[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Phần 14][Phần 15][Phần 16][Phần 17][Phần 18][Mục Lục]


KHOÁ X

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI

Bài Thứ 16

 

Chương thứ tư: TÍM TÂM TU HÀNH (Tiếp theo và hết)
C. Các thứ ma chướng khi tu thiền:
1. Ma hiện Phật, Bồ Tát v.v...
2. Ma nói pháp Lục độ và ba môn giải thoát v.v...
3. Ma làm cho hành giả mất tánh thường hoặc điên v.v...
Đối trị các ma: 
1. Quán duy tâm
2. Không móng tâm chấp trước.
D. Mười điều lợi ích tu thiền
E. Bảy pháp quán
G. Chỉ và quán đồng thời tu
H. Lợi ích chỉ quán
I. Pháp môn niệm Phật
Chương thứ năm: Nói về LỢI ÍCH và KHUYẾN TU
Học và tu theo Luận này sẽ được lơi ích vô cùng
Khuyên hành giả tu theo Luận Đại thừa này
Hồi hướngl

CHƯƠNG THỨ TƯ

PHẦM TÍN TÂM, TU HÀNH 

C. NÓI VỀ CÁC THỨ MA CHƯỚNG TRONG KHI TU THIỀN

CHÁNH VĂN

Nếu chúng sanh nào căn lành mỏng ít, bị các tà ma ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm năo loạn, trong khi hành giả tham thiền, chúng hiện các h́nh tướng ghê sợ, hoặc hiện kẻ trai người gái xinh đẹp v.v...th́ phải quán Duy tâm, lúc bấy giờ các ma này tiêu diệt, không c̣n làm ǵ nữa được.

Hoặc chúng hiện h́nh chư Thiên, Bồ Tát, Phật, cũng đủ các tướng tốt; hoặc nói thần chú, nói pháp bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ; hoặc nói pháp b́nh đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, không oán, không thân, không nhơn, không quả, rốt ráo trống không vắng lặng, gọi đó là Niết bàn. Hoặc chúng làm cho hành giả biết được đời trước của ḿnh (túc mạng thông) hoặc biết những việc quá khứ vị lai, biết đặng tâm người (tha tâm thông) biện tài vô ngại. Chúng làm cho hành giả tham luyến danh lợi ở thế gian v.v...Hoặc ma làm cho hành giả tánh không chừng đỗi, hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bịnh, hoặc nhiều thương xót, tâm hay giải đăi; hoặc có khi rất tinh tấn, có lúc lại bê tha hoặc sinh tâm nghi ngờ không tin, và nhiều lo nghĩ; hoặc bỏ pháp tu căn bản, trở lại tu các tạp hạnh; hoặc đắm nhiễm các việc triền phược ở thế gian; hoặc làm cho hành giả đặng chút ít phần tương tợ như các pháp tam muội, song đó là cảnh bị chứng của ngoại đạo, không phải thật tam muội; hoặc làm cho hành giả ở trong Định, từ một ngày hoặc đến bảy ngày, tự nhiện đặng món ăn thơm ngon, thân tâm vui thích, không biết đói khát; khiến cho hành giả rất ưa thích. Hoặc làm cho hành giả ăn không chừng đỗi, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn. Khi gặp những cảnh như vậy, hành giả phải thường dùng trí huệ quán sát, siêng năng giữ ǵn Chánh niệm, không nên chấp thủ, chớ để cho tâm ḿnh đoạ vào lưới tà. Phải như thế hành giả mới xa ĺa được các ma chướng.

LƯỢC GIẢI

Người tu thiền định, khi phá trừ ngũ ấm, sẽ bị trên năm chục món ma, biến hiện đủ cách để thử thách và năo hại người tu Thiền.

Khi gặp các cảnh ma ấy, hành giả phải dụng tâm như thế nào, và dùng những phương pháp ǵ để diệt trừ, th́ trong kinh Lăng nghiêm Phật đă dạy rất rơ ràng và kỹ lưỡng, (quí vị nên đọc đoạn Ngũ ấm ma trong quyển Đại cương Lăng nghiêm).

