[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Phần 14][Phần 15][Phần 16][Phần 17][Phần 18][Mục Lục]


KHOÁ X

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI

Bài Thứ 6

 

Nói về nghĩa "Bất giác" (tiếp theo)
d. Nói về "ư tương tục" có 5 thứ:
1. Nghiệp thức (nghiệp tướng)
2. Chuyển thức (chuyển tướng)
3. Hiện thức (hiện tướng)
4. Trí thức (trí tướng)
5. Tương tục thức (tương tục tướng)
e. Nói về "ư thức"
Cảnh giới này duy có Phật mới biết được rốt ráo.

CHƯƠNG THỨ BA: PHẦN GIẢI THÍCH NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC"

 

d. NÓI VỀ "Ư" TƯƠNG TỤC, có 5 thứ

CHÁNH VĂN

Trên đă nói "Tâm sanh diệt", (thức A lại da) tiếp theo đây sẽ nói "cái "Ư" làm nhơn duyên sanh diệt".

Tất cả chúng sanh đều từ nơi tâm (A lại da) mà sanh ra mư (Mạt ma) và ư thức (thức thứ 6). Nghĩa là do thức A lại da có vô minh bất giác (nghiệp tướng) nên sanh ra Năng kiến (chuyển tướng) và Năng hiện (hiện tướng) rồi tiếp tục sanh ra các niệm (lục thô), chấp lấy cảnh giới v.v...gọi là "Ư".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về sự quan trọng của "ư". Trong các nơi khác, khi nói đến "ư" th́ thường dùng để chỉ riêng cho thức Mạt na, là thức sanh diệt tương tục thắng hơn các thức. Nhưng chữ "ư" ở luận này là chỉ chung cho cả 8 thức; v́ cả 8 thức đều có nghĩa "sanh diệt tương tục".

Thức A lại da là gốc của sanh diệt, thức Mạt na làm nhơn duyên cho sự sanh diệt tương tục; c̣n ư thức th́ khởi hoặc tạo nghiệp, làm cho chúng sanh nhiều kiếp sanh tử không dứt.

CÁI "Ư" CÓ 5 THỨ

CHÁNH VĂN

Cái "Ư" này lại có 5 thứ: Nghiệp thức (nghiệp tướng), Chuyển thức (chuyển tướng), Hiện thức (hiện tướng), Trí thức (trí tướng) và Tươmng tục thức (tương tục tướng).

a. "Nghiệp thức" là sự vô minh bất giác làm cho tâm vọng động (tức là Tự chứng phần của thức A lại da)

b. "Chuyển thức" là phần Năng phân biệt (Kiến phần của thức A lại da) do tâm vọng động chuyển sanh ra.

c. "Hiện thức" là sự hiện bày của cảnh giới ngũ trần bị phân biệt (Tướng phần của thức A lại da). Cảnh giới này không có trước sau, trong tất cả thời, mặc t́nh sanh khởi, thường hiện ở trước.

(3 thứcx này thuộc về Tam Tế)

d. "Trí thức" là cái biết phân biệt các pháp nhiễm tịnh.

e. "Tương tục thức" là niệm niệm sanh diệt tương tục không gián đoạn.

(2 thức này thuộc về 2 món. Thô trước, trong 6 món Thô)

năm thứ "ư" này, giữ ǵn tất cả nghiệp lành dữ, từ quá khứ vô lượng kiếp về trước, cho đến ngày nay cũng không mất (tŕ chủng). Nó lại có công năng làm cho thành thục tất cả quả báo khổ vui về hiện tại cũng như tương lai, không sai mất (chấp thủ căn thân, thế giới và kiết sanh tương tục). Và nó công năng nhớ việc đă qua, nghĩ những việc hiện tại và suy tính những việc chưa đến (vị lai).

Bởi thế nên ba cơi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) đều hư ngụy, duy tâm tạo ra. Nếu rời tâm th́ không có cảnh giới sáu trần này (ba cơi).

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về nghĩa chử "ư", là chỉ cho một ḍng sanh diệt tương tục không gián đoạn. Từ vô minh vọng động, sanh ra 3 món Tế, là Nghiệp tướng (nghiệp thức), Chuyển tướng (chuyển thức), Hiện tướng (hiện thức) và hai món Thô là Trí tướng (trí thức) và Tương tục tướng (tương tục thức).

