[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


Khóa Thứ Tư: Duyên Giác và Bồ Tát Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 5

Quán Giới Phân Biệt

 

A. Mở Đề

Hầu hết người đời đều tin rằng, mỗi người từ khi mới lọt ḷng mẹ cho đến chết và cả sau khi chết nữa, đều có một linh hồn duy nhứt, bất biến làm chủ tất cả ư nghĩa, hành động của ḿnh. Nói theo thuật ngữ Phật giáo th́ tin như thế gọi là "ngă chấp", nghĩa là tin có một ngă riêng biệt, tồn tại bất biến...Từ cái ngă chấp ấy, mà sinh ra "ngă ái", nghĩa là thương yêu, chăm sóc, ǵn giữ cái ngă, bất chấp phải trái, hay dỡ; ngă mạn, nghĩa là ngạo mạn, cho "cái ta" của ḿnh là cao quư, tốt đẹp hơn bao nhiêu "cái" khác, đối lập với tất cả những ǵ không phải là ta hay trái ư với ta.

Do sự chấp ngă ấy mà cuộc sống đáng lẽ phải rộng răi vô biên, trường tồn bất diệt, lại bị ngăn cách chia xẻ, giam hăm trong những cái vỏ cứng là "cái ta" riêng biệt; và người đời, hay nói rộng hơn, tất cả chúng sinh đều phải sống, chết, quay cuồng, điêu cứng, khổ đau v́ cái ta riêng biệt mà họ tưởng là thuần nhất, bất biến ấy.

Nhưng thật ra, có một cái "Ta" như thế không? Nếu có, th́ cái Ta ấy ở đâu? Trong sáu căn hay trong sáu trần, hay trong sáu thức? Muốn hiểu rơ vấn đề này một cách tường tận, chung ta phải quán Giới phân biệt là một trong Ngũ đ́nh tâm quán.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa

Quán Giới phân biệt: Giới có ư nghĩa là giới hạn, là phạm vi phân chia phần này với phần khác, bộ phận này với bộ phận khác. Chẳng hạn như trong vật chất người ta phân chia ra nhiều loại: loại màu sắc, loại âm thanh, loại mùi vị v.v...Hay trong con người, các bộ phận tiếp xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai, mũi, lưỡi...là những Giới riêng biệt.

Trong thế giới Ta Bà gồm những vật hữu h́nh và vô h́nh này, mặc dù có thiên h́nh vạn trạng, nhưng theo triết lư của đạo Phật, th́ có thể chia ra làm mười tám giới (loại, phạm vi). Vận dụng trí tuệ để quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới một trong mười tám giới ấy, để xét xem thử có một cái ngă trường tồn bất biến, duy nhất hay không, đó tức là quán Giới phân biệt.

II Phân Giải 18 Giới:

Mười tám giới có thể phân ra ba loại lớn: Sáu căn, sáu trần và sáu thức.

1. Sáu căn Căn tức là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở, phát sinh. Sáu căn ở đây tức là: nhă căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn và ư căn.

a) Nhăn căn: tức là hai con mắt, bộ phận để làm chỗ nương tựa cho sự nhận thấy của người được rơ ràng, khi tiếp xúc với cảnh vật chung quanh.

b) Nhĩ căn: tức là hai lỗ tai, bộ phận làm chỗ phát sinh cho sự nghe biết của người được rơ ràng, khi tiếp xúc với tiếng động ở chung quanh.

c) Tỹ căn: tức là lỗ mũi, bộ phận làm chỗ nương tựa cho sự ngửi biết được xác thực, khi tiếp xúc với các mùi như thơm, thúi...ở chung quanh.

d) Thiệt căn: tức là cái lưỡi, bộ phận làm chỗ nương tựa của sự nếm biết của người được rơ ràng khi tiếp xúc với các chất như chua, mặn v.v...ở ngoại cảnh.

đ) Thân căn: tức là da bao bọc thân người, bộ phận làm cho nhận biết được cảm giác, nóng, lạnh, cứng, mềm của các vật chung quanh.

