[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]


PHẬT HỌC PHỒ THÔNG KHÓA VI

TRIẾT LƯ ĐẠO PHẬT HAY LÀ ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM

BÀI THỨ BA

 

I.-  Anan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ hai

II.- Phật gạn hỏi lại tâm lần thứ hai.

III.- Anan chấp cái "Suy nghĩ phân biệt " làm tâm.

IV.- anan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành, lần thứ ba.

V.- Phật chỉ tâm lần thứ nhứt.

VI.- Phật chỉ cái thấy làm tâm, không phải con mắt.

VII.- Phật chỉ tâm lần thứ hai

VIII.- Anan cầu Phật chỉ dạy ở nơi thân này cái nào "chơn" và cái nào "vọng"

IX.- Vua Ba Tư nặc đứng dậy hỏi Phật .

X.- Phật chỉ tâm lần thứ ba 

XI.- Phật chỉ "cái thấy" không sanh diệt

I.- ANAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ HAI.[^]

Ông anan đă bảy lần chỉ tâm đều không trúng, v́ ông chấp vọng tưởng là tâm, nên bị Phật bác cả, lần thứ hai ông đứng dậy chắp tay kính lạy, cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để thoát ly sanh tử luân hồi.

Anan thưa rằng: -Bạch Thế Tôn ! Con là em Phật, tuy đă xuất gia, mà vẫn c̣n ỷ lại ḷng thương yêu của Phật chỉ lo học rộng nghe nhiều, không chuyên tu niệm, nên không chứng được đạo quả, chẳng hàng phục nổi tà chú của ngoại dạo Ta-Tỳ-Ca-La; trái lại, c̣n bị Ma Đăng già bắt vào pḥng dâm...phải nhờ Phật cứu độ. Vậy cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phá trừ ác chiến và chứng thành đạo quả.

Thưa thỉnh xong, Anan và đại chúng kính cẩn và trông chờ lời Phật chỉ dạy.

II.- PHẬT GẠN HỎI TÂN LẦN THỨ HAI.[^]

Lúc bấy giờ Phật gạn hỏi lại cái "tâm" lần thứ hai, và bảo ông Anan phải phân biệt rành rơ cái nào là chơn tâm, và cái nào là vọng tâm. 

Phật dạy: Ông nay muốn đặng đạo vô thượng Bồ đề, th́ điều cận nhứt là phải hiểu rơ hai món căn bản: 

Nếu ông nhận lầm căn bản của sanh tử (vọng tâm) làm nhơn tu hành, th́ không bao giờ giải thoát được. Cũng như người nhận giặc làm con, th́ chỉ thêm bị phá hoại gia sản của ḿnh mà thôi. Và cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải bao nhiêu năm cũng chẳng thành coam được.

Vậy nay ông muốn biết đường lối tu hành để ra khỏi sanh tử luân hồi, th́ ông hăy nghe tôi hỏi đây:

Phật liền đưa bàn tay, coi lại năm ngónvà hỏi ông Anan rằng: Ông có thấy không?

A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, thấy.

Phật hỏi: -Ông thấy cái ǵ?

Anan đáp: Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại.

Phật hỏi: Ông lấy cái ǵ để thấy và lấy cái ǵ làm tâm?

III.- ANAN CHẤP CÁI "SUY NGHĨ PHÂN BIỆT" LÀM TÂM[^]

Anan thưa: con lấy "mắt" để thấy và cái "biết suy nghĩ phân biệt" làm tâm .

Phật quở: Dốt lắm, Anan ! cái đó không phải là tâm của ông.

LƯỢC GIẢI

Chúng ta nên lưa ư: Thông thường ai cũng đều có cái"suy nghĩ phân biệt" là tâm của ḿnh, mà Phật lại nói "không phải tâm". Vậy chúng ta cần phải chính chắn suy xét chổ đó.

* * *

Anan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật: Bạch Thế Tôn, cái "suy nghĩ, phân biệt" này, nếu không phải là tâm của con th́ gọi nó là cái ǵ?

Phật dạy: nó là "vọng tưởng" (vọng tâm) . bởi các ông từ hồi nào đến giờ, lâmg nhận "vọng tưởng" làm "chơn tâm", cho nên nhiều kiếp trầm luân. Như người nhận giặc làm con, nên bị giặc phá hại.

