[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]


PHẬT HỌC PHỒ THÔNG KHÓA VI

 

TRIẾT LƯ ĐẠO PHẬT HAY LÀ ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM

BÀI THỨ SÁU

 

I.    -A-nan không hiểu hỏi Phật

II.  - Phật chỉ hai món vọng thấy 

III .- Dụ về nghệp chung của cá nhơn.

IV. - Dụ về nghiệp chung của đồng loại

V.  - Lấy nghiệp riêng để chỉ rơ nghiệp chung

VI. -Phật kết thúc lại

VII. - Phật chỉ các pháp đều về chơn tâm 

VIII-A-nan ngi cái nghĩa bốn đại ḥa hiệp sanh

IX. - Phật quở A-nan học nhiều mà nhiều mà không hiểu

X.   - Phật nói cái tánh của bốn đại phi ḥa-hiệp

XI. - Đất từ chơn tâm biến hiện

XII.- Lửa từ chơn tâm biến hiện

XIII- Nước từ chơn tâm biến hiện

XIV- Gió từ chơn tâm biến hiện

 

I.-A-NAN KHÔNG HIỂU HỎI PHẬT [^]

A-Nan thưa Phật:- Bạch Thế Tôn,vừa rồi Phật nói cái nghĩa "nhơn duyên, tự nhiên ḥa hiệp và bất ḥa hiệp ",chúng con c̣n chưa hiểu, nay lại nghe Phật nó đến nghĩa " tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm ..." chúng con lại c̣n thêm mù mịt nữa. Cúi xn đức Như lai duỗi ḷng từ bi, chỉ dạy cho chúng con ngộ được nhơn tâm thanh tâm thanh tịnh, sáng suót này.

II.- PHẬT CHÆ HAI MÓN VỌNG THẤY  [^]

Phật dạy: -A-Nan ông phải chín chắn nghe, ta sẽ v́ các ông phân biệt chỉ dạy,cũng khiến cho chúng sanh đờ i sau ngộ được đạo quả Bồ đề.

Này A-Nan , tất cả chúng sanh bị sanh tử luân hồi trong thế gian, đều do ha món điên đảo phân biệt vọng thấy, tức nơi đó phát sanh ra sự nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ luân hồi.

LƯỢC GIẢI

Từ nơ tâm động vọng sanh ra các nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ hay vui. Cũng như người từ mê mà sanh ra ngủ, từ nơi đó mà hiện ra các cảnh vật vui, buồn rồi chịu lấy buồn vui.

*

-Thế nào là hai món? -1- Cái điên đảo thấy thuộc về nghiệp riêng của cá nhơn. 20 Cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiêïp chung của nhơn loại.

III.- DỤ VỀ NGHỆP CHUNG CỦA CÁ NHƠN . [^]

A-Nan, sao gọi là cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghẹp riêng của cá nhơn? Dụ như người nhặm con mắt, ban đem ḍm đèn thấy có ṿng tṛn ̣a đỏ năm màu (ngủ uẩn).

Ư ông ghĩ sao? Cái vầng đỏ năm màu ấy, của đèn hay cái thấy?

A-Nan, nếu ông nói "của đèn" th́ sao những người không nhặm mắt, họ chẳng thấy vầng đỏ, mà duy có người nhặm, mắt mới thấy thôi?

Nếu nói "cái vầng đỏ đó của cái thấy, th́ cái thẫyđa thành vầng đỏ; vậy người nhặm con mắt thấy vầng đỏ, th́ bảo là thấy cái ǵ? (v́ cái thấy đă thành vầng đỏ rồi, th́ hông thể nói thấy vầng đỏ nữa được" 

Lại nữa nếu ông chấp "cái vầng đỏ rời đèn riêng có ", thời đáng lẽ ông xem bàn ghế chung quanh đều có vầng đỏ cả. C̣n nói "vầng đỏ rời cái thấy riêng có", th́ không cần con mắt thấy. Vậy th́ tại sao người nhặm mắt thấy có vầng đỏ?

Thế nen phải biết: cái mà sáng là ở nơi đèn, cái thấy v́ bệnh mắt mà có bóng ḷa. Cái "bóng ḷa " và cái "thấy ḷa"đều do nơi mắt nhặm. C̣n cái thấy được ḷa nhặm, th́ "cái thấy" đó không phải nhặm hiện.