Trong Luận này, Ngài Mă Minh Bồ Tát chỉ nói sơ lược về ma; Hoặc chúng hiện thân Phật, thân Bồ Tát ; hoặc nói kinh thuyết pháp thông suốt; hoặc làm ch người tu thiền biết được việc quá khứ, vi lai; hoặc đặng túc mạng thông, tha tâm thông, biện tài vô ngại; hoặc làm cho người tu thiền tham lam danh lợi v.v...

Khi gặp các cảnh ma như vậy, hành giả phải đừng quyến luyến, nhiễm trước và đừng sanh tâm vui mừng hay lo buồn, mà phải luôn luôn quán Duy tâm; nghĩa là quán do dụng công tu thiền, nên tâm hiện ra các cảnh như vậy, chứ không có ǵ lạ và cũng không phải chứng chi cả. Kinh Lăng nghiêm, Phật nói: " ...Nếu hành giả không chấp ḿnh được Thiền hay chứng Thánh th́ tốt, c̣n chấp ḿnh Thiền hay chứng Thánh th́ đoạ vào tà đạo" (Bất tác Thánh tâm danh thiện cảnh giới, nhược tác thánh giải tức thọ quần tà). Phải dụng tâm như thế th́ các cảnh ma kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu hành giả vui mừng, cho ḿnh được Thiền hay chứng Đạo v.v...th́ bị ma ám ảnh nhiễu hại; v́ các việc ma là hiện thân của sự tham luyến vui buồn chấp thủ.

CHÁNH VĂN

Phải biết, các pháp thiền định (tam muội) của ngoại đạo tu tập, đều không rời phiền năo hữu lậu v́ tâm c̣n ngă mạn, chấp ngă tham lam danh lợi ở thế gian và cầu người cung kính.

C̣n tu pháp Chơn như tam muội (thiền định) này th́ không cxó tướng ǵ để được, lại có công năng làm cho các phiền năo lần lần mỏng ít; cho đến khi xuất định hành giả cũng không giăi đăi. Nếu người tu hành mà không tu pháp Chơn như tam muội này, th́ không thể nhập được ḍng giống của Như Lai.

Tu các pháp thiền định tam muội của thế gian, cũng như thiền định của ngoại đạo, đều thuộc trong Tam giới, v́ c̣n các phiền năo chấp ngă và say đắm nhiễm trước nơi cảnh thiền. Bởi thế nên người tu thiền định, nếu không có Thiện tri thức dẫn dắt, th́ quyết định sẽ lạc vào ngoại đạo.

LƯỢC GIẢI

Trong kinh Lăng nghiêm, khi Phật sắp chỉ dạy phương pháp tu hành th́ Phật đă khuyên bảo dặn ḍ ông A Nam và đại chúng rằng "Phải phân biệt rành rơ hai món căn bản: 1. Vọng tâm phiền năo là căn bản của sanh tử luân hồi và 2. Chơn tâm thanh tịnh là căn bản của Bồ Đề Niết bàn. Nếu các ông nhận lầmpn là căn bản của sanh tử luân hồilàm nhơn tu hành, th́ không bao giờ thành Phật được; và cũng như người nhận giặc làm con, chỉ bị nó phá hại mà thôi". Bởi thế nên, đoạn này Bồ Tát Mă Minh phân tách rành rơ tà định và chánh định, để cho hành giả khỏi lầm lạc.

Thiền định của ngoại đạo và thế giam là do phiền năo hữu lậu làm động cơ thúc đẩy, như v́ lợi dưỡng, cầu người cung kính v.v...mà tu. Khi tu thiền, thấy được một vài thắng cảnh th́ họ ngă mạn cống cao và tham ái nơi cảnh thiền v.v...Bởi thế nê tu chừng nào, th́ họ lại tăng trưởng bản ngă, thêm nhiều phiền năo, đào sâu hop61 tà, luân hồi măi treong tam giới.

C̣n thiền định của chư Phật là do chơn như thanh tịnh (chơn như) làm động cơ, nên không v́ lợi dưỡng hay cầu người cung kính, khi thấythắng cảnh, chỉ quán là Duy tâm, không móng tâm tham luyến, không ngamạn cống cao, không nuôi lớn bản ngă. Bởi thế nên hành giả tu chừng nào th́ phiền năo càng tiêu, được vào cảnh giới của chư Phật.