Anan thưa: Bạch Thế Tôn, con v́ thương Phật nên mới xuất gia, th́ cn mới dùng cái tâm này mà thương Phật. Con phụng thờ các đức Phật trong mười phương và làm tất cả các điều công đức, cũng dùng cái tâm này. Dầu cho con có làm các điều tội lỗi, hủy báng Phật pháp, đọa vào đại ngục đi nữa, th́ con cũng dùng cái tâm này. Ngày hôm nay Phật nói "nó" không phải tâm của con, như thế thành như con không có tâm; nếu không có tâm, th́ con đồng như cây, đá rồi ! Cúi xin đức Thế tôn từ bi chỉ giáo.

Phật dạy rằng: này Anan nếu ông chấp cái "suy nghĩ, phân biệt" là tâm của ông, th́ khi rời cảnh vật hiện tiền, cái tâm "hiểu biết, phân biệt" ấy, cũng vẫn c̣n, thế mới phải là tâm của ông. Nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà tâm hiểu biết phân biệt ấy mất đi, th́ không phải là chơn tâm của ông rồi.

Dầu cho ông diệt hết năm tri giác bên ngoài là thấy, nghe, hay, biết (năm giác quan), chỉ c̣n lưu lại cái "thầm thầm phân biệt" bên trong (thức thứ sáu) th́ đó cũng là cái vọng tưởng phân biệt (ư thức thứ sáu) bóng dáng pháp trần không phải là chơn tâm của ông.

Này A-nan, tôi không bắt buộc ông phải chấp cái "suy nghĩ phân biệt" đó là không phải tâm của ông; tôi chỉ bảo ông nên chính chắn suy xét: nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà cái "suy nghĩ phân biệt" này vẫn c̣n, th́ mới phải thật là chơn tâm của ông.

C̣n nếu rời khỏi cảnh vật hiện tiền, mà phải "suy nghĩ phân biệt" này cũng mất luôn đi, th́ rơ ràng nó là cái "vọng tưởng phân biệt " (vọng tâm) bóng dáng của sáu trần, chớ không phải là "chân tâm thường trụ" của ông vậy. 

Nếu ông nhận cái "hư vọng phân biệt sanh diệt" ( vọng tưởng) nay làm tâm của ông, th́ khi cảnh vật hiện tiền qua rồi, tâm ấy cũng theo cảnh vật mà diệt đi. Lúc bấy thành ra ông không có tâm rồi. Nếu không có tâm, th́ ông lấy cái ǵ để tu hành, và thành đạo chứng quả.

Ông phải biết rằng: trong thế gian tất cả người tu hành, không được thành đạo, đều do chấp lầm cái "vọng tưởng sanh diệt" (vọng tâm) này làm chân thật (chơn tâm).

Chính ông ngày nay cũng thế, nên tuy học nhiều mà không được quả Thánh.

IV.- A-NAN CẦU PHẬT CHÆ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ BA.[^]

Anan cùng Đại chúng, nghe Phật nói như vậy, đều ngẫn ngơ và im lặng.

Lúc bấy giờ ông A-nan cúi đầu lạy Phật, quỳ gối chắp tay vừa khóc lóc, vừa bạch Phật rằng: Con từ khi xuất gia theo Phật đến nay, v́ ỷ lại là em của Phật, tin chắc sẽ nhờ oai thần Phật ban cho đạo quả, chẳng cần tu tánh cực nhọc; không ngờ ai tu lấy chứng, không thể thay thế cho nhau được.

Hôn nay con mất "bản tâm" đi rồi thân tuy xuất gia mà tâm chẳng vào đạo, chẳng khác nào đứa cùng sanh tử bỏ cha trốn đi.

Nay con mới biết học nhiều mà không tu cũng như người không học mà cũng như người nói đến đủ các thức ăn, rốt cuộc trong bụng vẫn đói.

Bạch Thế Tôn, chúng con v́ hai chứng phiền năo và sở tri ràng buộc, nên không ngộ được chơn tâm. Cúi in đức Thế Tôn thương xót kẻ bần cùng, chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phát minh được tâm tánh.