LƯỢC GIẢI

Đại ư đoạn này Phật nói: V́ vô minh vọng động ( nhặm) mà thấy có cái cảnh vật hiện ra như vậy (ḷa đỏ). Chớ không phải do chơn lư (du đèn) hay chơn trí (dụ cái thấy) và cũng không thể nói nó ng̣ai chơn lư hay chơn trí.

*

IV.-DỤ VỀ NGHIỆP CHUNG CỦA ĐỔNG LOẠI  [^]

-A-Nan, sao gọi là nghiệp chung vọng thấy của đồng loại?- Dụ như trong thế giới này có nhièu nước. Nhưng chỉ có một nước v́ dân chúng đồng tạo ác nghiệp,nên điều cảm thấy có điềm không tốt, như sao chổi, sao phướn, hoặc hai mặt trời, hai mặt trăng v.v...C̣n dân chúng ở các nướckhac thời đều không thấy và cũng không nghe. 

V.- LẤT NGHIỆP RIÊNG ĐỂ CHỈ RƠ NGHIỆP CHUNG [^]

Này A-Nan , như người nhặm con mắt, v́ nghiệp riêng của họ, nên "vọng thấy"cáiđèn có vầng đỏ hiện ra. Tại con mắt nhặm mới thành ra ḷa, chớ"cái thấy" đó không ḷa.

So sánh như các ông ngày hôm nay, thấy có núi, sông, thế giới và chúng sanh đó, đều do ái" nhặm ḷa từ vô thỉ"( vô minh vọng động từ vô thỉ) cho nên mới thấy cảnh vật hiện ranhư vậy.

Các ông nên biết:"mắt thấy" (kiến) với cảnh vật bị thấy ( kiến duyên) hiện tiền đây, dều do cái "vọng thấy" (giác minh) hiện ra. Cái "vọng thấy" đó ( giác kiến)nó ḷa nhặm, chớ cái chơn tâm không nḥa nhặm.

Cái chơn tâm biết được cái ḷa nhặm đó ( giác sở giác sảnh) nó không phải ở trong ḷa nhặm (gíac phi sảnh trung).

Như thế thời làm sao bảo cái chơn tâm đó là các cảm giác thấy, nghe, hay biết được ư? đây chính là cái nghĩa:"tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm v.v...ông mới vừa hỏi trước".

Thế nên, nay ông thấy "tôi", thấy "ông" cùng thấy "thế giới" và "chúng sanh ", đều do ông ḷa nhặm (vô minh vọng động) mà thấy như vậy, chớ không phải cái thấy (tâm) đó nó ḷa nhặm, cho nên không thể bảo nó ( chơn tâm) là "cái thấy".

LƯỢC GIẢI

Đại ư đọan này nói: từ nơi chơn tâm, v́ vô minh vọng động, nên khởi ra có căn và cảnh (cái thấy và cái bị thấy).v́ các cảm giác: thấy, nghe, hay, biết cùng với các cảnh vật bị thấy, đều do vô minh vọng động hiện ra cả. C̣n "chơn tâm" v́ không phải là vô minh , nên không thể gọi nó ( chơn tâm) là cái cảm giác: nghe, thấy, hay, biết được .

Đây là giải lại cái nghĩa ở đọan trước nó: "chơn tâm sanh ra cái thấy v.v. ( kiến kiến chi thời) cái thấy v.v...không phải là chơn tâm ( kiến phi thị kiến). Cái thấy nó c̣n xa cách chơn tâm v.v.v.."

Nên nhớ lỗi tại "vô minh vọng động", chớ không phải lỗi tại cái "thấy" và "cảnh bị thấy". Củng như tại nhặm chớ không phải lỗi tại " cái thấy" của con mắt và" bóng ḷa ".

VI.-PHẬT KẾT THÚC LẠI [^]

A-Nan , một người nhặm mắt, v́ nghiệp riêng của họ, nên họ thấy có cái vầng đỏ; cũng như dân chúng trong mộtnước, do ác nghiệp chung tạo của họ, nên đồng thấy những điềm không lành hiện ra.

Lên một tâng nữa, là ṭan cả chúng sanh trong mười phương thế giới ngày nay đây, đều do "vô minh vọng động từ vô thỉ" nên đồng vọng thấy có thế giới chúng sanh hiện ra vậy.

Từ nơi chơn tâm, v́ hư vọng nên hiện ra các cảm giác thấy, nghe, hay, biết. Do ḥa hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do ḥa hiệp vọng diệt đi.

