[Trang
chủ] [Kinh sách] [Unicode]
[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][ X,XI ][ XII ]
[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]
Khóa
Thứ Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
Bài Thứ 8
Tụng Kinh, Tŕ Chú,Niệm Phật
A.- Mở đề
Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, th́ cũng chưa có thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành c̣n phải tụng kinh, tŕ chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, th́ ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lư được. V́ phần Lư là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lư lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh đ́ển, th́ chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lư là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng b́nh đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lư và cúng dường được 5 món diệu hương, th́ sự lạy và cúng chỉ là phần "Sự" là phần h́nh thức, và v́ thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường Đạo. Bỡi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, tŕ chú và niệm Phật. Đó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.
B.- Chánh Đề
I.- Định Nghĩa
1) Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Đức Phật đă dạy trong kinh điển, hợp với chân lư và căn cơ của chúng sanh.
2) Tŕ chú: Tŕ là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồtát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.
3)
Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm
Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, h́nh
dung
Phật và đức hạnh của Phật, để
luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.
II.- Lư Do Phải Tụng Kinh - Tŕ Chú - Niệm Phật
1) V́ sao phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cơi dục, cho nên ḷng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng c̣n chiêm bao căi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Đức Phật v́ đă thương xót chúng sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại măi, để cho lư nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Đó là lư do khiến chúng ta phải tụng kinh.
2)
V́ sao phải tŕ chú? Chú có công năng phi thường,
nếu người thành tâm tŕ chú, th́ được
nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng.
Chẳng hạn thần chú "Bạc nhứt thế
nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh
độ Đà la ni" có hiệu lực tiêu trừ
được hết gốc
rễ nghiệp chướng, làm cho người
được văng sanh về Tịnh độ. Thần
chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực
làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng,
được gặp những điều lành. Thầ
chú "Lăng Nghiêm" th́ phá trừ được những
ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v... Thần
chú "Chuẩn Đề" trừ tà, diệt quỷ. Thần
chú "Thất Phật diệt tội" có công năng
tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều
đời nhiều kiếp v.v... V́ thế nên chúng ta phải
tŕ chú.
3)
V́ sao phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô
minh làm mờ đục, chẳng khác ǵ nước bị
bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước
đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn
là gia một chút phèn vào, th́ các chất dơ bẩn ngầu
đục kia dần
dần lắng xuống, bấy giờ nước đục
trở nên trong sạch. Phương pháp niệm Phật
cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm
đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm
mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng
khác ǵ chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.
V́ sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ? V́ lư do rất dễ hiểu sau đây:
Tâm
chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng
nghỉ. Kinh thường nói: "Tâm viên, ư mă", nghĩa
là "tâm" lăng xăng như con vượn nhảy
từ cành nầy qua cành khác, và "ư" như con ngựa
chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ư
chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một
cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành,
hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ
đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những
hành động trong sáng, những đức tánh thuần
lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào,
th́ ít niệm ma
chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những
ǵ xấu xa đen tối, làm hại ḿnh hại người.
V́ thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.
III.- Phải Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Tŕ Chú Ǵ Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào ?
1.- Các kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật th́ bộ nào tụng cũng được cả, v́ kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng v́ căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.
Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều tŕ tụng những kinh như: Di-Đà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Địa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v...
Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:
- Cầu siêu th́ tụng kinh Di-Đà, Địa Tạng, Vu Lan v.v...; - Cầu an th́ tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; - Cầu tiêu tai giải bịnh th́ tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v...; - Cầu sám hối th́ tụng kinh Hồng-Danh.
Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lư cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm tŕ tụng, th́ kết qủa cũng đều mỹ măn như nhau cả.
2.- Các chú thường tŕ. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng khuya, tŕ chú Lăng Nghiêm, Đ5i Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v... c̣n ở nhà, phần nhiều cư sĩ tŕ chú Đại Bi và Thập chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, v́ c̣n phải lo sinh sống cho gia đ́nh; hai là chú Lăng Nghiêm đă dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, tŕ tụng được như chư Tăng th́ càng tốt.
3.- Các hiệu Phật thường niệm. Đúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Đức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.
Nhưng đứng về phương diện tŕng độ và hoàn cảnh mà luận, th́ hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.
Nếu
Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Độ, th́ thường
ngày phải niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà.
Pháp môn này được thành lập do lời dạy
sau đây của Đức Phật Thích Ca: "Ở cơi thế
giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp,
cách Phật lâu xa, chỉ
có pháp "Tŕ danh niệm Phật", cầu văng sanh về
Tây phương cực lạc là quốc độ của
Đức Phật A-Di-Đà, th́ dễ tu dễ chứng hơn
hết". Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu
Đức Phật Di-Lặc, để cầu sanh về cơi
trời Đâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Đức
Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật
bịnh.
Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:
a) Niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Đức Phật hiện tại, cũng là Đức Phật Giáo chủ của chúng ta.
b) Niệm Đức Phật A-Di-Đà, là niệm Đức Phật đă thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Đức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.
c) Niệm Đức Phật Di-Lặc, là niệm Đức Phật vị lai.
IV.- Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh - Tŕ Chú - Niệm Phật
1.- Lợi ích của sự tụng kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do ḷng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, v́ thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm tŕ tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho ḿnh, cho gia đ́nh và những người chung quanh:
a) CHO M̀NH: Lúc tụng niệm, hành gỉa đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư không c̣n móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lễ phải.
b)CHO GIA Đ̀NH: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đ́nh nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, ḥa thuận.
c)CHO NGƯỜI CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bỗng theo với tiềng mơ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ư nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang tụng.
