[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]


Khóa Thứ Năm

Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh

Bài Thứ 4

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam
(Từ Nhà Trần Đến Các Vị Vua Đầu Nhà Nguyễn)

 

V.- Phật Giáo Dưới Thời Nhà Trần (1225-1400).

1.-T́nh h́nh chung của Phật Giáo dưới đời nhà Trần: 

Nhà Trần nối nghiệp nhà Lư, thừa hưởng về mọi phương-diện , một di sản quư báu mà nhà Lư đă xây dựng trên hai thế kỷ. Riêng về Phật Giáo, mặc dù về cuối đời nhà Lư, triều đ́nh gặp nhiều vụ nội biến và trong phái thiền môn, ít có được những vị cao-Tăng đại-đức như ở đầu đời Lư; nhưng trong dân chúng, Đạo Phật đă thấm nhuần sâu xa, đâu đâu củng có chùa, có tượng Phật để tín đồ sùng bái. Bước sang đầu đời nhà Trần, có nhiều lư do khiến chúng ta tin-tưởng rằng Đạo Phật sẽ được phát-triển mạnh thêm, nhất là các vị vua đầu nhà Trần là những vị vua thông hiểu và sùng mộ Phật Giáo c̣n hơn cả những vị vua đầu nhà Lư. Thế mà Đạo Phật trong đời nhà Trần, chỉ thịnh phát trong khoảng 50 năm đầu, rồi dừng lại và thoái bộ măi. V́ hai lư do làm cho Đạo Phật không thể tiến phát được là ở bên ngoài, sự cạnh tranh ráo riết, có nhiều khi là cả một sự đàn áp của Khổng-Giáo; và ở bên trong, giáo lư Đạo Phật dần dần bị xen lẫn mê tín, dị đoan của những tà giáo, ngoại đạo mà các vua chúa trong đời nhà Trần rất sùng mộ. V́ những sự mê-tín, dị-đoan này, Đạo Phật trước con mắt những nhà thức giả, nhất là phía Khổng-Giáo, trở thành một cái đạo vô bổ, nguy hiểm cho đời sống quốc gia. Các nhà nho đua nhau công kích Phật Giáo. Triều đ́nh mỡ những kỳ khảo hạng tăng-sĩ về những giáo-lư thông thường. Những vị sư nào thi hỏng th́ phải hoàn tục. Những người thi đổ th́ được bổ làm chức Triều-cung (coi việc các cung), Triều-quan (coi việc các đền), Triều-tự (coi việc các chùa). Thật là một hiện tượng suy đồi rơ rệt: các tăng-sĩ phải đi thi để giữ chức coi việc cúng bái ở các cung vua và các đền miếu. Mỉa mai cay độc hơn nữa, là trong đời vua Phế-Đế (1381) tăng-chúng của đạo từ bi lại bị triệu tập làm thành một đạo binh dưới sự thống lĩnh của một vị Thiền-sư để đi đánh giặc Chiêm-Thành.

2.- Các vị vua nhà Trần có công với sự truyền bá Phật-Pháp :

Như đoạn trên đă nói, trong đầu đời nhà Trần, có nhiều vị vua rất sùng mộ Phật-Pháp và đă có công lớn đối với việc truyền bá Đạo Phật trong nước.

a). Vua Trần-Thái-Tôn (1225-1258): 

Trần-Thái-Tôn tên húy là Trần-Cảnh, chồng bà Lư-Chiêu-Hoàng. Sau khi được vợ nhường ngôi, Trần-Thái-Tôn trở thành vị vua khai nguyên đời Trần. Ngài là một vị quốc vương hiếu đạo rất sâu xa. Khi mới lên ngôi, Ngài đă lo việc truyền bá Đạo Phật bằng cách lập chùa, đúc chuông và hộ tŕ Phật, Pháp,Tăng. Ngài lại c̣n soạn được hai tập sách rất có giá trị và gây ảnh hưởng quư báu cho việc truyền bá Phật-Pháp thời bấy giờ, là quyễn: "Thiền-tôn chỉ Nam" và quyễn "Khóa hư". Tập Thiền-tôn chí Nam nói rỏ về đạo lư tu thiền; c̣n tập Khóa-hư giăi rỏ hành-tướng của cái khổ: sanh, lăo, bệnh, tử. Hai tập ấy, ngày nay vẩn c̣n lưu truyền.