Nếu các ông xa ĺa được các duyên ḥa hiệp cùng bất ḥa hiệp, và trừ hết các nhơn sanh tử rồi, th́ cái chơn tâm thường trụ thanh tịnh, bất sanh bất diệt hiện ra, và các ông được viễn măn đạo Bồ Đề.

LƯỢC GIẢI

Phật lấy một người nhặm đế dụ một nước thấy niềm ác; lấy một nước để dụ chúng sanh trong mười phương. V́ vô minh vọng động từ vô thỉ, nên thấy có chúng sanh và thế giới. Cũng như người nhặm mắt thấy có vầng đỏ. Nếu hết nhặm th́ vầng đỏ không c̣n, lúc ấy con mắt lành mạnh tự hiện.

Cũng như vô minh vọng tưởng hết, th́ thế giới chúng sanh chẳng c̣n. Lúc bấy giờ chơn tâm sáng suốt hện ra, được viên măn đạo Bồ đề, thế gọi là bực Đại Giác.

VII.-PHẬT CHỈ CÁC PHÁP ĐỀU TRỞ VỀ CHƠN TÂM [^]

A-Nan, ông c̣n chưa hiểu: các trần tướng huyễn hóa đó là nơi tâm sanh ra, rồi cũng tùy tâm diệt mất (đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận).

Cái "tướng" (hiện tượng) của nó th́ huyễn vọng, c̣n "tánh" (bản thể) của nó lại chơn thường.

Nào là: 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới đều do nhơn duyên hư vọng ḥa hiệp tạm có sanh; nhơn duyên biệt ly, hư vọng tạm gọi là diêt.

Các ông không biết: nào sanh, diệt, khứ, lai đều gốc ở nơi chơn tâm thường trụ . trong thể tánh chơn như thường trụ này, t́m kiếm cái khứ, lai, mê, ngộ, sanh tử v.v...quyết không thể được.

LƯỢC GIẢI

Hiện tượng các pháp th́ vọng, mà bản thể của các pháp lại chơn . đứng về phần h́nh tướng( hiện tượng) các pháp th́ thấy có sanh, diệt, khứ, lai. C̣n đứng về phần bản tánh (bản thể) thời t́m cái khứ, lai, sanh, diệt, mê, ngộ không thể được .

VIII.-A-NAN NGI CÁI NGHĨA BỐN ĐẠI H̉A HIỆP SANH [^]

A-Nan thưa Phật rằng:-- Bạch Thế Tôn, trước kia ngài thường nói" tất cả csc vật trong thế gian đều do bốn đại ḥa hiệp sanh". Tại sao ngày hôm nay, Như Lai bác bỏ cả thuyết "nhơn duyên " và "tự nhiên". Chúng con không biết nghĩa này thế nào? cúi xin đức Từ tôn chỉ dạy nghĩa trung đạo rốt ráo cho chúng con.

LƯỢC GIẢI

Phật đă nhiều lần bác cả nhơn duyên và tự nhiên, mf ông A-Nan vẫn c̣n chấp măi. Cũng v́ lưới nghi nhiều lớp, không thể một lần lột hết được !

IX.- PHẬT QUỞ A-NAN HỌC NHIỀU MÀ KHÔNG HIỂU [^]

Phật dạy rằng: -Ông trước kia nhàm chán quả Thinh văn, Duyên giác là thuộc về Tiểu-thừa, phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ đề, cho nên ta mới v́ ông chỉ bày nghĩa lư cao thượng thứ nhứt (đệ nhứt nghĩa đế).

Tại sao ông c̣n đem lời nói tầm thường trong thế gian, là thuyết "nhơn duyên" để tự ràng buộc lấy ḿnh?

Ông tuy học nhiều mà không hiểu chi cả; cũng như người trong thế gian nói đến tên món thuốc này, món thuốc kia, đến khi thuốc thật đem ra trước mắt, th́ họ không thể phân biệt được , t6hật đáng thương xót !

Ông nên chăm chú nghe, nay ta sẽ v́ các ông, cùng với những người tu về Đại -thừa đời sau, mà phân biệt chỉ dạy, để cho các ông thông hiểu được thật tướng (chơn tâm).

A-Nan yên lặng, lóng nghe lời Phật dạy.