Năm căn nay là năm bộ phận thuộc về thể chất nằm ở bên ngoài, dễ tiếp xúc với ngoại vật. Chúng có h́nh tướng to tứ đại hợp thành, có thể thấy được, chỉ được, rờ mó được. Duy thức học liệt chúng về nội căn sắc pháp. Nội can sắc pháp này có thể phân tách ra làm hai phần: phù trần căn và tịnh sắc căn. Phù trần căn là chỉ cho h́nh tướng thô phù hiện ra bên ng̣ai, như tṛng mắt, vành tai, lưỡi đỏ v.v...C̣n tịnh sắc căn là chỉ cho phần ẩn phục của năm căn, tức là phần ứng dụng, phần hoạt động, phần sống của năm căn. Nói một cách rơ ràng đơn giản hơn, tức là những dân thần kinh hệ của con người vậy. Phù trần th́ thô thiển, tinh sắc lại tế ẩn. Nếu hai phần này rời nhau, năm căn sẽ vô dụng.

e) Ư căn: tức là bộ phận để cho sự phân biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy. Phần này rất tinh tế thuộc về phần tinh thần. Cho nên không có h́nh sắc như năm căn trước.

2. Sáu trần. Trần, nghĩa đen là bụi. Bụi th́ nhơ nhớp luôn luôn dời đổi lăng xăng, tụ tán không chừng. Nghĩa bóng, trần tức là chỉ cho phần vật chất, cảnh vật chung quanh con ngươi. Sáu trần là: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.

a) Thanh trần: là sáu sắc, đường nét h́nh dáng, những ǵ mà mắt có thể thấy được.

b) Thanh trần: là tiếng do vật hữu h́nh hay vô h́nh phát ra, nghĩa là những tiếng mà tai nghe được.

c) Hương trần: là mùi do vật hữu h́nh hay vô h́nh bốc lên, tỏa ra, vật mà mùi ngửi được.

d) Vị trần: là chất trong vật hữu t́nh hay vô t́nh, vậy mà lưỡi nếm được.

đ) Xúc trần: là những thứ mềm, cứng, trơn, nhám...của vật hữu t́nh hay vô t́nh, những vật mà thân tiếp xúc được.

e) Pháp trần: là những h́nh ảnh, màu sắc, hương vị.. trừu tượng của năm trần lưu lại sau khi đă năm căn duyên, chính là cảnh bị duyên của ư căn. Màu sắc tiếng tăm, hương vị ở đây không phải là vật thật của ngoại cảnh mà chỉ là những h́nh bóng, âm vang...của ngoại cảnh sau khi đă lọt qua năm giác quan, và đang bị ư căn duyên.

Chúng ta có thể làm một thí dụ tho thiển sau đây cho dễ hiểu:

Sắc trần dụ như cảnh vật bên ngoài.

Nhăn trần dụ như cái máy quay phim.

Pháp trần dụ như những h́nh ảnh đă giữ được trong cuốn phim.

Ư căn dụ như người xem h́nh trong cuốn phim chiếu lên. Có thể lam một thí dụ thứ hai sau đây:

Thanh trần dụ như các tiếng hát của một ca sĩ.

Nhĩ căn dụ như cái máy ghi âm.

Pháp trần dụ như cuốn băng nhựa đă ghi âm.

Ư căn dụ như người nghe tiếng do cái máy phát ra.

3. Sáu thức. thức là sự phân biệt, hiểu biết, phán đoán do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà phát sinh. Nó thuộc về tâm pháp (vô h́nh). Sáu thức là: nhăn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và ư thức.

a) Nhăn thức: là sự phân biệt, hiểu biết do nhăn căn tiếp xúc với sắc trần mà phát sinh.

b) Nhĩ thức là sự phân biệt hiểu biết do nhĩ căn tiếp xúc với sắc trần phát sinh.

c) Tỹ thức là sự phân biệt hiểu biết do tỹ căn tiếp xúc với hương trần mà phát sinh.

d) Thiệt thức là sự phân biệt do thiệt căn tiếp xúc với vị trần mà pháp sinh.