b). Vua Trần-Nhân-Tôn (1278-1293):

Trần-Nhân-Tôn là vị vua thứ ba đời Trần. Sau khi đă đánh bại quân Mông-Cổ một cách oai hùng, Ngài truyền ngôi lại cho con và vào tu ở núi Yên-Tử. Ngài thương đi khắp đó đay để bài trừ những hàinh thức mê-tín dị-đoan trong dân gian, thiết lập tu-viện, thuyết pháp-độ-sanh, mỡ rọng những trạm phát thuốc để cứu giúp người tật bệnh. Sau Ngài truyền pháp lại cho Tôn-Giả Pháp-Hoa và tịch ở am Ngọc-Vân trong lúc đang đi du hóa. Ngài chính là sư-tổ phái Trúc-Lâm.

c). Trần-Anh-Tôn (1293-1314):

Trần-Anh-Tôn là vị vua thứ tư của nhà Trần, kế vị vua Trần-Nhân-Tôn. Ngài là đệ tử của Pháp-Loa tôn-sư, nên rất tinh thông về Phật-pháp. Noi gương phụ vương là vua Trần-Nhân-Tôn, Ngài đă hăng hái truyền bá Phật Giáo trong nước.

Sau khi thỉnh được đại ttạng kinh ở Trung Hoa về, Ngài sắc in nhiều bản và phát cho HoàngTrần-Nhân-Tôn, Ngài lại c̣n tuyền thiết những đàn tràng lớn để hành lể và phát chẩn cho dân nghèo.

Tuy vậy, đến đời Anh-Tôn, Đạo Phật không c̣n giữ đơực cái swcs-thái rực-rỡ như đầu đời Trần nữa. Sau đời vua này, các vị vua kế vị tuy vẫn là những Phật tử, nhưng không c̣n được ḷng tin sáng suốt và thuần túy nữa. Ngoại đạo, tà-giáo từ Trung Hoa truyền sang đă xen lấn trong niềm tin của họ.

3.- Phái Trúc-Lâm Yên-Tử và các vị tổ trong phái ấy: Trong đời Trần, các vị danh tăng không được đông đảo như ở đời Lư. Tuy thế, trong đời nay Phật Giáo Việt-Nam củng đă phát-triển được một tôn phái mới là Trúc-Lâm, phát tích từ nước Yên-Tử, và các vị tổ trong phái này cũng là những bậc cao Tăng mà đời sau không thể nhớ được, mỗi khi nói đến Đạo Phật về đời Trần. Sau đây chúng tăng-sĩ hăy t́m biết qua tiểu-sử và nghiệp-sự của các vị ấy:

a). Tuệ-trung Thượng-Sĩ:

Ngài húy là Trần-Quốc-Toản, con trai của Hưng-ĐạoVương Trần-Quốc-Tuấn khi giặc Nguyên (Mông-Cổ) hai lần sang đánh chiếm nước ta, Ngài theo Hưng-Đạo-Vương đi chống giặc, lập được nhiều chiến-công và được phong đến chức Tiết-Độ-Sứ. Ngài có ḷng mộ đạo từ nhỏ, nhưng v́ gặp lúc quốc biến, Ngài phải ra tay pḥ vua, giúp nước. Khi giặc yên, Ngài xin từ chức lui về Phong-Ấp là Vạn-niên-hương, chuyên tâm học đạo với Tiêu-Giáo thiền-sư, là một đệ tử cuối cùng của phái Vô-Ngôn-Thông.

Khi ngộ đạo, Ngài thường lập đàn giảng đạo, các môn đồ thiện-tín đến dự thính rất đông.

Vua Thánh-Tôn rất kính trọng Ngài, tứ hiệu Ngài là "Tuệ-Trung Thượng-sĩ" và kư thác vua Trần-Nhân-Tôn cho Ngài. Ngài hết ḷng dạy bảo Thánh-tôn về phần đạo lư và sau này Nhân-Tôn lập ra phái Trúc-Lâm và trỡ thành đệ nhất tổ của phái này, củng là nhờ ảnh hưởng tinh thần của Tuệ-Trung Thượng-sĩ.