V.- PHẬT CHÆ CÁI "THẤY" THƯỜNG C̉N[^]

Khi ấy Phật kêu Anan , dạy rằng: -Vừa rồi ông nói "thấy năm ngón tay của ta con mắt nắm lại". Vậy th́ sao có nắm tay? Và nhờ cái ǵ mà có cái thấy?

A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn, nhơn bàn tay của Phật co lại năm ngón, nên mới có nắm tay, và nhờ con mắt cho nên mới có cái thấy.

Phật hỏi: Vậy th́ "không bàn tay chẳng có ngón tay, cũng như không con mắt thời chẳng có cái thấy "; so sánh như thế có đúng không?

A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng.

Phật dạy: Không đúng hẳn! Không bàn tay th́ không có nắm tay th́ phải, không con mắt chẳng phải cái "thấy" không có. 

Ông nên ra ngoài đường hỏi những người mù mắt: "các người có thấy ǵ không?", th́ họ đều trả lời với ông rằng: "Chỉ thấy tối đen". Như thế th́ rơ ràng: Người mù không có con mắt, mà cái "thấy" cũng vẫn c̣n. 

Đây là cái bằng chứng: Mặc dù con mắt không có, và trần cảnh đối trước có tối và sáng khác nhau, nhưng cái thấy lúc nào cũng có (nói cái thấy là đại diện cho năm giác quan).

A-nan thư: Người mù thấy tối, th́ sao gọi là thấy được? 

VI.- PHẬT CHÆ TÂM LẦN THỨ NHỨT[^]

Phật hỏi A-nan: Người sáng mắt ở trong nhà tối thấy tối, cùng với người mù mắt thấy tối, vậy hai cái tối đó có khác nhau không? 

A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn ! không khác.

Phật hỏi: Nữa trong nhà tối thấy tối, nếu có người đem đèn vào, họ thấy được các vật, vậy cái đèn thấy hay con mắt thấy?

A-nan thưa: Mát thấy chớ không phải đèn thấy.

Phật dạy: Cũng thế, người mù mắt khi lột mây rồi, thấy được cái cảnh vật, đó là tâm thấy chớ không phải mắt thấy. 

Phật dạy tiếp: -Cái đèn chỉ làm cho sáng các vật, c̣n cái thấy là con mắt (dụ cho tâm) chớ không phải đèn ( dụ con mắt ). Lên một tầng nữa: con mắt chỉ làm cho tỏ rơ các vật, c̣n cái thấy là tâm, chớ không phải con mắt (đây là lần thứ nhứt Phật chỉ tâm ).

A-nan và đại chúng nghe Phật giảng dạy như thế rồi, đều im lặng, nhưng trong tâm thật chưa hiểu, nên đều kính cẩn chắp tay, để chờ Phật chỉ dạy thêm.

LƯỢC GIẢI

Trong đoạn này, xin nói thêm tỷ dụ này cho dể hiểu:Con mắt của người cũng như bóng đền điện, c̣n cái "thấy" của người cũng như điện. Khi dây đứt ( dụ dây thần kinh đứt ) bóng hư ( dụ mắt mù ) th́ đèn không cháy, chớ không phải điện mất (không cái thấy ). Đến khi thay bóng mớinối dây lại, th́ điện cháy trở lạ: không phải do bóng hay do dây mới có điện.

Cái "thấy?? của người cũng thế: khi mắt bị mây che th́ chỉ thấy tối, chớ không phải cái "thấy" mất, đến khi lột mây rồi, th́ cái "thấy" hiện ra, không phải do con mắt mới có cái thấy. Đoạn này Phật chỉ rơ cái "thấy" là tâm.

* * *

VII.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ HAI[^]

Khi đó Phật đưa bàn tay lên, năm ngón co lại rồi mở ra và hỏi ông A nan:-Ông có thấy cái ǵ không?

A -nan thưa:-Thấy Phật đưa tay lên co vào rồi mở ra.

Phật hỏi: Tự cái tay của ta co mở, hay "cái thấy" của ông co mở?

A-Nan thưa:- Tự tay Phật co mở, chứ "cái thấy" của con không co mở.

Phật khen: Phải lắm.

Phật lại phóng một đạo hào quang trên vai phía mặt của A nan: A-Nan liền xoay đầu ngó về phía bên mặt. Phật lại phóng hào quang trên vai phía trái của A-Nan; A-Nan xoay đầu ngó qua phía trái.