Như
vậy rơ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích
cho ḿnh, cho gia đ́nh, mà c̣n cho những người chung
quanh nữa. Đó là mới nói những điều ích lợi
thông thường có thể thấy được, ngoài
ra tụng kinh c̣n có những điều lợi ích, linh
nghiệm lạ thường,
không thể giải thích được, ai tụng sẽ
tự chứng nghiệm mà thôi.
2.-
Lợi ích của sự tŕ chú. Các thần chú tuy
không thể giải nghĩa ra được, nhưng
người chí tâm thọ tŕ, sẽ được công
hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn,
như người uống nước ấm, lạnh th́
tự biết lấy. có thể nói: một câu thần
chú, thâu gồm hết
một bộ kinh, v́ vậy, hiệu lực của các thần
chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu
thực tâm tŕ chú, th́ mau được giải nguy.
Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Đức Phật
liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư
Lợi đến cứu, th́ Ngài A-Nan liền được
thoát nguy.
Ngày
nay có nhiều trường hợp mà người thành
tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rơ
ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện Thành nói lại, th́
vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở trong một
vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một lần
Bs bị một chứng bịnh
nan y, mặc dù lương dược Đông, Tây sẵn
có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác
sĩ tưởng sẽ bỏ ḿnh trong xóm người
Sơn cước, không ngờ lúc c̣n ở dưới mái
nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ tŕ chú
"Công Đức Bảo Sơn", BS liền đem
thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người
nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho BS suốt
đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành mạnh trở
lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn
đồng nghiệp đều ngạc nhiên.
3.- Lợi ích của sự niệm Phật. Niệm Phật công đức lại c̣n to lớn hơn nữa, v́ một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v...
Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Sau khi Phật
nhập diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến
kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết,
chỉ c̣n kinh Di-Đà lưu truyền lại độ
trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ
chỉ c̣n một câu niệm Phật gồm 6 chữ
"Nam mô A-Di-Đà Phật", mà đủ năng lực
đưa chúng sanh về cơi "Cực-Lạc".
Lời
Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật
chuyên tŕ một câu niệm Phật, mà biết được
ngày giờ và thấy được điềm lành trước
khi văng sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm
Phật, 3 lần thấy Đức Di-Đà rờ đầu;
trong hội Liên xă, có 123 người chuyên tu phép
"Tŕ danh niệm Phật", đều lần lược
được Phật rước về cơi Tịnh Độ.
Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị
sĩ quan Pháp là Đại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu
úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ ohi cơ
bay từ đảo Côn Lôn về Sài g̣n. Giữa
đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống
biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt)
niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ
lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới
gặp một chiếc tàu đánh cá của người
Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước
sang tàu, th́ chiếc phi cơ ch́m ngay xuống biển. Ai
nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi
năy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi,
mà bây giờ không có người nó lại ch́m ngấm?
Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích
được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại
cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm
Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy
là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ
phép niệm Phật ấy. Đại úy Touffan và trung úy
Retourna hết ḷng tin tưởng, nên khi về đến
Saigon, hai vị sĩ
quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái
am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ
Lợi, tỉnh Gia Định để thờ Phật gọi
là tỏ ḷng tri ân. Đây chỉ là một câu chuyện
trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của
phép niệm Phật.
C.- Kết Luận
Khuyên
Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Tŕ Chú Cả
Sự Lẫn Lư Cho D(ược Viên Dung . Tụng kinh, tŕ
chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm
đủ cả Sự và Lư. Dù tại gia hay xuất gia,
dù tiểu thừa hay Đại thừa, tiêu cực hay tích
cực, không ai
có thể rời 3 phương pháp nầy được.
Bỡi thế, Phật tử cần phải học tụng
kinh, niệm Phật và tŕ chú choSự,Lư đi đôi, lời
nói và việc làm phù hợp, mới có được kết
quả tốt đẹp.
Ba
pháp môn tụng kinh, tŕ chú, niệm Phật, tuy không
đồng mà kết qủa đều thù thắng. Phật
tử có thể tùy theo tŕnh độ, hoàn cảnh của
ḿnh mà tu một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như
người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn
việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, th́
nên tụng kinh, tŕ chú, niệm Phật đủ cả
ba pháp môn. C̣n người tuổi ǵa, sức yếu, mắt
mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào,
thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , tŕ chú
không nổi, th́ phải chuyên tâm niệm Phật, đi
đứng nằm nồi,
túc nào cũng phải niệm Phật. Nhưng các Phật
tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, tŕ chú, niệm
Phật, tay gơ mơ, đánh chuông, lần chuỗi, th́ tâm
trí phải gột rửa hết bao ư nghĩ bất chính,
những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy
h́nh ảnh của Đấng Từ Bi.
Rồi phải noi gương Ngài, mở ḷng thương
rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ
của muôn loài và phát nguyện đem sức ḿnh ra, ban
vui cứu khổ cho tất cả. Đến khi thôi tụng
niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, th́
phải làm thế nào cho những hành động của
ḿnh cũng được từ bi như tư tưởng
và lời nói của ḿnh vậy.
Người
tụng kinh tŕ chú và niệm Phật, làm đúng như
thế, th́ chắc chắn sẽ được chứng
qủa Thánh không sai.
[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]
[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][ X,XI ][ XII ]