X.- PHẬT NÓI CÁI TÁNH CỦA TỨ-ĐẠI PHI H̉A HIỆP [^]

A-Nan, ông nói rằng: "Do bốn đại ḥa hiệp sanh ra tất cả vật". Này A-Nan, nếu cái thể tánh (bản tánh) của bốn đại kia không có ḥa hiệp, thời nó không có ḥa hiệp, thời nó không thể ḥa với ǵ được; cũng nư hư không, không ḥa hiệp với các vật. C̣n nó có ḥa hiệp, thời đồng với vật biến hóa (hiện tượng sanh diệt) nghĩa là, trước sau thành nhau, như nước thành băng, băng trở lại thành nước. Sanh diệt nói nhau, sanh tử, tử sanh, sanh sanh tử tử, xoay tṛn như ṿng lửa, không dứt đoạn.

LƯỢC GIẢI

Ông A-Nan lấy "h́nh tướng" (hiện tượng) của tứ đại có hư vọng ḥa hiệp mà hỏi. C̣n Phật chỉ cái "thể tánh" (bản thể) của tứ đại rất ḥa hiệp, cũng như hư không, để giải thích. Nếu nó (tánh) có ḥa hiệp th́ cũng đồng như các tướng (tứ đại) có sanh diệt.

*

XI.- ĐẤT TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN [^]

- A-Nan, ông xem đất kia, lưón là quả địa cầu, c̣n nhỏ là hạt bụi (vi trần). Chẻ hạt bụi rất nhỏ (cực vi) ra làm bảy phần, th́ thành hạt bụi lân hư (gần với hư không). Cái giáp ranh của sắc tướng tột đến chừng đó. Nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt này (lân hư) ra làm một lần nữa, th́ thành hư không. Thế th́ rơ ràng hư không do chẻ bụi mà có, không phải do ḥa hiệp sanh.

Này A-Nan, như lời ông nói: "Do ḥa hiệp sanh ra các vật trong thế gian". Vậy ông thử xem một hạt bụi nhỏ nhứt này (lân hư) , phải dùng bao nhiêu hư không ḥa hiệp lại mới thành ra nó? không lẽ hạt bụi nhỏ nhứt này ḥa hiệp lại thành ra hạt bụi nhỏ nhứt ( lân hư trần). 

LƯỢC GIẢI

Nếu nói"các vật do ḥa hiệp thành" th́ hạt bụi nhỏ nhất này cũng phả do ḥa hiệp mà thành.

Vậy th́ lấy cái ǵ ḥa hiệp thành hạt bụi này. Nếu nói "lấy hư không ḥa hiệp lại thành" th́ phi lư. C̣n không lấy hư không th́ lấy cái ǵ ḥa hiệp thành ra nó? (v́ ông A-Nan chấp các pháp do ḥa hiệp mà sanh). Nếu nói lấy sắc tướng ḥa hiệp, th́ thành ra một vật lớn, chớ không phải là thành hạt bụi nhỏ nhứt (lân hư trần) nữa.

Lại nữa, nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt (lân hư) ra thành hư không, th́ rơ ràng hư không không phải do ḥa hiệp thành. Nếu nói do ḥa hiệp thành, th́ phải dùng bao nhiêu sắc tướng ḥa hiệp lại mới thành hư không? không thể hư không tự nó ḥa hiệp thành hư không?

LƯỢC GIẢI

V́ chấp "các pháp do ḥa hiệp mà có". Vậy hư không lấy cái ǵ mà thành? Không lẽ lấy hư không ḥa hiệp thành hư không . đoạn trên Phật chỉ hạt bụi, đoạn này Phật chỉ hư không, đều phi ḥa hiệp cả.

*

Vậy nên biết: khi sắc ḥa hiệp th́ không phải hư không, khi hư không ḥa hiệp th́ không phải sắc. Cái sắc c̣n có thể cia chẻ ra được, chớ hư không làm sao mà ḥa hiệp cho được?

LƯỢC GIẢI

Đại ư đoạn này, Phật nói các pháp hư vọng hư huyễn, như hóa, phi ḥa, phi hiệp, do chúng sanh mê vọng mà thấy in tuồng như thật.

*

Các ông không biết: trong chơn tâm, tánh (bản thể) của sắc là chơn không (tâm); tánh (bản thể) của không là chơn sắc (tâm). Nó vốn saün thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới; tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp và phân biệt như thế nào, th́ có ứng hiện ra như thế nấy. Chúng anh không biết, chấp là nhơn duyên sanh, hay tự nhiên cóv.v...những cái chấp đó, đều do thức tâm phân biệt so đo cả. Phàm có nói năng, phân biệt, th́ đều không đúng.

LƯỢC GIẢI

Thật ra các vật ở giữa này, không có nhứt định vật ǵ, thật là vật ǵ cả. Tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp như thế nào, th́ nó hiện ra như thế ấy. Đối vôứi chúng sanh đó, nó thật hay đúng với loài đó thôi.