Tóm lại, người tu thiền định, nếu không có Thiện hữu tri thức (Minh sư chỉ giáo) để dẫn dắt, th́ dễ lạc vào tà kiến ngoại đạo.

D. MƯỜI ĐIỀU LỢI ÍCH THIỀN ĐỊNH

CHÁNH VĂN

Người chuyên tâm tinh tấn tu pháp tam muội này (Chơn như tam muội) th́ hiện dời sẽ được mười điều lợi ích:

1. Được mười phương chư Phật và Bồ Tát thường hộ niệm.

2. Không bị các ma quỉ khủng bố.

3. Không bị chín mươi lăm thứ thiên ma ngoại đạo làm mê hoặc.

4. Xa ĺa những việc huỷ báng Chánh pháp và các tội chướng nặng nề dần dần mỏng ít.

5. Diệt hết các nghi ngờ và những sự thấy nghe tội lỗi.

6. Đối với các cảnh giới của chư Phật, ḷng tin tăng trưởng.

7. Xa ĺa các điều ăn năn lo lắng và đối với việc sanh tử, tâm không khiếp sợ.

8. Tâm được nhu hoà, bỏ tánh kiêu mạn, chẳng bị người làm năo hại.

9. Dù chưa chứng Định, song trong tất cả thời gian, tất cả cảnh giới, hành giả có thể làm cho các phiền năo tổn giảm và không tham vui ở thế gian.

10. Nếu được Tam muội th́ không bị các âm thinh của trần gian và các ngoại duyên làm chao động.

 
LƯỢC GIẢI

Người tu hành là một vị Tướng soái cxùng với các ma quân trường kỳ kháng chiến, không phải kháng chiến một năm một tháng, mà phải nhiều đời nhiều kiếp, không phải một ngày một buổi, mà phải đánh từng giờ từng phút với giặc nội tâm (phiền năo). Cố nhiên hành giả phải trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là tự vệ, phải trải qua một a tăng kỳ kiếp (một vô số kiếp), hành giả thua nhiều thắng ít; giai đoạn thứ hai là cẩm cự, trải qua một a tăng kỳ kiếp thứ hai, hành giả năm ăn năm thua; giai đoạn thứ ba là phản công, cũng trải qua một a tăng kỳ kiếp nữa, hành giả thắng nhiều mà thua ít.

Tuy nhiên, nếu hành giả thành tâm chuyên nhứt, tinh tấn tu học pháp "chơn như tam muội" này, th́ sẽ được mười điều lợi ích như trên; mà điều lợi ích thứ nhứt là được chư Phật và Bồ Tát thường hộ niệm; như vậy, lo chi chẳng được thành đạo chú?ng quả.

(Trên đă nói tu Chỉ, tiếp theo đây sẽ nói tu Quán)

E. BẢY PHÁP QUÁN

CHÁNH VĂN

Nếu người tu Chỉ (Định) mà tâm bị trầm một (ch́m lặng) sanh ra giăi đăi, hoặc chẳng ưa làm việc lành, xa ĺa tâm Đại bi, th́ phải tu Quán.

1. Quán vô thường: Quán tất cả các pháp hữu vi trong thế gian, không có lâu dài, giây phút biến hoại.

2. Quán khổ: Quán tất cả tâm hạnh là khổ, v́ mỗi niệm sanh diệt không dừng.

3. Quán vô ngă: Quán các pháp như quá khứ như chiêm bao, các pháp hiện tại như chớp nhoáng, các pháp vị lai như mây tụ tán.

4. Quán bất tịnh: Quán tất cả thân h́nh nam, nữ trong trần gian đều bất tịnh, đủ các thứ ô uế, không có một chút ǵ sạch sẽ đáng ưa.

5. Quán Đại bị: Hành giả phải thường nhớ tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, đều bởi vô minh huân tập, làm cho tâm sanh diệt, và đă thọ không biết bao nhiêu thân h́nh khổ năo; hiện tại đây vẫn bị vô lượng sự khổ sở đang áp bức, cho đến vị lai cũng c̣n chịu các điều khổ năo, không biết chừng nào cùng tận. Chúng sanh bị các khổ sở như thế, không thể ĺa bỏ được, thế mà không hay không biết, thật đáng thương xót.