Khi gần hóa, Ngài khiến người nhà kê ghế giữa can nhà trống, ngồi tựa vào ghế mà tịch. Các nàng hầu khóc lên, Ngài liền mở mắt ra quở rằng:

Sanh tử lẽ thường, có ǵ đáng thương xót mà làm nhiểu tâm hồn tăng-sĩ thế?

Các nàng hầu im bặt; Ngài lại nhắm mắt mà tịch. Ngài thọ 62 tuổi.

b). Trần-Nhân-tôn, đệ nhất tổ của phái Trúc-Lâm Yên-Tử (đă nói ở đoạn trên rồi). 

c). Pháp-loan tôn-sư, vị tổ thứ hai của phái Trúc-Lâm:

Ngài họ Đồng, người hàng Cửu-la, Phủ nam sách (nay thuộc tỉnh Hải Dương), Ngài thiên tư đỉnh ngộ, năm 21 tuổi gặp Ngài Điều-Ngự (tức là vua Nhân-Tôn) khen có pháp nhăn, và được thâu làm đệ tử. Ngài ngộ đạo rất sớm. Năm 25 tuổi Ngài phụng mệnh làm lễ khai giảng ở chùa Siêu-Loại, có vua và đ́nh-thần đến dự. Sau buổi khai-giảng ấy, Ngài Điều-Ngự phong cho Ngài làm chủ sơn môn Yên-Tử và đem kinh điển hơn hai trăm bộ giao phó cho Ngài.

Ngài phụng chiếu, định chức các tăng-đồ và quản-lănh tăng-chúng. Tăng-đồ có Tăng-tịch, sổ sách rơ ràng là bắt đầu từ đó. Trong một đời, Ngài đúc được 1300 tượng Phật, dựng hai đài giảng đạo, năm ngôi tháp, hai trăm sở tăng đường, độ cho hơn 15.000 tang ni, trong số ấy có 3.000 người được đắc pháp. Ngoài ra, Ngài c̣n soạn hai tập "Đọan sách lục " và "Tham thiền yếu chi", nay c̣n lưu truyền. Công nghiệp lớn lao như thế, nhưng tiếc thay đời Ngài lại rất ngắn ngủi, hưởng thọ 47 năm.

d). Huyền-Quang Tôn -Sư, vị tổ thứ ba của phái Trúc-Lâm. 

Ngài họ Lư, người làng Vạn-Tài (thuộc tỉnh Bắc-Giang bây giờ), cha là Tuệ-Tổ, có công đánh Chiêm-Thành, nhưng không chịu ra làm quan. Ngài h́nh dung kỳ-dị, nhưng bẩm tánh thông minh, đổ trạng nguyên vào lúc 20 tuổi. Trước khi thi đỗ, mệ Ngài đi hỏi vợ cho Ngài, nhưng đến đâu củng bị từ chối, v́ h́nh dung kỳ-dị của Ngài, và sự nghèo hèn của gia đ́nh Ngài. Nhưng khi Ngài thi đỗ, các nhà phú quư tranh nhau gọi gả con gái, và vua cũng đ̣i gả công chúa cho, nhưng Ngài đều từ chối. Do đó, người đời có câu ca dao:

"Khó khăn th́ chẳng ai nh́n,

đến khi đổ Trạng, tám ngh́n quân duyên" .

V́ thấy nhân t́nh thế thái như thế, nên mặc dù làm quan lớnvà được đi sứ sang Trung Hoa, Ngài vẫn không lấy thế làm măn nguyện. Một hôm nhân đi theo vua Anh-Tôn nghe Pháp-Loa Tôn-sư thuyết pháp, Ngài liền giác ngộ nên dâng biểu xin từ chức, rồi xuất gia thọ giáo với Ngài Pháp-Loa.

Sau khi được Ngài Pháp-Loa truyền tâm ấn, Ngài trụ tŕ ở chùa Vân-Yên núi Yên-Tử, tăng ni theo học có đến hàng ngh́n. Ngài lập chùa, in kinh, mở pháp-hội bố thí cho kẻ nghèo, làm rrát nhiều việc công đức.