đ) Thân thức là sự phân biệt, hiểu biết do thân căn tiếp xúc với xúc trần mà phát sinh.

e) Ư thức là sự phân biệt, hiểu biết, phê phán do ư căn tiếp xúc với pháp trần mà phát sinh.

Chúng ta có thể làm một thí dụ cụ thể sau đây cho dễ nhận:

Sáu thức như một hội đồng giám khảo của cuộc thi th́ về văn nghệ, nữ công và gia chánh. Hội đồng này gồm có sáu người: Một ông chủ tịch và anưm hội viên chuyên môn về năm ngành:

Một người chuyên về màu sắc và h́nh ảnh\

Một người chuyên về âm thanh

Một người chuyên về mùi hương

Một người chuyên về chất vị

Một người chuyên về xúc giác

Năm hội hiên này sau khi lấy khả năng chuyên môn của ḿnh ra phân tách, phê phán rồi, liền tŕnh sự nhận xét của ḿnh lên ông chủ tịch, ông này thu góp tất cả những nhận xét của năm hội viên, làm tông kết và tuyên bố kết quả của cuộn thi ấy. Ông chủ tịch này chính là ư thức hay là thức thứ sáu.

III. Phương Pháp Quán 

Sau khi chúng ta đă biết được rơ ràng phạm vi và công năng của mỗi giới trong mười tám giới rồi, đến đây, chúng ta có thể bắt đầu tập phương pháp quán. Pháp quán này gồm có hai phần: Quán sát sự liên hệ giữa căn, trần và thức; và quán sát sự giả dối của căn, trần và thức.

1. Quán sát sự liên hệ giữa căn, trần và thức. Vẫn biết căn là một nội sắc, nhưng chúng ta rất quan hệ mật thiết. Căn là phần chủ động, có khả năng duyên được với trần, c̣n trần là phần bị động "được duyên" với căn. Nhờ có căn phù trần và tịnh sắc, nên con người mới có thể nhận biết các cảnh vật chung quanh trong sự sống hằng ngày.

Nếu không có căn, dĩ nhiên không có thức, th́ con người không phải là con người. Họ không sáng tác, xây dựng, cải cách, tiến hóa, và thế giới này phải là thế giới "chết", mờ mịt không có ư nghĩa.

Nếu không có trần, con người cũng không sống nổi. Ngoại cảnh là trường hoạt động của con người. Nó dạy khôn dạy khéo cho con người trong cuộc sinh hoạt và làm cho con người có ư thức về cuộc sống của ḿnh.

Thức lại tác động vào căn và trần làm cho cuộc sống càng thêm tiến bộ, sung túc thịnh vượng.

Ba thứ này ảnh hưởng lẫn nhau như cây quẹt, chất điện và đốm lửa. Sự liên quan này chứng minh một cách hùng hồn sự không độc lập của sắc pháp và tâm pháp, cả về phương diện cá thể lần phương diện tổng thể.

Mười tám giới này, như đoạn đầu đă nói, gồm cả thế giới và nhân sinh, cả vật vô t́nh và vật hưũ t́nh. Một khi chúng đă không tự lập, th́ trong vũ trụ này, không có một vật ǵ, kể cả con người, cả cái ngă, do chúng cấu tạo ra lại có thể biệt lập, thuần nhất được.

