[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]


PHẬT HỌC PHỒ THÔNG KHÓA VI

 

TRIẾT LƯ ĐẠO PHẬT HAY LÀ ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM

BÀI THỨ NĂM 

I.- A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là ḿnh,
th́ tâm này là ai?

II.- Cái thấy rời tất cả cái tướng.

III.- Cái thấy tức tất cả các pháp.

IV.- Phật trấn tĩnh đại chúng.

V.- Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi.

VI.- Phật dạy: Cái thấy không có "thị" và "phi thị".

VII.- A-Nan nghi: Chơn tâm đồng với thuyết tự nhiên ngoại đạo.

VIII.- Phật bác cái chấp "tâm tự nhiên mà có".

IX.- A-Nan nghi: Tâm do nhơn duyên sanh.

X.- Phật bác cái chấp: "nhơn duyên sanh".

XI.- Phật day: Chơn tâm không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói luận bàn được .

XII.- A-Nan trở lại nghĩ "nhơn duyên sanh".

XIII.- Phật gạn lại hỏi "cái thấy" để chỉ rơ chơn tâm.

XIV.- Phật chỉ cái "thấy" không phải vọng, song chưa  phải là chơn tâm.

XV.- Phật chỉ tâm lần thứ sáu.

 

I.- A-NAN NGHI: NẾU CÁI "THẤY" LÀ M̀NH TH̀ THÂN TÂM NÀY LÀ AI?

A-Nan thưa Phật: -Bạch thế tôn! Nếu cái "thấy" này thật là "tâm" con, th́thân tâm của con hiện nay đây là ai? Và nếu cái "thấy" thật của con, th́ nó phải hiện ở trước, khiến cho con thấy được nó.

Lại nữa, thân tâm, của con hiện nay đây, biết phân biệt được nó ( cái thấy ) , c̣n nó không biêts phân biệt được thân tâm con. Xin đức Thế Tôn mở ḷng đại bi chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ này.

II.-CÁI THẤY (TÂM) RỜI TẤT CẢ H̀NH TƯỚNG[^]

Phật dạy A-Nan: Ông nói"cái thấy phải ở trước mặt để ông thấy nó", nói như vậy không phải, v́ nếu cái "thấy" thật ở trước mặt ông, ông thấy được nó, th́ cái "thấy" đó ở chỗ nào phải có nhất định và phải chỉ ra được .

Nay ông ngồi trong rừng Kỳ đà, xem các cảnh vật, đưa tay chỉ ra từng món: chỗ im mát kia là rừng cây, cái sáng chiếu nọlà mặt nhựt, nơi ngăn ngại này là vách, chỗ trống đó là hư không; cho đến cỏ cây hoa lá, các vật lớn nhỏ tuy khác, song đều có h́nh tướng, có thẻ chỉ ra được cả. C̣n cái "thấy" nếu có ở trước mặt ông, th́ ông nên lấy tay chỉ chắc chắn, cái nào là cái "thấy". Nếu hư không là cái "thấy" th́ cá ǵ là hư không? c̣n nếu cảnh vật là cái "thấy", th́ cái ǵ là cảnh vật? Đối với các cảnh vật sum la vạn tượng, ông nên chín chắn phân tích rơ ràng, rồi chỉ cho ta xem, cái nào là cái "thấy"cũng như chỉ các vật, không có lầm lộn.

A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con mỡ tầm con mắt và đưa tay chỉ khắp tất cả, th́ đều là "vật" chớ không có cái nào là "thấy". Dù cho bực Bồ tát cũng không thể phân tíchở nơi muôn vậtđể chỉ riêng cái "thấy" ra được; huống chi chúng con là bậc sơ học thinh văn, làm sao chỉ được .

Phật dạy: Phải lắm!

LƯỢC GIẢI

Tâm không phải cái h́nh tướng, củng như vàng không phải là ṿng, kiềng, xoa, xuyến v.v ...

III. CÁI THẤY (TÂM) TỨC TẤT CẢ PHÁP [^]

Phật dạy rằng: Này A-Nan ! Như lời ông nói: "trong ccác cảnh vật, không thể chỉiêng cái "thấy" ra được "; vậy nay ông đứng trước cảnh vật chỉ lại coi, cái nào không phải là cái "thấy"?