6. Quán Đại nguyện: Hành giả thường suy nghĩ chúng sanh khổ sở như thế, nên phát tâm dơng mănh, tu tất cả công đức lành, lập lời thệ nguyện rộng lớn: "Nguyện cho tâm tôi không c̣ phân biệt thân sơ (đồng thể) để dùng vô lượng phương tiện cứu độ tất cả chúng sanh khổ năo khắp cả mười phương, cùng tận vi lai, đều được an vui Niết bàn".

7. Quán Tinh tấn: Do hành giả đă phát nguyện rộng lớn như vậy, nên trong tất cả thời gian và tất cả mọi nơi, phải siêng năng tu học, tuỳ theo khả năng của ḿnh mà làm các việc lành, tâm không giăi đăi.

 
LƯỢC GIẢI
 

Hành giả nếu tu "Chỉ" mà không tu "Quán" th́ có thể sanh ra những tai hại là xa ĺa tâm Đại bi, không ưa làm các việc lành. Bởi thế nên muốn tránh những tai hại ấy, hành giả phải tu "Quán".

Trước nhứt, hành giả phải quán"Tứ niệm xứ" để thấy rơ thâm tâm và thế giới đều là vô thường, khổ, vô ngă và bất tịnh". Tiếp đó hành giả dùng quán Đại bi cứu độ. Rồi tiếp dùng quán Đại nguyện, nghĩa là khi đă thấy chúng sanh khổ quá, nên hành giả tự phát lời thệ nguyện rộng lớn và dũng mănh độ sanh với tâm b́nh đẳng, không phân biệt thời gian và không gian. Hành giả đă lập Đại nguyện rồi th́ phải dùng quán Tinh tấn, nghĩa là phải tận lực của ḿnh làm các điều lợi ích cho chúng sanh trong mười phương, không khi nào rảnh việc.

G. CHÆ VÀ QUÁN ĐỔNG THỜI TU

CHÁNH VĂN

Chỉ trừ những lúc ngồi chuyên tu pháp "Chỉ" c̣n ngoài ra tất cả th́ giờ khác, hành giả đều phải quan sát những việc ǵ nên làm, việc ǵ không nên làm.

Khi đi, đứng, nằm, ngồi hành giả phải đồng thời tu cả Chỉ và Quán. Nghĩa là hành giả tuy trong khi quán tự tánh của các pháp không sanh (Chỉ), nhưng cũng quán do nhơn duyên hoà hiệp, nên nghiệp lành dữ và quả báo khổ vui không mất (Quán)_ Tuy trong lúc quán do nhơn duyên hoà hiệp nghiệp báo không mất (Quán), nhưng hành giả cũng quán tự tánh của các pháp không sanh (Chỉ).

LƯỢC GIẢI

Bồ Tát MaMinh dạy hành giả trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tu cả Chỉ và Quán. Trong khi quán các pháp vô sanh, để trừ tâm tham lam ái trước v.v...th́ hành giả cũng quán nhơn duyên hoà hiệp, nhơ quả lành dữ không mất, để rộng tu các việc lành và giáo hoá chúng sanh. Tuy "quán không" mà chẳng bỏ môn hạnh lành; "quán có" mà tâm tánh vẫn thanh tịnh, không nhiễm trước, ái luyến một cảnh nào. Đó là lợi ích của Chỉ và Quán đồng thời tu vậy.

H. LỢI ÍCH TU CHÆ QUÁN

CHÁNH VĂN

Phàm phu tu "Chỉ" th́ trừ được tâm nhiễm trước thế gian; Nhị thừa tu "Chỉ"th́ bỏ được tâm khiếp nhược. Phàm phu tu "Quán", xa ĺa được cái bịnh chẳng ưa tu pháp lành; Nhị thừa tu "Quán", đối trị được tâm hẹp ḥi ích kỹ, chẳng khởi Đại bi. Bởi thế nên phải tu cả Chỉ và Quán, giúp nhau mới thành, không thể rời nhau được. Nếu hành giả không tu cả Chỉ và Quán th́ sẽ không thể vào đạo Bồ Đề.