Phật hỏi: Cái đầu của ông hôm nay tại sao xoay qua lắc lại như vậy?

A-Nan thưa: v́ Phật phóng hào quang trên hai vai của con, nên con xoay qua lắc lại để xem.

Phật hỏi: Vậy cái đầu của ông lắc, hay cái thấy của ông lắc?

A-Nan thưa: tự cái đầu con xoay qua lắc lại, chớ cái thấy của con không có xoay lắc.

Phật hỏi: -Cái nào động, cái nào tịnh?

A-Nan thưa:- Cái đầu của con có động và tịnh (dừng) chứ cái thấy của con không có động và tịnh.

Phật nói: Phải

Phật dạy tiếp:- Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, th́ cái đó là vọng, thuộc về "khách" không phải ông. C̣n cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, th́ cái đó là "chơn", thuộc về "chủ" chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rơ ràng, ông c̣n chưa hiểu hay sao!

Tại sao từ hồi nào đến giờ, các ông cứ nhận cái vọng-thân tứ đại giả hợp này, cho là thật "thân" của ḿnh; cái vọng trưởng sanh-diệt này, cho là thật "tâm" của ḿnh; cảnh vật giả tạm, cho là thật "cảnh" cảnh của ḿnh, mà lại bỏ cái chơn tâm thường c̣n bất sanh bất diệt của ḿnh saün có kia đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều kiếp sanh tử luân hồi, thật là rất oan uổng!

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật chỉ cái "thấy" không co mở, và không sanh, diêt, động, tịnh, đó là chơn tâm lưu lộ.

* * *

VIII.-A NAN CẦU PHẬT CHÆ DẠY Ở NƠI THÂN NÀY CÁI NÀO "CHƠN", CÁI NÀO "VỌNG".[^]

Khi ấy A-Nan và đại chúng được nghe Phật tạm chỉ "cái thấy không động tịnh co mở là Tâm", nên tất cả đều hớn hở vui mừng, và nghĩ rằng: Từ vô thỉ đến nay, tự ḿnh làm mất bản tâm, nhận cái vọng tưởng phân biệt theo bóng dáng của trần cảnh làm tâm, ngày hôm nay mới ngộ được Tâm ḿnh, nên hết sức vui mừng. Cũng như đứa con nhỏ khát sữa đă lâu, nay được gặp bà tf mẫu, nên ông và đại chúng cầu Phật chỉ rơ ở nơi thân thân tâm hiện tiền đây, cái ṇ chơn thật không sanh diệt và cái nào hư vọng có sanh diệt.

IX.-VUA BA TƯ NẶC ĐỨNG DẬY HỎI TIẾP[^]

Khi ấy vua Ba-tư nặc đứng dậy thưa Phật:-Bạch Thế Tôn, lúc trước chưa thọ giáo với Phật , con nghe phái ngoại- đạo Ca chiên diên và Tỳ la chi tử đều nói:"Thân này sau khi chết rồi mất hẳn, gọi là Niết bàn".

Hôm nay con tuy được Phật chỉ dạy, nhưng vẫn c̣n hồ nghi: làm sao biết rơvà chứng chắccái tâm này không sanh diệt. Xin Phật từ bi chỉ dạy cho chúng con.

X.-PHẬT CHÆ TÂM LẦN THỨ BA[^]

Phật hỏi:-Đại vương! Cái thân của ông hiện tại đây, nó bền chắc như ngọc kim cương, c̣n măi không hư họai, hay là phải hoại diệt?

Vua đáp:- Bạch thế tôn, thân con ngày nay đây, rốt cuộc rồi cũng bị hoại diệt.

Phật hỏi:-Ông chưa chết, làm sao biết nó sẽ bị họai diệt?

Vua đáp:- Bạch thế tôn, cái thân vô thường của con đây, tuy chưa chết, nhưng hiện tiền nó đă tàn tạ dần ! ngày qua, rồi lại ngày qua! Mỗi niệm qua, qua từ sát na (tíc- tắc ) không dừng!...cũng như củi đót thành tro, cháy dần cho đến lúc tiêu tan! V́ thế nên con biết, thân này nhứt định sẽ tiêu diệt.

Phật nói:- phải!

