức Phật thật vô biên.

1- Người đời nên noi gương sáng của Phật.
Sự hy sinh cao cả, ḷng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt, ư chí dũng mănh của Ngài 
không những là bao nhiêu gương sáng cho riêng hàng Phật tư, mà c̣n cho tất cả mọi 
người. Nếu chúng ta quang niệm Ngài là một vĩ nhân của nhân loại từ xưa đến nay. 
Nếu chúng ta quan niệm Ngài là một bậc siêu nhân, th́ đó là một bậc siêu nhân cao hơn những bậc siêu nhân khác. Nếu ta quan niệm đời Ngài là một sự thị hiện của Phật, th́ đó là sự thị hiện đẹp đẽ nhất và đầy đủ ư nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện.

Cho nên không những đối với Tín đờ Phật giáo, mà đối với toàn thể nhân loại, Đức Phật đáng được tôn sùng và chiêm ngưỡng.

2- Tín đồ nên ghi nhớ những lời di chúc của Phật - Chúng ta , những Phật tử, ai cũng biết đời Đức Phật là đẹp đẽ, cao cả; bài học của đời Ngài là quí báu, sâu xa. Nhưng nếu chúng ta không cố gắng học tập, th́ bài học dù hay ho quí báu bao nhiêu cũng vô ích. Đức Phật trước khi nhập diệt, đă dặn chúng ta một câu cuối cùng:

- "Mọi vật ở đời không có ǵ quí giá. Thân thể rồi sẽ tan ră. Chỉ có Đạo ta là quí báu. Chỉ có chân lư của Đạo ta là bất di bất dịch.
HĂY TINH TẤN LÊN ĐỂ GIẢI THOÁT!"

Vậy th́ diều kiện trọng yếu nhất để giải thóat là sự tinh tấn. Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong khi tu hành.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]