2. Quán sát sự giả dối của căn, trần và thức. Phần trên, chúng ta thấy cái ngă không thể do tổng hợp của căn, trần và thức mà có được một cách thuần nhứt. Đến đây, chúng ta sẽ đi sâu vào một tầng nữa, quán sát xem cái ngă có thể có trong một phần nào của căn, trần và thức năng?

a) Sáu căn là ngă chăng? Trước tiên, chúng ta hăy xét bản chất của sáu căn là ǵ? Chính là một khối xương da máu thịt, hợp lại có trật tự, có tổ chức, chứ không ǵ khác. Mà đă là thịt da, xương máu th́ không có ǵ là bền bỉ, thuần nhất. Từ "khi trắng răng đến thuở bạc đầu", thử xem con người đă mấy lần thay đổi. Và sau một trăm năm, thử hỏi thể xác ấy sẽ c̣n lại ǵ, ngoài "nắm cỏ khâu xanh ŕ"?

Giả sử có một cái ngă ở sáu căn, th́ thử hỏi:

Nếu cái ngă ở nơi mắt, th́ năm căn kia không phải là ngă. Nếu cái ngă ở nơi tai, th́ năm căn kia không phải là ngă. Lần lượt xét cả sáu căn, chúng ta không thể nói được cái ngă ở một phần nào trong sáu căn.

Nếu cho rằng sáu căn đều là ngă, th́ thành ra con người có đến sáu cái ngă. Nói thế chắc không ai công nhận được.

C̣n nếu bảo rằng: Do sáu căn ḥa hợp mà có cái ngă, th́ với trái với định nghĩa về cái ngă, là thuận nhất, bất biến. vả lại khi đă cho rằng cái ngă do nhièu thứ hợp lại, th́ cũng phải công nhận luôn là cái ngă ấy là không thật, là giả hợp.

Do đó, Duy thức học bảo "nhân vô ngă".

b) Sáu trần là ngă căn? Trần với căn không khác ǵ mấy. Căn đă không tự tại trong cuộc sinh tồn, th́ trần làm sao đứng vững, c̣n hoài.

Giả sử, "ngă" nằm trong sắc, th́ trên thế giới này phải không có sự đổi trắng, thay đen. Như hoa nở rồi tàn, hết ngày rồi đêm, băi bể biến thành vườn dâu, cuộc đổi thay đă bày rành rành ra trước mắt.

Vậy "ngă" nằm trong thanh chăng? Cũng không có lư. Thanh không bao giờ tự nhiên mà có. Nếu có không do vật hữu t́nh phát ra, th́ cũng do sự va chạm của những vật vô t́nh mà có. Như thế, thanh rơ ràng là một pháp hữu vi, có tạo tác. Mà đă là hữu vi, th́ thế nào cũng vô thường. Vả lại, vật sinh ra nó là sắc kia đă là vô ngă, vô thường, th́ nó không thể nào thường, là ngă được.

Cho đến hương, vị, xúc, pháp cũng đều là vô thường, vô ngă như sắc, thanh cả. Chúng chỉ như làn gió thoảng qua, như màn sương phảng phất, đă vô h́nh lại bất định, nên sự vô ngă của chúng lại càng rơ rệt hơn sắc, thanh nhiều.

c) Sáu thức là ngă căn? Như đoạn trên đă nói, thức là sự nhận biết do căn và trần đối nhau mà có. Điều ấy đă chứng minh rằng thức không thật có. Nói một cách đơn giản th́ thức là do căn và trần đối nhau mà thành, nhưng nếu chia chẽ một cách rốt ráo theo duy thức học, th́ thức sỡ dĩ có được c̣n là nhờ nhiều nhâ duyên khác nữa. Chẳng hạn như nhăn thức, sanh khởi được là nhờ chín duyên sau đây:

Không: là khoảng trống không, cách biệt giữa căn và cảnh vật.

Minh: là ánh sáng soi chiếu bởi mặt trời, trăng, sao, hay đèn đóm.

Căn: là chỗ nương tựa của thức.

Cảnh: là các sự vật mà căn duyên được.

Tác ư: là sự mong muốn được thấy.

Phân biệt y: là chỗ nương để phân biệt, tức là ư thức, hay thức thứ sáu.

Nhiễm tịnh y: là thức thứ bảy hay là tiềm thức.

Căn bản y: là thức thứ tám.

Chủng tử: bản năng sẽ được phát sinh.

