[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


Khóa Thứ Tư: Duyên Giác và Bồ Tát Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 9

Bốn Món Tâm Vô Lượng

 

A. Mở Đề

Đứng về phương diện tuyệt đối, hay chơn như môn, th́ tâm của chúng sinh hay tâm của Phật cũng vẫn là một, không có rộng hẹp, thấp cao, sai khác, ngăn cách.

Nhưng đứng về phương diện tương đối hay sinh diệt môn, th́ tâm có muôn h́nh vạn trạn, tùy theo chủng tánh của chúng sinh mà có cao thấp, rộng hẹp không đồng. Hễ nghĩ đến tham, sân, si, mạn v.v...th́ tâm trở thành nhỏ hẹp, lớn bé, ngàn sai, muôn khác,cũng như cùng một thứ bột mà do người thợ làm bánh, khéo hay vụng mà có bánh ngon, bánh dở, bánh tốt, bánh xấu, bánh lạt, bánh mặn v.v...Cho nên Tôn cảnh Lục có chép: " Tâm tạo chư Phật, tâm tạo chúng sinh, tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục. Tâm vọng động th́ ngàn sự sai biệt tranh khởi, tâm b́nh th́ thế giới thản nhiên, tâm phàm th́ ba món độc trói buộc, tâm thánh th́ sáu món thần thông tự tại, tâm không th́ nhứt đạo thanh tịnh, tâm hữu th́ vạn cảnh tung hoành. Tự ḿnh đạp mây mà uống nước cam lồ, chẳng có ai cho ḿnh. Nằm trong lửa hừng mà uống máu mủ cũng tự ḿnh gây nê, không phải trời sanh ra, cũng không phải do đất mà có ".

Xem thế th́ cũng đủ biết tâm là động lực chính để làm cho ta sướng hay khổ, vui hay buồn, trầm luân hay giải thoát.

Vậy muốn thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh nhân, Bồ Tát, chúng ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn, một "vô lượng tâm".

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa

Vô lượng là ǵ? Vô lượng nghĩa là nhiều, rộng lớn, không thể lường tính được.

Tâm vô lượng là tâm vô cùng rộng lớn thoát ra khỏi sự ràng buộc của các thứ phiền năo đê hèn của phàm phu, phá vỡ được các thứ quan niệm chấp trước hẹp ḥi của Nhị thừa, là tâm có một vùng thương yêu rộng lớn có thể bao trùm đến vô lượng chúng sinh, và t́m phương cứu cho tất cả. Vô lượng tâm cũng có nghĩa là "Đẳng tâm", cái tâm b́nh đẳng, phổ biến; b́nh đẳng, v́ tâm này chỉ tự nhiên, không phân biệt so đo thấp cao, hơn kém; phổ biến, bởi nó trang trải mọi nơi chẳng khu biệt, giới hạn.

Và dĩ nhiên, nhân nào quả nấy: do thi hành b́nh đẳng, phổ lợi cho vô lượng chúng sinh, nên chi tâm này có công năng dẫn sinh vô lượng phước đức, làm cho sự kiện căn bản để cảm thành vô lượng quả báo tốt đẹp, ấy là quả vị Bố tát và Phật đà.

Hơn nữa, tâm này không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, dẫn sinh vô lượng phước đức, và tạo thành vô lượng quả vị tốt đẹp trong một thế giới và trong một đời, mà c̣n lan rộng ra đến vô lượng thế giới trong vô lượng kiếp sau này, và tạo thành vô lượng chư Phật.

Tóm lại, chữ vô lượng ở đây hàm ngiều nghĩa, vô lượng nhân lành, vô lượng quả đẹp, vô lượng chúng sinh, vô lượng thế giới, vô lượng đời kiếp, vô lượng chư Phật và Bồ Tát.

II. Thành Phần Và hành Tướng 
Của Bốn Món Tâm Vô Lượng 

Tâm vô lượng gồm có bốn phần là: bi vô lượng, từ vô lượng, hỷ vô lượng và xả vô lượng.

1. Bi vô lượng. Bi là ḷng thường xót rộng lớn trước những nỗi đau khổ của chúng sinh và quyết tâm làm cho dứt trừ những đau khổ ấy. Nhưng chúng ta đă học trong khóa thứ ba nói về Tứ đế, cái khổ của chúng sinh thật là mênh mông, rộng lớn không thể nói hêt. Nó bao trùm cả nhân lẫn quả, cả thời gian lẫn không gian, cả phàm lẫn thánh, thật đúng là vô lượng khổ.