LƯỢC GIẢI

Nhờ tu "Chỉ" nên hành giả ngăn được sự tham trước và khiếp nhược. Nhờ tu "Quán" nên hành giả phát khởi tâm Đại bi và làm lợi ích cho chúng hữu t́nh. Bởi thế nên pháp Chỉ, Quán, (Định, Huệ) là con đường lớn của hành giả để về cơi Phật.

I. PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

CHÁNH VĂN

Lại nữa, nếu có chúng sanh mới tu pháp này, tâm c̣n khiếp sợ, muốn được Chánh tín, nhưng lo sợ "ở cơi ta bà không thường găp Phật, nghe pháp và cúng dường, e sợ ḷng tin của ḿnhkhông thành tựu", muốn thối chí, th́ những chúng sanh ấy biết rằng: Phật c̣n có phương tiện thù thắng, bảo đảm tín tâm của hành giả được thành tựu. Phương tiện ấy là "Nhơn duyên chuyên tâm niệm Phật, cầu sanh về cơi Phật ở phương khác, để thường được thấy Phật, nghe pháp", th́ chắc chắn xa ĺa được ác đạo.

Trong Khế kinh, Phật dạy: "nếu người chuyên tâm niệm Phật A di đà ợ thế giới Cực lạc phương tây, và đem công đức tu hành hồi hướng phát nguyện cầu sanh về đó, th́ quyết định sẽ sanh về thế giới Cực lạc, được thường thấy Phật và nghe pháp, không bao giờ thối chuyển".

Nếu hành giả quán chơn như Pháp thân của Phật A di đà và thường siêng năng tu tập, th́ rốt ráo sẽ được sanh vào hàng ngũ chánh định

LƯỢC GIẢI

Hành giả muốn hái quả Phật, tất nhiên phải leo lên cây Bồ Đề cao 6 thước, là Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền địngh và Trí huệ. Quan trọng nhứt là hai thước sau; trong Luận này gọi lá Chỉ và Quán. Đó là điều duy nhứt của các vị Bồ Tát đă và sẽ chứng quả Phật.

Nhưng, có người lo ngại: "Chúng phàm phu đến quả Phật, phải tu nhiều kiếp và trải qua thời gian lâu xa là ba vô số kiếp; hơn nữa, ở cơi Ta bà này có rất nhiều chướng ngại, và không thường gặp Phật, sự tu khó thành công". Muốn cho những người ấy hết lo ngại, bảo đảm sự tu hành chắc chắn được kết quả, nên Bồ Tát Mă Minh chỉ thêm một phương tiện thù thắng của Phật, là dạy người "Nhứt tâm niệm Phật, hồi hướng cầu sanh về cơi nước của Phật A di đà, để thường găp Phật và làm bạn với các vị Bồ Tát, ngày đêm sáu thời thường nghe tiếng pháp; cho đến gió thổi, cây rung, suối reo, chim hót, cũng đều diễn ra những pháp: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ Đề, Bát chánh đạo v.v..."; như trong kinh Di đà đă nói.

Hành giả găp hoàn cảnh thuận tiện, tốt đẹp như thế, th́ lo ǵ chẳng thành đạo chứng quả. Bởi thế nên pháp "Nhứt tâm niệm Phật" là phương tiện thù thắng nhứt của đức Đại bi Thế tôn

(Đă hết chương thứ tư là Tín tâm, Tu hành)

***
 
 

CHƯƠNG THỨ NĂM

 

LỢI ÍCH VÀ KHUYẾN TU

 

CHÁNH VĂN

Pháp Đại thừa bí mật của chư Phật, tôi đă nói một cách tổng quát rồi. Nếu có người nào đối với pháp Đại thừa của Như Lai (thậm thâm cảnh giới) đă không nghi ngờ hay bài báng, lại c̣n sanh tâm chánh tín muốn vào Đại thừa, nên họ thọ tŕ (văn) suy nghĩ (tư) và tu tập (tu) theo Luận này, th́ người ấy sẽ được đạo vô thượng Bồ Đề. Nếu người nào nghe đến Pháp Đại thừa này mà tâm không nghi sợ th́ người ấy sẽ được chư Phật thọ kư và quyết định sẽ nối ḍng Phật.