Để có một ư niệm rơ ràng hơn về nhăn thức, chúng tôi xin giảng giải chín duyên trên ra như sau:

Khi mắt ta thấy một vật ǵ, nó phải ở cách vật ấy gần hay xa (không ), khi thấy là ban ngày, hay ban đêm có trăng, sao, hoặc pha đèn (minh). Sự thấy ây dĩ nhiên là phải từ con mắt mà có (căn) và đồng thời, lúc đó phải có vật ǵ mới thành sự thấy (cảnh). trước lúc thấy, ta đă có ư muốn ngó rồi (tác ư). Tác ư đây lại do ư thức đă khởi động trước (phân biệt y). ư thức lại phải nương thức thứ bảy, v́ là căn của nó (nhiễm tịnh y). Thức thứ bảy lại luôn luôn và chấp thức thứ tám là ngă (căn bản y). Thức này lại là nơi dung chứa các thức chủng tử. Chủng tử là cái nhơn chánh để có ra sự vật.

Xét từ trong đến ngoài, từ duyên đầu đến duyên chót, nhăn thức đă không có mảy may ǵ là chơn thật cả. Các thứ kia như nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức cũng như vậy cả; nhưng ít duyên hơn, như nhĩ thức th́ chỉ có tám duyên (v́ không có Minh: nghe không cần có ánh sáng). C̣n tỹ, thiệt và thân thức, th́ chỉ bảy duyên (v́ không cần có Minh và Không). Ư thức th́ chỉ có năm duyênm, là: căn, cảnh, tác ư, căn bản y, chủng tử.

Xem thế th́ đủ rơ sáu thức đều là không thật, nghĩa là cũng vô ngă như sáu căn và sáu trần.

Tóm lại, từ căn thân cho đến thế giới, gồm trong mười tám giới, đều không thật có, không thật ngă. Hành tướng do nhân duyên ḥa hợp th́ có, những thật thể th́ hoàn toàn không.

IV. Hiệu Quả của Pháp Quán Giới Phân Biệt 

Pháp quán giới phân biệt có công năng phá tan cái ngă không c̣n manh giáp. Cái ngă đă bị tấn công đủ mọi mặt, từ ngoài vào cho đến tận sào huyệt, và cuối cùng, bị phân tán, chia xẻ, phanh phui cho đến mảy mún. Từ trước đến nay, cái ngă chấp sỡ dĩ hoành hành được là nhờ núp vào bóng tối của si mê. Từ nay phán quán giới phân biệt như là một ngọn đèn pha chiếu sáng cả ṿm trời u tối làm cho cái h́nh bóng giả dối là cái ngă cũng tan biến như,ấy khói. Ngă chấp đă không c̣n, th́ ngă ái, năg mạn cũng không biết nương tựa vào đâu để tồn tại. Nói một cách khác, phiền năo, ác nghiệp, khổ đau, do ngă chấp mà sanh. Nay ngă chấp đă bị diệt, th́ phiền năo khổ đau cũng sẽ hết. Phiền năo, khổ hết th́ an vui, tự tại tức thời hiện ra. Đó là cái kết quả chắc chắn thật đầu tiên của pháp quán giới phân biệt.

Rồi từ sự an vui, tự tại tương đối ấy, hành giả sẽ cố gắng tiến dần trên đường đạo. Càng tiến, hành giả càng sáng suốt thêm, càng nhận rơ thêm chân lư. Hành giả sẽ dần dần chứng được các quả vị Tu đà hoàn, Tu đà hàm, A na hàm, A La Hán. Nhưng hành giả cũng không dừng lại ở các quả vị ấy. Hành giả không cố chấp ở quả vị đă chứng được của ḿnh, do đó sẽ giải thoát được tam giới, làm bực Thanh văn, Duyên giác.

