[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Phần 14][Phần 15][Phần 16][Phần 17][Phần 18][Mục Lục]


KHOÁ X

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI

Bài Thứ 12

 

B. Đối trị các chấp sai lầm
Chấp sai lầm có 2 thứ:
I. Chấp ngă, có 5 thứ:
1. Chấp Hư không là Chơn tánh của Như Lai
2. Chấp Chơn như hay Niết bàn, chỉ là không không, chẳng có chi hết.
3. Chấp Như Lai tạng có các h́nh tướng sai khác như Sắc và Tâm 
4. Chấp trong Như Lai tạng có đủ các sanh tử nhiễm ô
5. Chấp chúng sanh có thỉ, chư Phật có chung tận.
II. Chấp pháp:
Chấp thật có vũ trụ, vạn hữu

CHƯƠNG THỨ BA: PHẦN GIẢI THÍCH

B. ĐỐI TRỊ CÁC CHẤP SAI LẦM

 

CHÁNH VĂN

Tất cả các chấp sai lầm (tà chấp), đều do chấp ngă và chấp pháp mà sanh; nếu rời chấp ngă và chấp pháp th́ không c̣n các chấp sai lầm.

I. CHẤP NGĂ (chấp bản ngă thật có).

Chúng phàm phu chấp ngă có 5 thứ:

1. Chấp "Hư không là chơn tánh của Như Lai". _ V́ phá chấp của chúng sanh nên trong kinh Phật nói:" Pháp thân của Như Lai rốt ráo vắng lặng cũng như hư không". Chúng phàm phu nghe nói như thế, không hiểu, lại lầm chấp:"Hư không là chơn tánh của Như Lai".

V́ đối trị cái chấp sai lầm này, nên phải giải thích rằng:"Hư không là pháp hư đối, không có thật thể, do đối với sắc tướng mà thấy có hư không; nếu không có sắc tướng th́ cũng không có tướng hư không. Nghĩa là từ hồi nào đến giờ, tất cả cảnh giới (sắc pháp) đều do vọng tâm biến hiện, không có pháp nào ngoài tâm; chúng sanh không biết vọng chấp (biến kế chấp) là thật có. Nếu vọng tâm hết, th́ các cảnh giới cũng không c̣n. Lúc bấy giờ chỉ c̣n chơn tâm hiện khắp tất cả. Đó là pháp thân quảng đại thuộc về tâm trí (tánh trí) của Như Lai không phải như hư không, không có tri giác.

LƯỢC GIẢI

Đối trị chấp tà là phá trừ các sự chấp nhứt sai lầm. Các sự chấp nhứt sai lầm đều do chấp ngă, chấp pháp mà sanh. Nếu phá trừ được chấp ngă, chấp pháp th́ các chấp sai lầm không c̣n.

V́ quan niệm thân tâm là thật, nên gọi là chấp ngă quan niệm vũ trụ vạn vật là thật, th́ gọi là chấp pháp.

Chúng sanh chấp pháp thân của Phật có h́nh tướng như thế này, hoặc như thế kia v.v....V́ muốn phá các chấp sai lầm ấy, nên Phật nói: "Pháp thân của Phật rốt ráo vắng lặng, cũng như hư không".

Nghe trong kinh nói như vậy, chúng sanh trở lại chấp:"Hư không là pháp thân của Như Lai" v́ phá cái chấp sai lầm này, nên Ngài Mă Minh giải thích rằng:"Hư không là cái không thật thể, do các sắc tướng mà thấy có hư không. Nếu không có sắc tướng th́ cũng không có hư không. Cả sắc tướng và hư không đều do vọng tâm biến hiện; rồi chúng sanh lầm chấp là thật có. Nếu vọng tâm hết th́ sắc tướng và hư không cũng không c̣n. Lúc bấy giờ bản thể chơn tâm hiện ra, rộng lớn bao la và trùm khắp tất cả. Đó là pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Đây thuộc về phần tâm trí, không phải như hư không, không có tri giác.