A-Nan thưa: Con hiện đang xem tất cả các cảnh vật, không biết cái nào không phải cái "thấy". Nếu rừng cây kia không phải cái "thấy", thờ làm sao thấy được rừng cây. C̣n rừng cây là cái "thấy", th́ sao gọi là rừng cây. Lại nữa, hư không nếu không phải là cái "thấy", th́ làm sao thấy được hư không . c̣n nếu hư không tức là cái "thấy", th́ sao lại gọi là hư không. Con chín chắn suy nghĩ: cái nào cũng là cái "thấy" cả.

Phật dạy: phải lắm!

Khi đó đại chúng nghe lời Phật nói như vậy, tất cả đều hoang mang lo sợ, v́ không biết nghĩa ấy thế nào.

LƯỢC GIẢI

Tâm đă sanh ra các pháp , th́ pháp nào cũng là tâm cả: 

Cũng như vàng đă làm ra các đồ trang sức th́ món nào cũng là vàng cả.*

IV. PHẬT TRẤN TĨNH ĐẠI CHÚNG[^]

Phật dạy A-Nan và đại chúng hoang mang, sợ hăi, nên sanh tâm thương xót, liền an ủi A-Nan và đại chúng rằng:

Như-Lai nói chơn thật, chẳng dối trá, không phải như chúng ngoại đạo Mạc-già-lê, nói năng rối loạn không nhất định đâu. Các ông nên b́nh tĩnh và chín chắn suy xét lại, chớ để cho Như Lai thêm ḷng thương xót.

V.- NGÀI VĂN THÙ ĐÚNG LÊN THƯA HỎI[^]

Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử thương cả bốn chúng, nên đứng dậy lạy Phật , cung kính chắp tay và thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Trong đại chúng đay chưa hiểu cái nghĩa: các cảnh vật là cái "thấy" hay không phải cái "thấy"?

Bạch Thế Tôn !các cảnh vật hiện tiền đây, nếu là cái "thấy", th́ phải chỉ ra được; c̣n nếu không phải cái "thấy", th́ đáng lẽ không thể thấy được. V́ trong đại chúng không hiểu nghĩa này thế nào, cho nên mới sợ hăi, hoang mang. Cúi xin đức Như Lai duỗi ḷng từ bi chỉ dạy cho biết: Các cảnh vật hiện tiền đây, cùng với cái "thấy" này, nguyên là ǵ? Trong đây không có cái "phải" và cái "không phải".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này lư thâm, nên ngài Văn -Thù mới đứng lên thưa hỏi: người học phải suy xét nhiều mới hiểu được.

Nói cảnh vật và cái thấy, tức là chỉ cả vật chất với tinh thần đồng một thể tánh chơn tâm. V́ chơn tâm th́ không thể suy nghĩ và bàn luận được, phải tự ngộ mà thôi, nên nói, "nghuyên nó là cái ǵ?" (v́ không thể nói ra được). Bởi nó rời đối đăi thị phi, nên nói "trong đó không có cái phải và cái không phải".

*

VI.- PHẬP DẠY: CÁI "THẤY" KHÔNG CÓ "PHẢI" VÀ "KHÔNG PHẢI" (THỊ, PHI THỊ)[^]

Phật kêu ngài Văn -Thù và Đại chúng, dạy rằng:

- Mười phương các đức Phật và các vị Đại Bồ tát an trụ trong chơn tâm rồi, thời không c̣n thấy thật có các cảnh vật là căn, trần, thức nữa. Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy, nguyên là "chơn tâm". Đă là chơn tâm, th́ đâu c̣n có "phải" hay "không phải" nữa. Như ông là Văn Thù, vậy có thể nói ông là "thật" Văn Thù hay "không thật" Văn Thù được không?

Văn -Thù thưa: -Bạch Thế Tôn ! chính như thế đó, con là Văn -Thù rồi, th́ không thể nói "thật Văn -Thù" được; v́ nếu nói "thật Văn -Thù", th́ phải nói ông Văn -Thù giả (thứ hai). Song con nay đă là vtSong con nay đă là Văn -Thù rồi, th́ không thể nói "thật" hay "không thật" được.

LƯỢC GIẢI

Chơn tâm không hai, nên không c̣n thị và phi đối đăi; không thể nói "quấy" đă đành, mà nói "phải" cũng không trúng. Bởi v́ nó ngoài ṿng đối đăi, cũng như ông Văn -Thù là Văn -Thù, không thể nói:"thật" hay "không thật" được .