Ba vị tổ Trúc-Lâm trên đây đă gây tạo một uy-thế rất lớn, không những trong giới tăng-già mà c̣n cả ngoài nhân gian nữa, nhưng sau đó rất tiếc là những vị kế nghiệp ba Ngài không có ai tương xứng nữa. 

Tóm lại, trong đời Trần, cũng như đời Lư, lịch sử Phật Giáo có thể chia làm hai thời kỳ phồn-thịnh gồm trong bốn vị vua đầu (gần 100 năm); thời kỳ thứ hai là thời kỳ suy-vi, gồm các đời vua sau (trong khoảng 80 năm).

VI.- Phật Giáo Dưới Đời Nhà Hồ (1400-1407) Và Dưới Đời Hậu Lê (1428-1527) 

Phật Giáo dần dần suy sụp từ dưới đời các vua cuối nhà Trần, sang nhà Hồ và kéo dài cho đến cuối đời Hậu Lê. Trên gần hai ngàn năm Phật Giáo có mặt trên đất nước này, có thể nói giai đoạn này là giai đoạn tối tăm nhất của Phật Giáo.

Trong 7 năm chiếp đoạt ngôi nhà Trần, Hồ Quư Ly chưa làm ǵ được th́ nhà Minh oợn cớ khôi phục nhà Trần, kéo quân sang đánh nước, và đặt nền đô hộ khốc liệt trong bảy năm trời, bảy năm tuy ngắn ngủi, nhưng nhà Minh đă để lại mmột hậu quả rất tai hại mà 100 năm sau vẫn chưa xóa nḥa hết. Thật vậy, sau khi xâm chiếm nước ta Nhà Minh tịch thu hết cả sách vở trong nước, trong ấy gồm cả kinh điển nhà Phật, đem về Kim Lăng, và đốt phá nhà chùa rrất nhiều.

Một mặt phá hoại, một mặt nhà Minh cho truyền vào nước ta những h́nh thức mê tín dị đoan của các đạo Lăo và Lạt Ma giáo.

Do đó, Đạo Phật mất hế cả tính thuần túy của các thời đâị trước, vatơr thành một thứ tôn giáo hổn tạp, kỳ quái. Phật không ra Phật ma không ra ma. Thật là một cảnh tiêu tàn hoang phế đă diễn ra trong chốn Thiền môn !

Sang đến thời lê Nho học rất thịnh hành, các sĩ phu đua nhau vào đương khoa cử, miệt mài trong tư tưởng Tống Nho. Giáo-lư nhà Phật không c̣n làm danh lợi cho ai, nên đă bị bỏ quên. Phê b́ng t́nh trạng Phật Giáo trong giai đoạn này, Thường tọa Thích Mật Thể, trong cuốn Việt-Nam Phật Giáo sử lược đă viết rất đúng như sau:

'' Việc tu đạo, đối với hạng ít học th́ chỉ là một kế quyền nghi tteo h́nh thức (1); với hạng sĩ phu, th́ chỉ là môĩt chổ để người nào lận đận công danh, chán năn cuộc thế, bất b́nh với thói đời, nghĩa là chỉ có những người yếm thế mới t́m đến để tiêu dao ngày tháng, mượn cảnh chùa am, tiếng chuông, câu kệ, mà dứt bỏ cuộc ngoài thôi, chư không phải mến hiểu giáo-lư của Phật mà tu hành, rồi mộ đạo, rồi lại đem đạo lư ra mà giác ngộ cho kể khác''.

Bởi vậy trong thời Hậu Lê có thể nói ''thời đại Phật Giáo suy đồi'' !

(1) Để khỏi nói là một kế sinh nhai.

VII.- Phật Giáo Trong Thời Nam Bắc Phân Tranh (1528-1802)

Nhà Hậu Lê làm Vua đến đời vua Chiêu Tôn, Cung Hoàng (1516-1527) th́ bị Mặc Đăng Dung thoán đoạt nhưng những trung thần của Nhà Lê đả chống lại Mặc Đăng Dung và lập triều đ́ng nhà Lê ở Thanh Hóa, Nghệ An. Sau sáu năm chống nhau với nhà Mạc, nhà Lê đă nhờ công lao to lớn củ họ Trịnh mà giành lại Giang Sơn.