Năm cái "ư" này có công năng giữ ǵn thiện ác, quả báo khổ vui hiện tại và vị lai, làm cho không mất (đó là công năng tŕ chủng chấp thọ thân căn thế giới và kiết sanh tương tục của thức A đà na); nhớ nghĩ những việc đă qua và lo tính những điều chưa đến (đó là công năng của thức thứ 6), và một ḍng sanh diệt, tiếp tục từ trước đến sau không gián đoạn, gọi đó là "ư". Bởi thế nên chữ "ư" này là chỉ chung cho cả 8 thức.

Tóm lại, từ vô minh vọng động, sanh ra thức A lại da. Từ thức A lại da lại tiếp tục sanh ra 7 thức trước; rồi cùng nhau làm nhơn làm duyên, lại thành ra một ḍng sóng thức, sanh diệt tương tục vô tận, gọi đó là "ư". Cũng v́ rơ nghĩa này, nên Cổ nhơn làm bài thơ có câu rằng: "...Nhứt ba tài động vạn ba tuỳ ..." (một lượng sóng vừa nổi lên, th́ trăm ngàn lượng sóng đều nổi theo).

Nào ba cơi, nào 6 trần đều từ 8 thức này biến hiện. Bởi thế nên các pháp đều hư dối, duy tâm tạo ra; nếu rời 8 thức, th́ các cảnh giới đều không c̣n.

CHÁNH VĂN

Nghĩa này thế nào?_ Do tất cả pháp đều từ vọng tâm của chúng sanh mà sanh khởi, nên tất cả sự phân biệt tức là phân biệt trong tự tâm. Nhưng tâm không có h́nh tướng ǵ cả, nên không thể thấy được nó. Phải biết, tất cả cảnh giới ở thế gian, đều do vô minh vọng tâm của chúng sanh mà được tồn tại, nên tất cả các pháp, đều khônhg có thật thể, mà chỉ vọng tâm huyễn hiện, như bóng trong gương.

Nếu vọng tâm sanh khởi, th́ các pháp đều sanh khởi; vọng tâm diệt th́ các pháp đều diệt (Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp diệt).

LƯỢC GIẢI

Tất cả các pháp đều do tâm của chúng sanh sanh ra, nên chúng snh phân biệt các pháp, tức là phân biệt ở nơi tự tâm. Kinh Lăng Nghiêm chép: "Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp" (tự tâm chúng sanh trở lại chấp lấy tự tâm chúng sanh; tâm không phải huyễn mà trở lại thành pháp hư huyễn).

Tất cả các pháp đều không thật có, chỉ nương nơi tâm mà tồn tại, như hoa trong gương, như trăng dưới nước. Nếu tâm động th́ các pháp sanh, tâm tịnh th́ các pháp diệt. Trong Khế kinh chép: "tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp diệt" là vậy. Tổ Qui Sơn nói: "Nhứt tâm không sanh th́ muôn pháp đều dứt" (Nhứt tâm bất sanh vạn pháp câu tức). Bởi thế nên đoạn trước nói "Người quán vô niệm (không vọng niệm) th́ hướng về trí Phật".

Đoạn này đă nói về "ư tương tục" rồi, tiếp theo dưới đây sẽ nói đến ư thức.

e. NÓI VỀ "Ư THỨC"

CHÁNH VĂN

Trên đă nói về "ư" rồi, tiếp theo đây nói về "ư thức". Ư thức tức là "thức tương tục". Bởi chúng phàm phu chấp trước rất nặng nề nơi Ngă và Ngă sở, nên khởi ra các món vọng chấp, leo chuyền theo sự vật, phân biệt cảnh giới sáu trần, gọi đó là "ư thức" (thức thứ sáu). Cũng gọi đó là "Phân ly thức", hay gọi "Phân biệt sự thức". Thức này nương nơi kiến (kiến hoặc) và ái (tư hoặc) phiền năo mà được nuôi lớn.

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về "ư thức".

So với 5 món "ư" nói trên, th́ ư thức này thuộc về món thứ năm là "Tương tục thức"; trong Lục thô nó thuộc về Thô thứ hai là "Tương tục Tướng"; trong 8 thức nó thuộc về thức thứ 6.

_ Bởi thức này, niệm niệm tương tục, chấp Ngă và Ngă sở, leo chuyền theo các trần cảnh, phân biệt các sự vật, vọng chấp đủ điều, nên gọi là "Thức tương tục".

_ Bởi thức này phân biệt 5 trần cảnh (Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc) mỗi cảnh riêng nhau, nên gọi là "Phân ly thức".