Phật lại hỏi:-Đại vương! Thân thể ông đau phảitiêu diệt liền bây giờ?

Vua đáp:- bạch thế tôn, ngày qua tháng lại, hết hạ đến đông, nó thầm già chết, cho đến ngày nay, đầu bạc răng rụng, chan lỏng gối dùn, mắt mờ tai lảng, già nua đến thế này, mà con thật không hay không biết!

Bạch thế tôn, khi con hai mươi tuổi, tuy nói rằng tuổi trẻ, thật ra nhan sắc đă già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại già hơn khi hai mươi tuổi. Cho đến ngày nay, sáu mươi hai tuổi, lại già hơn khi năm mươi tuổi.

Nó âm thầm già chết, lấy trong khỏang thời gian mười năm mà nói như vậy. Nếu chín chắn suy nghĩ, th́ cái già, chết này, không phải hạn định trong khỏang mười năm hay hai mươi năm, mà thật ra, mà nó già từng năm, từng tháng, từng ngày. Nếu suy nghĩ kỷ hơn nữa, th́ nó ǵa, chết từng phút, từng giây và từng sát na ( tíc tắc )! Năm nay già hơn năm rồi, tháng này già hơn tháng trước, ngày hôm nay già hơn ngày hôm qua, giờ này già hơn giờ trước. Phút này già hơn phút trước, cho đến sát na này cũng già hơn sát na trước. Thế nên con biết, thân này rốt cuộc rồi cũng tiêu diệt.

LƯỢC GIẢI

Cũng như cái đồng hồ, v́ có chạy từng giây, cho nên mới qua từng phút. Bởi có đi từng phút, nên mới chỉ đến từng giờ, và ngày v.v...thân này già chết cũng thế.

* * *

Phật hỏi:-Đai vương ! Ông thấy cái thân thể của ông âm thầm già chết như thế, nên ông lo buồn; vậy ở nơi thân thể sánh diệt, già chết này, ông có biết được cái ǵ chẳng sanh diệt già chết không?

Vua Ba Tư Nặc chắp tay cung kính thưa:-Bạch thế tôn, con thật không biết?
 
 

XI.-PHẬT CHÆ CÁI "THẤY" KHÔNG SANH DIỆT[^]

Phật dạy rằng: -tôi nay chỉ cho ông thấy cái không sanh diệt.

Này đại vương, khi ôngmấy tuổi mới thấy được nước sông hằng?

Vua đáp:- khi lên ba tuổi, con được mẹ bồng đến yết kiến thành tỳ bà thiên ( thành trường thọ ) đi ngang qua sông này , nên lúc bấy giờ , con đă thấy được sông hằng.

Phật hỏi:-hôm nay ông thấy sông hằng, vậy cái "thấy" đó là khác không?

Vua thưa:- khi con ba tuổi thấy sông hằng, đến lúc ba mươi tuổi và nay được sáu mươi hai tuổi thấy sông hằng cũng đều không khác.

Phật dạy:ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc mặt nhăn, không được như lúc c̣n trẻ. Vậy nay sáu mươi hai tuổi ,ông xem thấy sông hằng, cùng với khi c̣n trẻ thấy sông Hằng, cái"thấy"đó có già trẻ chi không?

Vua Ba tư nặc thưa: bạch thế tôn , cái "thấy" không có già trẻ.

Phật dạy, này Đại vương thân thể mặt mày ông tuy già, vậy cái nào có già, th́ cái ấy sẽ bị biến đổi ,tiêu diệt; c̣n cái nào không già, th́ cái đơ không bọ biến đổi tiêu diệt. Nó đă không sanh diệt, th́ đâu có bị ông làm cho nó sanh tử luân hồi được . rơ ràng như thế, ông không hiểu sao mà c̣ndẫn lời của ngoại đạo Mạt -già -Lê nói: thân này chết rồi ḥan ṭan diệt mất?

Vua cùng đai chúng nghe Phật dạy rồi, đều biết rằng:người chết rồi, là tâm bỏ thân này thọ thân khác, không phải mất hẳn. Ai nấy đều hớn hở vui mừng v́ đặng lợi ích chưa từng có.

LƯỢC GIẢI

Đọan này Phật chỉ thấy không già trẻ, sanh diệt đó là Tâm


[Phần tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]