Phật dạy: cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng lại như vậy, đều là thể tánh chơn tâm, v́ vọng động mà có ra: thấy nghe và các cảnh vật. Nó cũng như mặt trăng thứ hai, đâu có ǵ mà nói "phải" hay "không phải". Nghĩa là chỉ có một mặt trăng chánh, (chơn tâm) trong đó không có cái "phải" mặt trăng hay "không phải" mặt trăng.

Nay ông thấy có cái "thấy" và "cảnh vật bị thấy" đó là vọng tưởng; c̣n đối với thể tánh chơn tâm, th́ không c̣n nói phải hay không phải được. Bởi thế nên chơn tâm nói ra ngoài cái phạm vi "chỉ bày" và "không chỉ bày" cảu ông rồi. 

LƯỢC GIẢI

Suy nghĩ không tơi nói năng không nhấm. Đại ư đoạn này nói: chỉ có một chơn tâm, không thể nói phải hay không phải, nó vượt ra ngoài sự đối đăi và nói năng phân biệt.

V́ vọng động mà sanh ra các vật chất (cảnh) và tinh thần (tâm). Cũng như chỉ có một mặt trăng chánh, không thể nói phải mặt trăng hay không phải mặt trăng; v́ ḷa mà thấy in tuồng có mặt trăng thứ hai.

*

VII.- A-NAN NGHI "CHƠN TÂM" ĐỔNG VỚI THUYẾT "TỰ NHIÊN" CỦA NGOẠI ĐAO.[^]

A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn ! ngày trước Phật ở tại núi Lăng Già, có dạy cho ông Đại Huệ Bồ Tát v.v...rằng: "các chúng ngoài đạo kia thường chủ trương thuyết "tự nhiên sanh", c̣n ta thời nói "các pháp do nhơn duyên sanh", nên không đồng vơd thuyết của các ngoại đạo kia". 

Hôm nay nghe lời Phật dạy, th́ con hiểu cái "chơn tâm" này in như tự nhiên mà có; chớ không phải "nhơn duyên sanh", v́ nó rời tất cả các vọng tưởng điên đảo, không sanh, không diệt. Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con ngộ được chơn tâm thường trụ này, mà không lạc vào thuyết "tự nhiên" của các tà đạo.

LƯỢC GIẢI

Cái chơn tâm này, nó tuyệt đối đăi, ngoài thị và phi. Nếu c̣n chấp có, không , thị và phi, nhơn duyên hay tự nhiên v.v...Đều không trúng cả. Song chúng sanh v́ cái mê chấp nhiều đời, cũng như cây chuối nhiều bẹ, lột hết bẹ này, th́ nó bày ra bẹ khác. Phật vừa bác xong thị và phi, th́ ông A-Nan liền chấp nhơn duyên và tự nhiên v.v...than ôi! Lưới mê nhiều đời chồng chập, thật khó trong một lúc vẫy vùng ra khỏi!

VIII.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "TÂM TỰ NHIÊN MÀ CÓ"[^]

Phật dạy rằng: Ta đă dùng nhiều phương tiện và thành thật chỉ dạy cho tường tất như thế, mà ông cũng chưa hiểu ngộ, lại c̣n mê muội chấp là tự nhiên nữa.

A-Nan nếu thật tự nhiên, th́ ông phải chỉ rơ cái "thấy" này, lấy ǵ làm cái thể tự nhiên của nó? Lấy cái "sáng" làm tự nhiên hay lấy cái "tối"làm thự nhiên? Lấy cái "trống không " làm tự nhiên hay lấy cái "ngăn bít" v.v...làm tự nhiên?

A-Nan, nếu lấy cái "sáng" cho là tự nhiên cái thể của nó như vậy, th́ khi tối lại, đáng lẽ ông không thấy được tối. Cho đến lấy cái "tối" v.v...làm thể tự nhiên của nó, th́ khi sáng đến, cái thấy của ông phải mất, làm sao thấy được cái sáng v.v...

IX.- A-NAN LẠI NGHI TÂM DO "NHƠN DUYÊN SANH"[^]

A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, cái thấy này nếu không phải tự nhiên mà có, th́ chắc do nhơn duyên sanh. Con hiểu như vậy chẳng biết có phải không? xin đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy.

X.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "NHƠN DUYÊN SANH"

Phật bác rằng: Ông nói "nhơn duyên sanh". Vậy nay ta hỏi ông: Cái thấy này là nhơn duyên cái sáng mà có, hay nhơn duyên cái tối mà có? Nhơn duyên cái trống không mà có, hay nhơn duyên cái ngăn bít v.v...mà có?