Như chén nước đây, nếu đồng nghiệp loài người th́ đều thấy thật là nước; c̣n đối với con vi trùng trong chén nước, th́ không phải là nước nữa rồi, mà chính là nhà cửa của nó.

Hay như cái bàn gổ này, đối với loài người th́ thấy nó là cái bàn thật, chớ đối với con mọt, th́ lại không thành cái bàn nữa, mà thật là món ăn của chúng.

Thêm một tỷ dụ nữa, như thân này đối với loài người, th́ thấy thật là thân người, chớ đối với con vi trùng trong thân, th́ không thành cái thân nữa, mà thật là một thế giới bao la vô tận của nó.

Vậy th́ thấy thật nước hay thật chỗ ở, thật cái bàn gỗ hạythât món ăn, thấy thật thân người hay thật thế giới, đều tùy theo tâm niệm phân biệt nhận định riêng của mỗi loài như thế nào, th́ nó thành ra thế nấy. Nên trong kinh nói: "tùy tâm biến hiện".

Chúng ta thường thấy: Khi nào tâm ta vui vẽ, th́ thấy cảnh vật chung quanh đều vui, cho đến ngủ chiêm bao củng thấy cảnh vui hiện ra. Trái lại, khi nào tâm ta buồn phiền th́ thấy cảnh vật chung quanh cũng buồn bực; mỗi mỗi đều do tâm ḿnh biến hiện ra cả, nên có câu:

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!"

XII.-LỬA TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN [^]

-A-Nan , lửa không có tự thể, nó chỉ gá các duyên mà sanh. ông hăy xem những nhà trong thành này, khi họ muốn nấu ăn, th́ họ cần cái kiến (dương tọai) đưa ra trước mặt trời lấy lửa. Này A-Nan , lửa ấy nếu nhơn ḥa hiệp mà có, th́ nó từ trong cái kiến sanh, từ bùi nhùi ra, hay từ nơi mặt nhựt đến?

Nếu lửa từ mặt nhựt đến, cháy được bùi nhùi trong tay của ông, th́ những cây rừng và các cảnh vật nóvừa trăi qua đó đáng lẽ đều phải bị cháy cả.

C̣n nói"lửa từ trong kiến sanh ra cháy cái bùi nhùi",sao cái kiến người cầm đó không cháy? Và cái bàn tay của người cầm củng không cháy?

C̣n nói"lửa trong bùi nhùi ssanh" th́ cần ǵ phải có bàn tàycâm cái kiến hứngánh sáng mặt trời, mới có lữa?

Ông nên chín chắn xem xét: cái kiến ở nơi tay người cầm, mặt nhựt thời ở trên trời, bùi nhùi th́ nằm tại đất. Cái kiến và mặt trời vẫn xa nhau, không phải ḥa, không phải hiệp. Vậy th́ lưả này từ đâu mà đến cháy đây? Không lẽ lửa không từ đâu cả mà tự có?

Các ông không biết trong chơn tâm,tánh( bản thể) của lửa ( tâm ) là thật không; tánh ( bản thể ) của không ( tâm ) mới là lửa thật. Nó vẫn thanh tịnhkhắp giáp cả pháp giới, tùỳ theo tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, th́ nó hiện ra như thế nấy.

Nếu một người cầm kiến lấy lửa, th́ một chỗ đó có lửa hiện ra. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm kiến lấy lửa, th́ khắp tất cả trong thế gian đều có lửa hiện ra; chỉ tùy theo vọng nghiệp của chúng sanh mà hiện đó thôi, chớ không có xứ sở ǵ. Người thế gian không biết, dùng thức tâm hư vọng phân biệt mê lầm chấp cho nhơ3nhưng duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v...phàm có nói năng, phân biệt đều không đúng sự thật.

LƯỢC GIẢI

Đại ư như đoạn trên ( đất)

 *

XIII.-NƯỚC TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN [^]

A-Nan , tánh nước không tịnh, đứng chảy chẳng thường. Như trong thành Thất La, các vị đại huyễn sư, như ông Ca-tỳ-la-tiên, Chiết-ca-la-tiên, Bác-đầu-ma và Ha-tát-đa v.v...Các vị này thường lấy nước mặt trăng ḥa với thuốc. Họ choờ đêm nào trăng sáng trong, cầm hột châu phương chư hứng mặt trăng, th́ có nước chảy ra ở thau.