Họ Trịnh ỷ ḿnh có nhiều công lao, nắm hết quyền hành ở trong triều, vua Lê chỉ ngồi cho có vị, chỉ không có thực quyền.

Họ Nguyễn, v́ không muốn phục tùng họ Trịnh, nên đả lánh vào nam, hùng cứ một phương. Từ đó nươc ta phân chia làm hai:

Phía Bắc sông Gianh là giang sơn cảu họ Trịnh; Phía Nam sông Gianh là giang sơn của họ Nguyễn;. Hai họ Trịnh, Nguyễn đều muốn bành trướng thế lực của ḿnh để diệt trừ đối thủ, nên họ ra công xây dựng phần đất của ḿnh về mọi phương diện. Về phương diện tôn giáo, hai bên đều lấy Phật Giáo làm quốc giáo và củng sốt sắng xây chùa tạo tượng rất nhiều.

Cũng trong giai đoạn này, ở Trung Quốc thường có loạn lạc, và các tôn giáo Phật Giáo thường bị chèn ép của Lạt Ma giáo, nên một số vị cao tăng đă rời quê hương, sang Việt-Nam truyền giáo, người th́ vào ở đất Bắc, người th́ vào Nam. Nhờ thế, nước ta 

Có nhiều tôn phái mới và nhiều vị sư Trung Hoa danh tiếng mà ảnh hưởng c̣n truyền đến bây giờ.

1.- Phật Giáo trong thời các chúa Trịnh:

Phật Giáo trong thời kỳ này.- Vào khoảng đời vua Lê Thế Tôn (1573-1599) ở Bắc có phái Tào Động, củng là chi phái của phái Bồ ĐềĐạt Ma ở bên Tàu. Phái này truyền vào bởi nhà sư Trung Hoa Trí Giáo Nhất Cú. Hiện nay các vị sư trụ trị tại các chùa Ḥe Lai, Hàm Long, Trấn Quốc ở Hà Nội là đệ tử của phái Tào Động.

Vào khoảng đời vua Lê Hy Tôn (1676-1705) lại có phái Liên Tôn, do một vị vương công họ Trịnh là Lân Giác thiền-sư lập ra ở chùa Liên Phái (Bạch Mai, Hà Nội). Đồng thời sư Nguyệt Qung củng lập ra phái ấy ở Kiến An. Hai Ngài Lâm Giác và Nguyệt Quang đều là đệ tử của chi phái Lâm Tế ở Trung Hoa truyền sang. Hiện nay các vị sư trụ tŕ ở chùa Bà Đá (Hà Nội) là đệ tử cảu chi Lâm Tế.

Ngoài sự ptr hai phái trên, Phật Giáo ở Bắc lại được chúa Trịnh ủng hộ mạnh: trùng tu yự viện, thỉnh Đại tạng ở Trung Hoa về...Các cao tăng lúc bấy giờ củng khá đông, danh tiếng nhất là Ngài Hương Hải thiền-sư, mà chúng ta sẽ nói dưới đây:

Hương Hải thiền-sư: -Ngài nguyên trước ở miền Nam, trong phần đất của chúa Nguyễn và là ḍng dơi thế phiệt. Thân sinh Ngài là một công thần của chúa Nguyễn. Ngài đổ Hương Cống (cử nhân) lúc 18 tuổi, được tuyển vào làm việc ở phủ chúa Nguyễn rồi được bổ ra làm chi phủ ở Triệu Phong (Quảng Trị ngày nay). Ngài rất hâm mộ đạo Phật và thường đàm luận giáo-lư với các vị cao tăng. Đến 28 tuổi Ngài xin từ quan, xuất gia đầu Phật. Ngài ra chơi ở núi Tiêm Bút ngoài Nam Hải, rồi lập am ở lại trụ tŕ. Đạo hạnh Ngài rất cao, quan đan gần xa đều cảm mộ. Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu 1691-1715) nghe danh, sai người ra hải đảo mời về, và lập chùa để Ngài trụ tŕ. Nhưng sau v́ sự nghi ngờ của chúa Nguyễn, Ngài bỏ miền Nam, đóng thuyền vượt biển cùng 50 đê tử ra Bắc và được chúa Trịnh và vua Lê rất mến phục. Vua Lê Vũ Tôn (1706-1726) thường mời Ngài vào cung để hỏi đạo.