Khổ nằm trong nhân. Trong các kinh điển thường có câu: "Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả". Chúng sinh v́ không sáng suốt cho nên chỉ khi nào quả khổ hiện ra mới lo sợ, chứ trong khi đang gây nhân th́ lại không nhận thấy, mà vẫn cứ thản nhiên như không. Họ đang sống trong cảnh khổ mà họ không biết, nhiều khi lại là cho vui. Họ hoan hô tán thán và khuyến khích nhau gây khổ mà cứ tưởng là vui, như những đứa trẻ quẹt diêm quăng lên mái nhà lá, rồi vỗ tay reo mứng với nhau. V́ thiếu sáng suốt cho nên đôi khi họ gây khổ để cứu khổ, chẳng khác ǵ làm cho đỡ khát bằng cách uống nước mặn.

Khổ nằm trong quả. Đă gây nhân quả, th́ tất phải chịu quả khổ, đó là lẽ tất nhiên. Có ai trồng khoai mà được đậu bao giờ? Thế mà người đời ít ai chịu công nhận như thế. Người ta oán trời trách đất, rren khóc thảm thiết, làm cho cơi đời đă đen tối lại càng đen tối thêm, cuộc sống đă khổ sở lại càng khổ sở thâm.

Khổ sở bao tùm cả thời gian. Từ vô thỉ đến nay, cái khổ chưa bao giờ dứt, mà cứ trông thêm lên măi. Nó gây nhân rồi lại kết quả, kết quả rồi lai gây nhân, cứ thé tiếp tục măi trong một ṿng lẩn quẩn, nmhư bánh xe lăn tṛn trên đường thiên lư, không bao giờ dừng nghỉ.

Khổ bao trùm cả không gian. Cái khổ không có phương sở và quốc độ; ở đâu có vô minh th́ ở đó có khổ ! Mà vô minh th́ như một tấm màn vô tận, bao trùm không chỉ một thế giới khác nữa. Khoảng không gian mênh mông vô tận như thế nào, th́ nỗi khổ đau cũng mênh mông vô tận như thế ấy:

Khổ chi phối cả phàm lẫn thánh. Chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, sauc sanh đă đành là khổ vo cùng, loài người v́ say đắm nguc dục lạc, và tham sân, si chi phối, nên cũng quay cuồng lặn hụp trong biển khổ như c̣n chư thiên mặc dù không khổ như người, nhưng cũng không tránh được cái khổ v́ ngũ suy tướng hiện. Cho đến các hàng thánh như Thanh Van, Duyên giác, v́ c̣n mê pháp, trụ trước Niết Bàn, nên cũng không tránh khỏi nỗi khổ biến dịc sanh tử. Xem thế đủ biết nơi khổ thật là lớn lao vô lượng. Có được một ḷng thương xót lớn lao vô lượng cân xứng với nỗi đau khổ vô lượng và có một chi nguyện cứu độ tất cả thoát khỏi nỗi đau khổ vô lượng, ấy là tâm Bi vô lượng.

Các vị Bồ Tát nhờ có ḷng đại bi nên đă phát tâm bồ đề rộng lớn, thệ nguyện độ khắp tất cả. Các Ngài nhận thấy ḿnh có sứ mạng vào trong sah tử để hóa độ chúng sinh, nên không chấp trệ ở Niết Bàn. Sứ mạng chính của các Ngài là gần gũi chúng sanh để:

Làm cho chúng sanh nhận được mặt thật của cơi đời, rơ thế nào là tà là chánh, là khổ là vui.

Làm cho chúng sanh nhận rơ được thân phận của ḿnh mà thôi làm các điều ác, chừa các điều tội lỗi.

Xem như thế đủ biết ḷng đại bi chính là động lực chánh để đi đến quả vi bỗ tát và Phật. Trong đại hội Hoa Nghiêm đức bồ tát Phổ hiền cũng tự nhận và nói như thế này: "Nhơn v́ chúng sanh mà khởi ḷng đại bi. Nhơn ḷng đại bi mà phát tâm bồ đề. Nhơn phát tâm bồ đề tiến thành ngôi chánh giác".