_ Bởi thức này phân biệt tất cả sự vật, nên cũng gọi là "phận biệt sự thức".

_ lại nữa, thức này nhờ 2 món phiền năo là "Kiến" và "Ái" mà được nuôi lớn, "kiến" tức là kiến hoặc, thuộc về phân biệt hoặc. "Ái" tức là Tư hoặc, thuộc về Cu sanh hoặc. Do hai món phiền năo này, nên ư thức mới khởi hoặc tạo nghiệp, quanh quẩn trong sanh tử luân hồi.

***

Trong "Môn sanh diệt" có 2phần, trên đă nói về phần thuận ḍng vô minh (lưu chuyển), sanh ra các pháp sanh tử tạp nhiễm; sau đây sẽ nói, chính nơi pháp tạp nhiễm lưu chuyển đó, để chỉ sự trở lại thanh tịnh (hoàn tịnh) tuỳ theo tŕnh độ của người, hoặc mau hay chậm không đồng.
 
 

CẢNH GIỚI NÀY DUY PHẬT MỚI BIẾT ĐƯỢC RỐT RÁO

CHÁNH VĂN

Do vô minh huân tập sanh ra thức. Cảnh giới này, chúng phàm phu không thể biết được; dù cho hàng Nhị thừa dùng trí huệ quán sát cũng không thể biết được; các vị Bồ Tát từ Sơ tín cho đến Tam hiền (Trụ Hạnh, Hướng) phát tâm quán sát, chỉ biết được chút ít; bực Thập địa Bồ Tát (Pháp thân Bồ Tát) cũng chỉ biết được từng phần; cho đến Đẳng giác Bồ Tát cũng không thể biết hết ; duy có Phật mới biết được rốt ráo.

Tại sao vậy?. _ V́ tâm này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh tịnh, không có vô minh; song bị vô minhnlàm nhiễm ô (bất biến tuỳ duyên), v́ thế nên rất khó biết. Bởi thế nên chỉ có Phật mới có thể biết được cảnh giới này.

Tóm lại, chơn tam (tâm tánh) v́ thướng không vọng niệm, nên gọi là "bất biến" (chơn như). Song chúng sanh v́ không ngộ nhập được chơn tâm (nhứt pháp giới) này, lại sanh vọng niệm nên gọi là "vô minh".

LƯỢC GIẢI

Người đang chiêm bao không bao giờ biết được chiêm bao; phải thức giấc rồi mới biết đó là cảnh chiêm bao; chúng sanh đang ở trong ṿng vô minh vọng thức, không thể biết được vô minh vọng thức; bao giờ giác ngộ hoàn toàn, mới biết được rốt ráo cảnh giới của vô minh vọng thức.

Do vô minh huân tập vào chơn như, nên chơn vọng hoà hiệp biến thành thức A lại da. Chúng phàm phu v́ đang ở trong ṿng thức biến, nên không bao giờ biết được cảnh giới thức biến. Hàng Nhị thừa tuy dùng trí huệ quán sát, phá được ngă chấp; nhưng mây pháp chấp hăy c̣n dày bịt và che lối chơn tâm, nên cũng không thể thấy được cảnh giới ấy. Các bực Bồ Tát ở vị Tam hiền, mới phá được đôi phần phân biệt pháp chấp; nên chỉ biết được chút ít về cảnh giới này. Đến bực Thập địa Bồ Tát , hễ phá được một phần vô minh, chứng được một phần pháp thân, th́ thấy được một phần của cảnh giới này, và cứ tuần tự như thế, cho đến khi nào phá được 10 phần vô minh, th́ chứng 10 phần pháp thân và biết được cả 10 phần của cảnh giới này. (Thập địa Bồ Tát, do phá vô minh, chứng được pháp thân, nên gọi là "Pháp thân Bồ Tát"). Bực Đẳng giác Bồ Tát, v́ c̣n vi tế vô minh, nên đối với cảnh giới này, biết cũng chưa tường tận. Đến quả vị Phật, do phá vô minh đă sạch hết, nên mới hoàn toàn biết được cảnh giới này; cũng như người đă hoàn toàn thức tĩnh, mới biết được rốt ráo cảnh mê mộng.

***

Trên đă nói nhơn duyên trở lại bản tâm thanh tịnh rồi, dưới đây sẽ lược nói đến địa vị nào, mới đoạn được hoặc ǵ, để trở lại bản tâm thanh tịnh.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Phần 14][Phần 15][Phần 16][Phần 17][Phần 18][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]