Một hôm vua hỏi Ngài:

Trẫm nghe thiền-sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin thiền-sư thuyết pháp cho nghe để Trẫm hiểu được Đạo. Ngài nói:

Bần tăng có bốn câu kệ này, xin bệ hạ để tâm suy nghĩ:

Nguyên văn:

Phản văn tự kỷ mổi thường quan
Thẩn sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trungtầm tri thức
Tương lai diện thượng đổ sư nhan

Dịch nghĩa:

Nghe lại điều ḿnh thấy những ngày
Suy đi nghĩ lại kỹ càng hay
Chớ t́m triều thức trong cơn mộng
Có thế mới hay nhận được thầy (Đạo)

Vua hỏi:

Thế nào là ư của Phật?

Ngài đáp:

Nguyên văn:

Nhạn quá trường không
Aính trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ư
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch nghĩa:

Nhạn liệng giửa không
Bống ch́m dưới nước
Nhạn không để dấu lại
Nước chẳng lưu bóng làm chi

Ngài thường đọc những câu kệ hay để dạy tăng chúng, như sau:

Nguyên văn:

Tầm ngưu tu phỏng tích
Học đạo quư vô tâm
Tích tại ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm.

Dịch nghĩa:

T́m trâu, t́m đấu chân
Đấu c̣n trâu chẳng mất đâu bao giờ
Những người học đạo chớ nhờ
Vô tâm th́ đạo cơ sơ đễ t́m

2.- Phật Giáo trong thời các chúa Nguyễn:

Phật Giáo trong thời kỳ này. -Trong khi Phật Giáo miền ngoài trổi dậy, th́ Phật Giáo miền trong cũng phát đạt. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa, cho đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, trong hơn hai trăm năm, họ Nguyễn đối với Phật Giáo hế ḷng sùng thượng, tạc tượng, đúc chuông, lập tự viện rất nhiều, bấy giờ có nhiều vị tăng tử Trung Hoa như Ngài Tế Viên, Ngài Giác Phong .. . ở Trung Hoa sang truyền giáo, trong các vị tăng Trung Hoa, có một vị Thánh tăng mà ảnh hưởng c̣n truyền lại đến bây giờ là Tô Nguyên Thiều. Riêng các vị tăng Việt-Nam, thời có Ngài Liễu Quán là một vị tổ đă làm cho Phật Giáo miền Nam thời ấy được vô cùng rực rỡ.

b.- Các vị danh tăng:

-Ngài Nguyên Thiều: Ngài họ Tạ, quê ở Trùng Hương (quảng Đông). Xuất gia năm 19 tuổi, Ngài tu ở chùa Bảo Tự, thọ giáo với Ngài Đổi Khao Khoán Viên Ḥa thượng. Niên hiệu Cảnh Trị năm thứ ba đời Lê Huyền Tôn (1665). Ngài đi theo tàu buôn của An Nam, trú ở phủ Quy Ninh (B́nh Định) lập chùa Thập Tháp Di Đà, mở truyềntrường dạy Phật Pháp, sau ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Đồng.

Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tôn ( Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, t́m mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Đông mời được Ḥa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúc Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ tŕ chùa Hà Trung.

Một hôm, Ngài lâm bệnh, họp môn đ̣ lại dặn ḍ mọi việc và truyền bài kệ sau đây:

Tịch tịch, kính vô ảnh

Minh minh, châu bát dụng

Dường đường,vật phi vật

Liểu liểu, không vật không

Đại ư: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mănh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lư ''chân không diệu hữu''.

Ngài viết xong bài kệ, ngồi yên lặng mà tịch.

Ngài Liễu Quán: Ngài họ Lê, húy Thiện Diệu, quê ở làng Bạch Mă, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (sông Cầu bây giờ). Ngài mồ côi lúc 6 tuổi, thân sinh Ngài cho Ngài xuất gia và đầu sư với Ngài Tế Viên Ḥa Thượng, người Trung Hoa. Được 7 năm Ḥa thượng Viên tịch, Ngài ra Thuận Hóa học với Giác Phong Lăo tổ (người Trung Hoa ) ở chùa Bảo Quốc. Năm 1691 Ngài trở về cố hương phụng dưỡng cha già, phải đi đốn củi để sinh nhai. Được bốn năm sau khi thân phụ Ngài qua đời, ngài trở ra Thuận Hóa, thọ giới Sa -di với Ngài Thạch Liêm Hào thượng (cũng người Trung Hoa).