Nếu hành giả cố gắng tu thêm, đến khi không c̣n chấp trước các pháp ḿnh tu, mà chỉ coi đó như là ngón tay chỉ mặt trăng, như liều thuốc trị bệnh, chỉ cần trong lúc đau, nếu cố gắng tu được như thế, th́ hành giả sẽ đến bực "Vô trí, vô đắc", tức là chứng được đạo quả vô thượng Bồ đề.

C. Kết Luận

Chúng ta đă thấy rơ công năng, diệu dụng và hiệu quả tốt đẹp của pháp giới phân biệt. Những thấy được ,mặc dù dă là quư, mà làm được mới thật là quư hơn. Trong trên, chúng tôi đă hai ba lần nhấn mạnh ở những chữ "nếu cố gắng..."Thật thế, nếu không cố gắng th́ đâu sẽ hoàn đó, và cái ngă, mặc dù giả dối, vẫn c̣n tồn tại mănh liệt và tác oai, tác quái như thường. Cái chấp ngă được tạo dựng và củng cố từ muôn ngàn kiếp, mối khi một ít, những lâu ngày trở thành rắn chắc, như những vỏ nghêu, vỏ ốc bám vào mơm đá. Ngày nay chúng ta được may mắn đức Bổn sư chỉ bày pháp quán giới phân biệt, để cho chúng ta thấy được cái giả tướng của nó. Những đâu phải chỉ quán năm bảy lần, hay vài ba chục lần là thành tựu? Cái ngă được bồi đắp lâu đời lâu kiếp, th́ công phu tu luyện để phá trừ nó cũng cần phải nhiều thời gian. Lư trí có thể chấp nhận dễ dàng không có thật ngă, nhưng t́nh cảm đâu có chấp nhận dễ dàng như thế? từ trước đến nay ta đang tin tưởng quí chuộng, cưng dưỡng cái ngă, bỗng hôm nay có người bảo rằng nó không có, nó không thật, th́ thế nào t́nh cảm cũng nổi dậy phản dối, bịt tai không muốn nghe, bịt mắt không muốn thấy. Ta phải cần nhiều kiên nhẫn lắm, may ra mới thuyết phục được t́nh cảm. Những trận giặc chiến đấu với cái ngă, đến giai đoạn này, đâu phải đă chấm dứt ! Cái ngă chưa đầu hàng mà lui vào sào huyệt sâu kín nhất, vào "mật khu" nguy hiểm nhất là tiềm thức hay nói theo danh từ Duy thức học là thức thứ bảy. Sự chấp ngă ở đây có một h́nh thức toàn diện, vô cùng bén nhậy, như trong mật khu của mỗi người dân, từ trẻ đến già, từ đàn ông, đàn bà đến con nít, là một chiến sĩ; và khoảng đất, mỗi lùm cây mỗi cành lá là một cạm bẫy làm trở ngại rất lớn cho sự chiến đấu chống cái ngă. Sự chấp ngă của tiền thức hay vô thức diễn ra trong mỗi cử chỉ mỗi hành động, trong thức cũng như trong khi ngủ, trong khi lành mạnh cũng như trong khi mê sảng, trong khi sống cũng như trong khi chết (theo thần0thức và đi đầu thai). Lực lượng của địch (chấp ngă) mạnh mẽ và hùng hậu như thế đấy. Chúng ta cần phải hiểu rơ trước khi chiến đấu. Biết ḿnh, biết người, trăm trận trăm thắng.

Chúng ta không bao giờ được phép khinh địch. Phải chuẩn bị đầy đủ trước khi chiến đấu. Và trong khi chiến đấu phải quyết tâm và kiên nhẫn. Với hai điều kiện căn bản ấy, chắc chắn hành giả sẽ thành công trong cuộc chiến đấu, dẹp tan cái ngă tên giặc nguy hiểm nhất trong mỗi chúng ta, và cầm đầu các tên giặc khác là: tham, sân, si. Trừ được tên đầu đảng này là hành giả đă hoàn toàn thành công trong trận giặc chống phiền năo, khổ đau và bắt đầu bước lên đài giải thoát

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]