A-Nan, nếu nhơn duyên cái sáng mà có, th́ khi tối đến, ông phải không thấy được cái tối; c̣n nhơn duyên cái tối, cái trống, cái bít v.v...cũng vậy.

XI.- PHẬT DẠY: CHƠN TÂM KHÔNG THỂ SUY NGHĨ VÀ LUẬN BÀN ĐƯỢC.[^]

Phật dạy: A-Nan! Oâng phải biết: Cái thấy (tâm) này không phải "nhơn", không phải "duyên", không phải "tự nhiên", và cũng không phỉa "không tự nhiên", không cái "phi", không cái "bất phi", không cái "thị", không cái "phi thị", nó rời tất cả tướng, mă chính là tất cả pháp. Như thế thời ông làm sao để tâm suy nghĩ cho tới, dùng lời nói luận bàn cho kịp và gọi nó bằng thứ ǵ được. (ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng, ly danh tự tướng).

Nếu ông để tâm suy nghĩ và dùng lời nói luận bàn, th́ cũng như người quơ tay chụp bắt hư không; chỉ thên mệt nhọc, chớ làm sao mà chụp bắt hư không cho được.

LƯỢC GIẢI

Đến chỗ cao siêu tuyệt diệu, th́ không c̣n suy nghĩ, luận bàn được; nếu c̣n suy nghĩ luận band được th́ không phải là cao siêu tuyệt diệu.

Bởi thế nên Đức Thích Ca đóng cửa thất tại nước Ma-Kiệt, ông Duy-Ma-Cật ngậm miệng tại thành Tỳ-Da, tổ Đạt-Ma ngồi tại chùa Thiếu Lâm, day mặt vô vách chín năm, không nói một lời, đều v́ cái lư cao siêu, không thể luận bàn được.

*

XII.- A-NAN TRỞ LẠI NGHI "NHƠN DUYÊN SANH"[^]

A-Nan thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Cái "thấy" này nếu không phải "nhơn" không phải "duyên", tại sao đức Thế Tôn thường cùng với các thầy Tỳ-kheo nói: "cái thấy phải đủ bốn duyên mới sanh"; như nhơn hư không, ánh sáng, tâm và con mắt mới sanh. Vậy nghĩa này thế nào?

Phật dạy rằng: Này A-Nan, ta nói thuyết nhơn duyên, là đứng về phần sự tướng (hiện tượng), chỉ các pháp trong thế gian mà nói, chớ không phải chỉ cho lư tánh tuyệt đối (bản thể) vậy.

LƯỢC GIẢI

Về phương diện pháp tướng (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần hiện tượng) nói về "thức", th́ Phật nói có căn, trần, thức và nhơn duyên v.v...C̣n đứng về phương diện pháp tánh (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần bản thể) th́ không c̣n danh tướng, nói năng khiếu gọi hay suy nghĩ được.

Bởi thế nên trong kinh, Phật nói: "Đạo ta cao siêu không thể suy nghĩ và luận bàn được". Kinh này là nói về phần lư tánh tuyệt đối.

*

XIII.- PHẬT GẠN HỎI LẠI CÁI "THẤY" ĐỄ CHÆ RƠ CHƠN TÂM [^]

Phật hỏi: Này A-Nan ! bậy giờ ta hỏi ông: người đời thường nói "tôi thấy". Vậy thế nào là "thấy" và thế nào là không "thấy"?

A-Nan thưa: Người đời nhơn có ánh sáng mới thấy được cái vật, th́ gọi là "thấy"; c̣n không có ánh sáng, chẳng thấy các vật, th́ bảo rằng "không thấy"

Phật dạy: Nếu không có ánh sáng mà bảo là không thấy, th́ khi tối đến đáng lẽ ông cũng không thấy được cái "tối"? C̣n như ông thấy được cái "tối", th́ khi đó chẳng qua không có ánh sáng mà thôi, chớ sao lại nói "không thấy"?

Lại nữa, nếu khi tối ông không thấy được cái "sáng", mà ông cho cho là thấy, th́ khi sáng ông không thấy được cái "tối", đáng lẽ cũng phải bảo là không thấy mới phải. Như vậy,thời "tối" vá "sáng" cả hai đều phải bảo là "không thấy" hết.

Bởi thế, ông nên biết: "tối" và "sáng" hai món trần tướng nó tự thay đổi vơi nhau, c̣n cái "thấy" của ông lúc nào cũng có. Vậy th́ thấy "tối" và "sáng" đều gọi là thấy cả, tại sao khi thấy tối, ông nói "không thấy"?