CHÁNH VĂN

2. Chấp "Chơn như hay Niết bàn, chỉ là không không, chẳng có chi hết". _ V́ phá vọng chấp của chúng sanh, nên trong kinh Phật nói:"các pháp thế gian rốt ráo không có thật thể; cho đến các pháp xuất thế gian, như Chơn như hay Niết bàn rốt ráo, cũng không có thật thể; từ hồi nào đến giờ, nó không có các tướng". Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu, trở lại chấp:"Chơn như hay Niết bàn là không có chi hết".

V́ đối trị sự chấp sai lầm này, nên phải giải thích rằng:"Chơn như hay Pháp thân của Phật, chẳng phải không có tự thể; nó saün có và đầy đủ vô lượng công đức".

LƯỢC GIẢI

Đoạn trên phá quan niệm sai lầm, chấp "hư không là chơn tánh của Như Lai"; đoạn này phá quan niệm sai lầm, cho rằng "Chơn như hay Niết bàn là cảnh giới hư không ảo tưởng không có chi hết".

Chúng sanh thường lầm tưởng:"Các pháp thật có". V́ phá trừ quan niệm sai lầm ấy, nên trong kinh Phật nói:"các pháp thế gian hư giả không thật, cho đến các pháp xuất thế gian như Chơn như, Bồ Đề, Niết bàn v.v...rốt ráo cũng không có thật thể, v́ không có các h́nh tướng". Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu, trở lại chấp:"Chơn như hay Niết bàn v.v...là cảnh giới hư vô ảo tưởng, chẳng có chi hết".

Để đối trị sự chấp sai lầm này, nên Ngài Mă Minh Bồ Tát giải thích rằng:"Chơn như, Pháp thân hay Bồ Đề, Niết bàn không phải là cảnh giới ảo tưởng hư vô, không có ǵ cả, mà nó saün có đầy đủ vô lượng đức tánh, nhiều hơn số cát sông Hằng, như: thiện, thường, lạc, ngă, tịnh, giải thoát v.v....

CHÁNH VĂN

3. Chấp "Như Lai tạng" có các h́nh tướng sai khác như Sắc và Tâm v.v... _ Nghe trong kinh Phật nói:"Như Lai tạng không tăng không giảm, saün đủ tất cả các công đức"; chúng phàm phu v́ không hiểu nghiă này, nên trở lại chấp:" Như Lai tạng có đủ các h́nh tướng sai khác, như sắc và tâm v.v....".

Để đối trị sự chấp sai lầm này, nên phải giải thích rằng: "Căn cứ về thể Chơn như th́ không có các tướng sai khác; c̣n theo tướng nhiễm ô sanh diệt, th́ có các h́nh tướng sai khác".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này phá quan niệm sai lầm cho rằng: "Chơn" đồng với "Vọng".

Nghe trong kinh Phật nói: "Như Lai tạng không tăng không giảm, saün có đủ tất cả đức tánh, chùng phàm phu không hiểu trở lại chấp: "Như Lai tạng cũng có các h́nh sắc sai khác".

Để đối trị quan niệm sai lầm này, Ngài Mă Minh giải thích rằng: "Thể Chơn như" (Chơn như môn) th́ thanh tịnh không có các h́nh tướng sai khác, c̣n về ":tướng sanh diệt" (Sanh diệt môn) th́ đủ các h́nh tướng sai khác".

CHÁNH VĂN

4. Chấp "Trong Như Lai tạng thật có đủ các pháp sanh tử nhiễm ô"._ Nghe trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô của thế gian, đều do Như Lai tạng mà có, tất cả các pháp đều không rời Chơn như", chúng phàm phu không hiểu nghĩa này, lại chấp: "Chính trong bản thể Như Lai tạng, saün có tất cả các pháp sanh tử nhiễm ô của thế gian".