Năm 1699, Ngài đi tham lễ khắp Thiền Lâm để bồi bổ cho sự tu hành. Qua năm 1702, Ngài đến Long Sơn, cầu học pháp tam thiền với Ngài Tử Dung ḥa thượng (tổ khai sơn chùa Từ Đàm, Huế).

Về phần hóa đạo, Ngài rất tinh tấn không nệ khó nhọc. Luôn luôn Ngài lập đàn truyền giới, tiếp chúng độ tăng. Năm 1740, ngài Tấn Đàn phóng giới, rồi từ đó Ngài trở về núi Thiên Thai, dựng thảo am, ẩn náu tu hành, nay tức là chùa Thiền Tôn.

Chúa Nguyễn Minh Vương rất trọng đạo hạnh Ngài, thường mời Ngài vào cung đàm đạo. Mùa xuân năm 1742, Ngài trở lại dự giới đàn ở chùa Vĩnh Thông, cuối mùa thu ấy, Ngài thọ bệnh, khi sắp lâm sung, Ngài gọi môn đồ lại dạy rằng:

Các ngươi khóc làm ǵ ! các đức Phật ra đời c̣n nhập niết bàn,th́ ta nay đi đến rỏ ràng, về tất có chổ, các ngươi không nên khóc và đuừng nên buồn thảm.

Kế đo,ĩ Ngài viết bài kệ , từ biệt:

Nguyên văn:

Thất thập dư niên thế -giới trung

Không không, sắc sắc, diệu dung thông

Kim triêu nguyện măn hoàn gia lư

Hà tất bôn man vấn tổ- tông.

Dịch nghĩa

Ngoài bảy mươi năm trong thế- gian

Không không, sắc sắc thảy dung- thông.

Ngày nay nguyện măn về nơi củ

Nào phải ân cần hỏi tổ- tông.

Viết xong, ngài bảo môn đồ rằng:

-"Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ đến cơn vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học, các ngươi hăy cố gắng tới, chớ bỏ quên lời ta".

Đến ngày 22 tháng 11 giữa mùa đôngnăm Nhâm -tuất (1742) vào giờ mùi, Ngài dùng nươc trà xong, vui vẽ từ biệt môn đồ, tiêu -diêu thoát hóa.

Chúa Minh- Vương được tin, liền ban thụy- hiệu là " Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên -Ngộ Ḥa- Thượng".

VII.-Phật Giáo Dưới Đời Các Vị Vua Đầu Triều Nguyễn 

T́nh trạng Phật Giáo trong giai đoạn này:

Nhà Nguyễn Tây- Sơn, trong một giai đoạn ngắn, đă chấm dứt t́nh trạng Nam,Bắc phân tranh và thóng nhất sơn hà về một mối.Nhưng chẳng bao lâu, Chúa Nguyễn Phúc-Aĩnh diệt được nhà Nguyễn Tây -Sơn, thu hồi lại đất nườcva mỡ đầu cho triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia- Long.

Trong giai đoạn này, nước ta sống trong cảnh chiến- tranh thường trực,ít ai có th́ giờ nghĩ đến chuyện chấn -hưng đạo đức tôn- giáo.Một số chùa chiền bị tàn phá, kinh- điển thất -lạc, cảnh hoang tàn thật tiêu điều buồn bă. Vua Gia -Long lên ngôi, công việc trước tiên của Ngài là lập lài nên an- ninh trật -tự trong nước, chứ cũng chưa có th́ giờ nghĩ đến chuyện chấn -hưng Phật Giáo.Qua đến đời Minh- Mạng và Thiệu Trị, các Ngài cũng bắt đầu sắc trùng tu những ngôi chùa tổ đ́nh quan trọng ,nhưng trong dân gian th́ ảnh hưởng đạo Phật mỗi ngày mỗi lu mờ, phai nhạt dần. Các vị cao tăng vẫn có, như Ngài Phổ -Tịnh Ḥa -Thượng, Giac Ngộ Ḥa _Thượng . Nhưng v́ quá ít ỏi, nên quư vị ấy, chẳng khác ǵ những chiếc sao lẻ té trong bầu trời đen tối, chảng soi sáng đươc ǵ.