Giả sử có người giáo hoá chúng sanh cả Đại thiên thế giới (một ngh́n triệu thế giới nhỏ) đều tu thập thiện, công đức của người này tuy nhiều, nhưng không bằng có người chỉ ở thời gian ngắn như trong bữa ăn, tu pháp Đại thừa này, th́ công đức lài nhiều hơn người trước không thể so sánh được.

Lại nữa, nếu có người, hoặc trong một ngày đêm, thọ tŕ, quán sát và tu hành theo Luận này, th́ người ấy sẽ được công đức vô lượng vô biên, không thể nói hết. Dầu cho mười phương chư Phật ở trong vô lượng vô biên, a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp) tán thán công đức của người đó cũng không hết. Tại sao vậy?_ Bởi v́ pháp Đại thừa (Phật tánh) có công đức không cùng tận; Luận này nói về pháp Đại thừa nên người thọ tŕ và tu tập, theo luận này, cũng được công đức vô lượng vô biên như vậy.

Nếu chúng sanh nào đối với Luận này mà huỷ báng, không tin, th́ chúng sanh đó sẽ bị tội báo lớn, trải qua vô lượng kiếp thọ khổ năo. V́ thế nên chúng sanh phải tin tưởng không nên huỷ báng Luận này, bởi có hại cho ḿnh và người, đoạn tuyệt giống Tam bảo.

Tất cả chư Phật đều do pháp Đại thừa này mà được Niết bàn; các vị Bồ Tát cũng nhờ tu pháp Đại thừa này mà đặng vào trí Phật. Các vị Bồ Tát quá khứ, hiện tại và vi lai đều tu theo pháp Đại thừa này mà được thành tựu đức tin thanh tịnh. Bởi thế nên chúng sanh phải siêng năng tu học.

LƯỢC GIẢI

Chương thứ năm này nói về sự lợi ích và khuyên người tu hành. Bộ Luận này nói về pháp Đại thừa, tức là tâm chúng sanh hay Phật tánh, hoặc gọi chơn như hay Pháp thân v.v...Chư Phật, Bồ Tát quá khứ, hiện tại và vị lai đều tu theo pháp Đại thừa mà được thành đạo chứng quả. Bởi thế nên người tu theo pháp Đại thừa chỉ trong thời gian ngắn, như trong bữa ăn hay một ngày đêm, công đức người này nhiều hơn người dạy chúng sanh trong Đại thiên thế giới tu Thập thiện; v́ tu Thập thiện chỉ hưởng phước hữu lậu ở cơi trời; và mười phương chư Phật tán dương công đức của người tu theo Đại thừa cũng không hết lời, v́ công đức này thuộc về chơn tâm thanh tịnh vô lậu, biến khắp tất cả.

Trái lại nếu chúng sanh nào huỷ báng không tin Luận này, tức là huỷ báng không tin pháp Đại thừa hay không tin tánh Phật, tâm chơn như v.v...của ḿnh th́ chúng sanh đó tự đoạn pháp thân huệ mạng của ḿnh, làm mất giống Phật pháp của ḿnh nên nhiều kiếp phải chịu sanh tử luân hồi trầm luân trong biển khổ.

V́ thế nên chúng sanh không nên nghi ngờ huỷ báng, mà phải tin tưởng và tu theo Luận này.

BÀI KỆ HỔI HƯỚNG

CHÁNH VĂN

Nghĩa lư rộng sâu của chư Phật

Tôi nay tổng quát nói đă rồi

Nguyện đem công đức về Pháp tánh

Tất cả chúng sanh đều được lợi

LƯỢC GIẢI

Theo lệ thường, các vị Bồ Tát khi tạo luận, trước nhứt nói bài kệ quy kính Tam bảo, để cầu Tam bảo gia hộ cho việc làm của ḿnh được khế lư và hợp cơ; rốt sau nói bài kệ hồi hướng, để hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều nhờ công đức này mà được lợi lạc. Đây là bài kệ hồi hướng.
 
 

Dịch chánh văn xong ngày 27 tháng Giêng Tân Sữu
Lược giải và tu chỉnh, xong ngày 28 tháng Chạp năm Tân Sữu (1961)
In xong giữa mùa Sen nỡ, năm Nhâm Dần (1962)

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Phần 14][Phần 15][Phần 16][Phần 17][Phần 18][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]