Vậy nước ấy từ hột châu sanh?hay từ hư không ra? Hay từ mặt trăng đến?

A-Nan , nếu từ mặt trăng đến, nó làm cho hột châu ra nước;vậy thời từ phương xa đến đây, trong khi trăi qua cây cối các cảnh vật, nó phải đều làm cho ngập ướt cả; nếu thế th́cần ǵphải có hột châu phương chư ( hột châu lấy nước)? song sự thật các cảnh vật không ngập ướt, th́ rơ ràng nước ấy không phảitừ mặt trăng đến.

C̣n nói"nước từ hạt châu ra", th́ hột châu nếu đă chảy ra được nước, đáng lẽ lúc nào nó cũng tự chảy ra được nước, cần ǵ phải chờ nữa đêm hứng mặt trăng sáng mới có nước?

C̣n nói"nước từ hư không sanh" th́ hư không vô biên,nước cũng phải vô biên; vậy th́ từ nhơn gian cho đến thiên thượng, tất cả cỏ cây, đất đai đều bị ngập lụt cả.

Oâng nên chín chắn xem xét: Mặt trăng ở trên trời, hột châu ở tay người cầm, cái thau hứng nước lại để dưới đất. Mặt trăng với hột châu để cách xa nhau, không phải ḥa cũng không phải hiệp, vậy nước đó từ đâu mà đến? Không lẽ không nhơn đâu mà nó tự có.

Oâng không biết trong chơn tâm, tánh ( bán thể) của nước ( tâm ) thật không; tánh ( bản thể ) của không (tâm ) thật nước, vốn saün thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, th́ nó hiện ưng như thế nấy. Một người cầm hột châu lấy nước, th́ một chỗ đó có nước. Nếu tất cả người trong thế ǵanđêu cầm hột châu lấy nước, th́ khắp cả trong thế gian đều có nước. Nước tùy theo nghiệp chướng trong chúng sanh màphát hiện ra; nó không có phương hướng sứ sở ǵ. Người trong thế gian không biết, lầm chấp nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều do thức tâm vọng chấp, phân biệt cả. Phàm có nói năng, luận bàn thế nào, cũng đều không đúng cả.

XIV.-GIÓ TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN [^]

A-Nan, tánh gió không tịnh, động và tịnh chẳng thường. Như ông thường đắp y đi vào đại chúng, cái chéo y của ông phất qua người gần bên, th́ có một chút gió quạt đến mặt người. Vậy gió này từ chéo y bay ra, hay từ hư không bay đến, hay từ nơi mặt người sanh?

A-Nan, nếu gió này từ cái y bay ra, th́ cái y đă thành gió, vậy nó phải bay bổng rời khỏi thân ông, và ông đắp y thành ra đắp gió hay sao? Ta hay xổ cái y ra, ông hăy thử xem coi gió ở chổ nào? chẳng lẽ trong y có chổ cất (để) gió.

Nếu gió từ hư không sanh, vậy thời khi ông không động cái y, sao chẳng có gió? Và hư không thường c̣n, th́ gió cũng phải thường sanh, nếu khi nào không có gió, th́ hư không phải diệt. Song thật ra gió có thể diệt (hết) chớ không làm sao diệt được.

Nếu hư không có sanh diệt, thời không gọi là hư không; c̣n gọi là hư không thời làm sao lại sanh ra gió được. 

C̣n ông nói "gió từ nơi mặt người bị phất sanh"; nếu thật thế, th́ gió phải phất đến mặt ông mới phải, tại sao nó lại phất ngược trở lại mặt người bị phất.

Ông nên chính chắn xem xét: Cái ly là ở nơi ông, cái mặt la fthuộc về người kia (bị phất), c̣n hư không th́ tự yên lặng; gió (động) với hư không (lặng) tánh khác nhau, không ḥa không hiệp, vậy gió từ nơi đâu mà phát động đến đây? Không lẽ không từ nơi đâu mà tự có.

Các ông không biết trong chơn tâm, tánh (bản thể) của gió (tâm) là thật gió, vốn sẳn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm chúng sanh phân biệt như thế nào, thời nó hiện ra như thế nấy. Một người phất y, thời có một chút gió sanh ra. Nếu tất cả mọi người trong thế giới đều phất y, th́ cả thế giới đều có gió, theo nghiệp của chúng sanh mà phát hiện, không có phương hướng, xứ sở ǵ. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt so đo, lầm chấp là nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.

 


[Phần tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]