Đến khi người Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước này, th́ đạo Phật lại càng suy đồi, mất hết cả những ǵ thuần túy, cao siêu,mà chỉ c̣n như là một thần đạo, mà nhiệm vụ chính là lo việc cúng bái mà thôi.

Để có một ư niệm chung về một sự tồi -tệ của trong giai đoạn này, chúng tôi xin trích một đoạn nhận xét rất chính xác sau đây, mà Thượng -Tọa Thích -Mật _thể đă viết trong cuốn Việt -Nam Phật Giáo sử lược: 

"..Đến đây,từ vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an- trí đạo Phật là ở sự cúng cấp, cầu đảo, chứ không biết ǵ khác nữa. Và phần đông họ chỉ trọng ông thầy ở chổ danh vọng, chức tước, mặc dù ông ấy thiếu học, thiếu tu. Bởi tệ hại ấy, tăng đồ trong nước lần lấnavào con đường trụy lạc, cờ bạc, rượu chè đắm trước thanh sắc.

"Ở miền trung nguyên Bắc -kỳ,về kỷ- luật tăng già bên ngoài c̣n giữ được nghiêm chỉnh đôi chút, chứ ở Trung -kỳ, phần nhiều họ đă có vợ, có con một cách công nhiên, không áy náy.Nhất là ở Nam -kỳ lại càng hổn độn hơn nữa...Phần đong tăng đồ chỉ nghĩ đến danh vọng, chức tước: xin bằng Tăng-cang, Trụ tŕ, Sắc tứ v.v..hay chỉ biết cúng cấp, cầu đạo , phù chú, làm táyai cho các vua chúa, quan quyền, phú hộ để làm kế sinh nhai. C̣n một hạng nữa, chỉ giữ ḿnh cho được thanh nhàn, ăn chơi tiêu khiển, bảo là giải thoát v.v..!

"Bởi vậy, các cảnh chùa trong nước đă thành cảnh gia đ́nh riêng, không c̣n ǵ là tính cách đoàn thể của một tôn giáo nữa. Họ sống trong Phật Giáo hầu hết chỉ c̣n là "dốt" và"quên"! "Quên" để khỏi phải biết đến bổn phận bổn phận chơn chánh của một tăng -đồ.

"Ở trong tăng- đồ th́ như vậy, ở ngoài tín- đồ cư- sĩ th́ ngơ- ngác, mù ḷa tin bướng, theo càn, ít ai là người hiểu đạo lư.

"Trong lịch sử Phật GiáoViệt-Nam, ta có thể đánh vao đây một dấu than (!) rất to tướng".

C.-Kết Luận:

Chúng ta đă theo dơi dâu chân của những nhà truyền bá đạo Phật đầu tiên ở trên đất nước này cho đến thời cận đại. Trong gần hai mươi thế kỷ hiện -diện trên dăy đất Việt-Nam này, đạo Phật đă trăi qua biết bao cơn thăng trầm, suy thịnh. Những sự biến chuyển ấy, không đơn phương, mà bao giờ cũng đi song song với sự biến chuyển chung của đất nước. Mỗi lần vận nước hưng lên th́ đạo Phật cũng phát triển mạnh, mỗi lần vận nước suy nhược, th́ đạo Phật cũng thoái trào.

Điều nhận xét thứ hai là những vị anh quân thường thường là những Phật -tử thuần thành, luôn luôn ủng hộ và khuyến khích sự truyền bá Phật Pháp. Trái lại, những vị vua ít hiểu đạo, phá đạo phần nhiều cũng là những vị vua ít thành công nhất trong sự trị nước, an dân.

Do hai nhận xét trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Đạo Phật đă mật thiết ḥa ḿnh trong cuộc sống của dân -tộc Việt- Nam trong quá khứ. Và từ đây về sau, muốn cho đất nước được an cư lạc nghiêp và có một tương lai rạng rỡ, những nhà lănh đạo quốc giả phải dành cho đạo Phật một địa vị quan trọng trong mọi sinh hoạt của nước nhà.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]