Để đối trị cái chấp sai lầm này, nên giải thích rằng: "Từ vô thỉ tới giờ, trong Như Lai tạng, chỉ có các công đức thanh tịnh, nhiều hơn số cát sông Hằng. Các công đức này không ĺa, không đoạn và cũng không khác với Chơn như; c̣n hằng hà sa số các pháp phiền năo nhiễm ô kia, chỉ là hư vọng, vốn không có thật tánh. Bởi thế nên từ hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng chưa từng thật có các pháp nhiễm ô. Nếu trong bản thể Như Lai tạng (chơn) thật có các phiền năo nhiễm ô, rồi hành giả phải diệt trừ các phiền năo nhiễm ô, mới chứng được chơn như thanh tịnh, th́ rất vô lư.

LƯỢC GIẢI

Chúng phàm phu nghe trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô đều do Như Lai tạng mà có, các pháp không rời chơn như ": rồi họ chấp "Trong Như Lai tạng hay chơn như, thật có saün các pháp sanh tử nhiễm ô".

Để phá quan niệm sai lầm này, nên Ngài Mă Minh Bồ Tát giải thích rằng: "Từ hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng (chơn) chỉ có hằng hà sa số đức tánh thanh tịnh, các đức tánh này không rời chơn như; c̣n pháp sanh tử nhiễm ô, v́ là hư vọng, không có thật thể, nên từ hồi nào đến giờ, không có ở trong Như Lai tạng".

Như Lai tạng hay chơn như, dụ như "tâm người đương thức tỉnh": sanh tử nhiễm ô, dụ như "giấc ngủ mà có chiêm bao". Đành rằng "cái nhủ chiêm bao" là nương nơi "tâm người thức tỉnh" mà có; song từ hồi nào đến giờ, trong "tâm người thức tỉnh" không bao giờ thật có chứa saün "cái ngủ chiêm bao". Bởi "cái ngủ chiêm bao" hư vọng không thật, nên khi thức giấc rồi th́ nó tự mất. Cũng thế, các pháp sanh tử nhiễm ô, v́ hư vọng không thật, nên khi giác ngộ rồi, nó không c̣n.

Nếu quan niệm rằng: "trong Như Lai tạng thật saün có các phiền năo nhiễm ô; hành giả phải diệt trừ hết các phiền năo nhiễm ô, mới chứng được chơn như thanh tịnh", th́ không phải. Cũng như nói " trong tâm người thức tỉnh, thật saün có "cái ngủ chiêm bao" phải diệt trừ hết "cái ngủ chiêm bao" rồi, mới được thức tỉnh": nói như thế rất là phi lư.

Phải biết, các phiền năo sanh tử, chỉ là cái mê vọng, không có thật thể. Phật đă dạy rằng: "Biết ḿnh mê th́ cái "mê" hết, cái "biết" đó không sanh mê trở lại" (Giác mê mê diệt, giác bất sanh mê). Cũng như người khi biết ḿnh dại, th́ không c̣n dại nữa. Lúc bấy giờ họ trở thành khôn; khi khôn rồi, th́ cái "khôn" đó không sanh cái dại trở lại nữa.

Nếu cái "dại" (mê) này thật có, th́ khi biết khôn (giác) rồi, cái "dại" đó trốn núp ở đâu? Cũng như "cái ngủ chiêm bao" nếu thật có, th́ khi tỉnh thức rồi nó phải c̣n. Nhưng v́ nó không c̣n, nên biết "cái ngủ chiêm bao" (mê dại) này không thật có.

Nếu nói "phải diệt trừ hết các pháp sanh tử nhiễm ô mới chứng được chơn như thanh tịnh" th́ cũng như nói "phải phá trừ cho hết "cái ngủ chiêm bao" rồi, mới được sự thức tỉnh"; nói như thế, đều phi lư.