XIV.- PHẬT CHÆ THẤY CÁI KHÔNG PHẢI VỌNG, SONG CHƯA PHẢI LÀ CHƠN TÂM  [^]

(Đoạn này nguyên ở trước, ay djch giả đem lại đây cho thuận nghĩa).

Phật dạy A-Nan rằng: -Cái "thấy" của ông đó, hông phải là vọng, song chưa phải là "chơn tâm". Nó cũng như mặt trăng thứ hai (do ḷa con mắt mà có) tuy không phải bóng mặt trăng dưới nước, nhưng chưa phải là mặt trăng chánh.

LƯỢC GIẢI

Mặt trăng chánh là dụ cho chơn tâm, mặt trăng thứ hai là dụ cho cái thấy, nghe v.v...các giác quan về phần trực giác. Bóng mặt trăng là dụ cho vọng tưởng phân biệt. 

Đại ư đọa này nói cá "thấy" không phải vọng tâm, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm, nghăi là nó gần với chơn tâm mà thôi. Cũng như mặt trăng thứ hai do ḷa con mắt mà có; nó không phải bóng mặt trăng dưới nước,nhưng cũng chưa phải là mặt trăng chánh.

*

Phật dạy: A-Nan, ông phải biết: Khi ông thấy sáng, th́ cái "thấy" của ông không phải là cái "sáng"; khi ông thấy tối, cái "thấy" của ông không phả là cái "tối"; khi ông thấy trống không, cái thấy của ông không phải là cái "trống không"; khi ông thấy ngăn bít cái "thấy" của ông không phải là cái "ngăn bít".

LƯỢC GIẢI

Nói cái "thấy" chớ kỳ thực là chỉ chung cho cả cái "nghe, hay, biết". Nói "sáng, tối,trống, bít" là chỉ chung cho các cảnh vật.

Đại ư bài này nó: Khi thấy các cảnh vật, th́ cái "thấy" không phải là cảnh vật.

*

XV.-PHẬT CHỈ CHƠN TÂM LẦN THỨ SÁU. [^]

Phật dạy:- Ông đă hiểu rơ bốn nghĩa này rồi; ông nên hiẻu thêm lên một từng nữa: Khi "chơn tâm đă khởi ra cái "thấy" (cái giác quan ), th́ cái "thấy" không phải là "chơn tâm"; cái "thấy" c̣n cách biệt với chơn tâm, (v́ c̣n một lớp mê), cái "thấy" không thể b́ kịp với "Chơn tâm "" (đoạn này Phật mới chỉ chính xác cái chơn tâm)

LƯỢC GIẢI

Mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu: khi bản thể (tâm) khởi ra hiện tượng ( các giác quan) th́ hiện tượng không phải là bản thể, hiện tượng c̣n cách biệt với bản thể, hiện tượng không thể b́ kịp bản thể. Cũng như khi nước đă biến thành sóng, th́ sóng không phải hoàn toàn là nước, sóng c̣n xa biệt với nước ( v́ bị gió xao động), sóng không thể b́ kịp nước.

Đành rằng "tâm" cùng với cái "thấy" v.v...không hai, nhưng v́ mê nên tâm biến ra các giác quan thấy nghe hay biết. Lúc bấy giờ cái thấy nghe ay biết, không phải là chơn tâm. Ngộ rồi th́ cái thấy nghe hay biết mới gọi là "chơn tâm". Song khi chưa ngộ th́ không thể nói cái thấy, nghe v.v...Các giác quan là chơn tâm được.

Cũng như nước với sóng không khác, nhưng v́ gió động nên nước biến thành sóng; lúc bấy giờ sóng không phải là nước, nươc cách biệt với sóng. Đến khi hết gió xao động th́ sóng trở lại thành nước. Nhưng khi c̣n động th́ không thể nói sóng đó là nước. * Như thế thời ông làm sao lại nói là "nhơn duyên, tự nhiên, ḥa hợp, và phi ḥa hợp"được . các ông là hàng Thinh văn, trí thức hẹp ḥi, không thông hiểu được thập tướng (chơn tâm). Ta đă chỉ dạy nhiều lần rồi, vậy các ông nên khôn khéo suy nghĩ và cố gắng tiến lên tu hành, cớ nên giải đăi trên con đường bồ đề. 

 


[Phần tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]