Bởi thế nên từ hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng hay Chơn như, không bao giờ thật có sanh tử nhiễm ô; cũng như trong "tâm người thức tỉnh", không bao giờ thật có "cái mê ngủ chiêm bao" vậy.

CHÁNH VĂN

5. Chấp "Chúng sanh có thỉ, chư Phật có chung tận"._ Chúng phàm phu nghe trong kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do Như Lai tạng mà đặng Niết bàn". V́ họ không hiểu nên chấp: "Chúng sanh hữu thỉ (có đầu tiên) và chư Phật chứng Niết bàn, sẽ có ngày chng tận, rồi trở lại làm chúng sanh".

Để đối trị cái chấp sai lầm này, nên giải thích rằng: Như Lai tạng (Chơn như tại triền) và vô minh đều có từ vô thỉ (không có đầu tiên). Nếu nói chúng sanh (có sanh khởi đầu tiên) là kinh của ngoại đạo nói (kinh Đại hữu), không phải kinh Phật.

Lại nữa, Như Lai tạng không có chung tận: chư Phật chứng Niết bàn là thể nhập (tương ưng) Như Lai tạng, nên cũng không có chung tận.

LƯỢC GIẢI

Chúng sanh nghe trong kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do Như Lai tạng mà chứng Niết bàn"; rồi họ suy luận và chấp rằng: v́ do Như Lai tạng mà có sanh tử (Vô minh, chúng sanh); như thế th́ chúng sanh (sanh tử, vô minh) tất phải có sự bắt đầu sanh khởi; (hữu thỉ) và do Như Lai tạng mà chứng Niết bàn, vậy th́ Niết bàn cũng có sự bắt đầu sanh khởi (hữu thỉ). Do đó người ta kết luận: Chúng sanh đă hữu thỉ nên cũng hữu chung, Niết bàn hữu thỉ nê cũng hữu chung. Bởi thế nên họ chấp chư Phật chứng Niết bàn rồi, có ngày cũng cùng tận, phải trở lại làm chúng sanh.

Để đối trị với chấp sai lầm này, nên Ngài Mă Minh giải thích, đại ư nói "Chơn như và vô minh đồng thời có từ vô thỉ". Cũng như chất ngọt và chất chát đồng thời có trong trái hồng. Song hành giả khi chuyển phiền năo trở lại Bồ Đề, chuyển sanh tử trở lại Niết bàn, th́ lúc bấy giờ chúng sanh không c̣n (chung tận), mà chỉ c̣n Chơn như hay Phật. Cũng như khi trái hồng lớn chín, đổi hết chất chát chỉ c̣n chất ngọt. Khi trái hồng đă chín ngọt rồi, th́ không bao giờ trở lại chát nữa. Cũng như khi đă thành Phật rồi, không bao giờ trở lại làm chúng sanh nữa.

Vậy nên biết, vô minh (chúng sanh) vô thỉ mà hữu chung; Chơn như (Phật) vô thỉ và vô chung.

Kinh Phật th́ chép "Chúng sanh vô thỉ"; c̣n kinh Đại hữu của ngoại đạo lại chép "Chúng sanh hữu thỉ".

CHÁNH VĂN

II. CHẤP PHÁP (chấp thật có vũ trụ vạn hữu).

Đối với hàng Nhị thừa, v́ độn căn chấp ngă, nên trong kinh Phật nói: "Chỉ có năm ấm sanh diệt, không có thật ngă". Nghe như thế, hạng này trở lại chấp: "Thật có năm ấm sanh diệt" (chấp thật pháp), nên họ rất sợ khổ sanh tử và cầu vui Niết bàn.

Để đối trị cái chấp sai lầm này, nên phải giải thích rằng: "Tánh của năm ấm, từ hồi nào đến giờ, vốn là Niết bàn, không sanh và cũng không diệt".

LƯỢC GIẢI

Năm ấm thật sắc, thọ, tưởng, hành và thức. V́ năm đám mây này che khuất vừng trăng chơn như, nên gọi là "Ấm" (che).

Để phá trừ chấp ngă của hàng Nhị thừa độn căn, nên Phật nói: "chỉ có năm ấm sanh diệt, không có thậ ngă". Lúc bấy giờ hạng nàykhông c̣n chấp ngă, mà trở lại chấp pháp; nghĩa là chấp thật có năm ấm, thật có khổ sanh tử và vui Niết bàn. Do đó, họ rất sợ sanh tử và thích thú vui ở măi mơi cảnh Niết bàn.

Để phá trừ cái chấp thật Pháp của Nhị thừa, nên Ngài Mă Minh Bồ Tát giải thích, đại ư nói: "Tướng của các pháp không thật, tánh nó là chơn như, là Niết bàn, xưa nay không sanh, nên cũng không diệt". V́ các pháp không thật có, nên Bồ Tát không sợ sanh tử và không yên vui ở măi nơi Niết bàn".

Nếu nói một cách đầy đủ, th́ phải nói "vô ngă và vô pháp". Nhưng đây v́ đối với hành Nhị thừa, nên Phật chỉ mới nói "năm ấm vô thường", chớ chưa nói đến "sanh tử tức chơn thường".

CHÁNH VĂN

Lại nữa, nếu người rốt ráo xa ĺa các vọng chấp, th́ mới biết rơ các pháp Nhiễm tịnh đều do đối đăi nhau mà thôi, thật ra không có cái tướng ǵ có thể kêu gọi được. Bởi thế nên, từ hồi nào đến giờ, tất cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không phải trí, không phải thức, không phải hữu, không phải vô, rốt ráo không có tướng ǵ có thể gọi được. Song, sở dĩ Phật có nói năng kêu gọi như thế này hoặc như thế kia, là v́ đức Như Lai khôn khéo, phương tiện tạm dùng lời nói để dẫn dắt chúng sanh, mục đích là làm cho chúng sanh xa ĺa các vọng niệm (ly niệm) trở vể chơn như; nếu c̣n vọng niệm th́ tâm phải sanh diệt, nên chẳng nhập được trí Phật (thật trí: chơn như)

LƯỢC GIẢI

Từ hồi nào đến giờ, tất cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không phải trí, không phải thức v.v...chỉ v́ chúng sanh vọng chấp phân biệt, so sánh (biến kế chấp) đối đăi với nhau mà thành thế này hoặc thế kia, như đối với hữu gọi là vô, đối với sắc gọi là tâm, đối với thức gọi là trí, đối với cao gọi là thấp, đối với lớn gọi là nhỏ, đối với tốt gọi là xấu v.v...Nếu chúng sanh rốt ráo xa ĺa các vọng chấp th́ thật không có một pháp ǵ có thể kêu gọi được. Lúc bấy giờ hành giả mới thấy rơ các pháp không thể kêu gọi (ly danh tự tướng), không thể nói năng luận bàn (ly ngôn thuyết tướng), hay suy nghĩ được (ly tâm duyên tướng).

Chư Phật đă hoàn toàn xa ĺa các vọng chấp, song c̣n gọi pháp khổ, pháp vui, nhiễm tịnh, sanh tử, Niết bàn v.v...là v́ Phật phương tiện tạm đặt ra những danh từ kêu gọi như thế, mục đích là để dẫn dắt chúng sanh ĺa các vọng niệm chấp trước, đặng nhập vào chơn như hay trí Phật. Khi chúng sanh đă nhập vào chơn như hay trí Phật rồi, lúc bấy giờ cũng không c̣n danh từ ǵ để kêu gọi được.

Bài này nói về phần đối trị các chấp sai lầm rồi, đến bài thứ 13, sẽ nói về hành tướng phát tâm đến đạo.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Phần 14][Phần 15][Phần 16][Phần 17][Phần 18][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]