Câu nói của Ngài Phổ Hiền đă rơ ràng, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Phật đă dạy: "Hạt giống Bồ đề, không thể gieo trên hư không, chỉ trồng trên đát chúng sinh mà thôi". Vậy, chúng ta là Phật tử, muốn tu bồ tát hạnh, tất phải mở rộng ḷng Bi, thương xót tất cả, không phân chia nhân, ngă, bỉ, thử, và phải phát nguyện độ khắp tất cả, nghĩa là phải tu luyện cho có được một ḷng Bi vô lượng.

2. Từ vô lượng. Từ là mến thương và v́ mến thương mà gây tạo cái vui cho người. Từ vô lượng là ḷng mến thương vô cùng rộng lớn, đối với toàn thể chúng sanh, và gây tạo cho chúng sanh cái vui chân thật.

Vui của thế gian sở dĩ gọi là giả tạm, v́ cái vui ấy không bền, cái vui ấy c̣n phiền năo chi phối: khi tham, sân, si, mạn được thỏa măn th́ vui, nhưng có bao giờ những thứ dục vọng ấy có thể thỏa măn được hoàn toàn và lâu bền đâu?

C̣n vui xuất thế gian là cái vui chân thật, v́ nó lâu bền, thoát ra ngoài ṿng phiền năo của tham, sân, si, mạn; nó không bị dục vọng chi phối. Cái vui này không ồn ào, sôi nổi nhưng vĩnh viễn nhẹ nhàng, v́ là cái vui của cảnh giới giải thoát siêu phàm.

Muốn có được cái vui này, th́ trước tiên phải dứt trừ cho hết các khổ do phiền năo gây ra. Nếu không ngăn chặn được tham,sân, si hoành hành, th́ chỉ có thẻ có được mmọt cái vui nhất thời giả dối.

Bởi thế, các vị Bồ Tát muốn ban vui cho chúng sanh, th́ trước tiên phải có ḷng từ bi vô lượngnhư đă nói trên, để luôn luôn răn nhắc chúng sanh đừng gây tội d́u dắt chúng sanh tránh xa những hố hầm nguy hiểm.

Qua các giai đoạn ầu tiên ấy rồi, các Ngài mới hướng dẫn chúng sanh đi lên con đường quang minh chánh đại, con đường sáng để tiến địa vị giải thoát mà hưởng cái vui vĩnh viễn. Nói mọt cách rơ ràng hơn là ḷng Từ phải đi theo ḷng Bi: Bi để chỉ nguyên nhân của đau khổ và khuyên bảo chúng sanh đừng gây nhân khổ; Từ để chỉ rơ phương pháp diệt khổ và được vui.

Tỷ dụ Bồ Tát muốn cho chúng sanh hưởng cảnh Niết Bàn, th́ trước hết các Ngài chỉ cho biét thế nào là khổ (khổ đế) và đâu là nhơn của khổ (tập đế), sau mới chỉ cho thấy cái vui Niết Bàn như thế nào (diệt đế). Nếu chúng sanh y theo lời dạy của các Ngài mà thi hành, th́ cái vui Niết Bàn sẽ xuất hiện. Như thế, động lực dạy cho chúng sanh biết khổ đế và tập đế là Bi, c̣n động lực dạy cho chúng sanh biết diệt và đạo đế là Từ.

Nhưng nói khỏ của chúng sanh đă là vô lượng, ḷng Bi đă là vô lượng, th́ ḷng Từ cũng phải như thế. Muốn thành tựu tâm Từ này, Bồ Tát phải dùng đủ phương tiện để làm lợi lạc cho chúng sanh. Tựu trung có hai điểm quan trọng sau đây mà Bồ Tát không thể bỏ qua trong khi hóa độ chúng sanh là: Tùy cơ và tùy thời.

Tùy cơ: Nghăi là quan sát tŕnh độ căn bản của chúng sanh như thế nào rồi tùy theo đó mà dạy bảo. Tâm bệnh của chúng sanh vô lượng, nên thuốc pháp của Bồ Tát cũng vô lượng. Nhưng chính v́ bệnh vô lượng mà thuốc cũng vô lượng nên cho thuốc đúng với bệnh là một điều mà chỉ có các vi lương y đại tài như Hoa Đà, Biển Thước mới làm được.

Các vị bồ tát sở dĩ hóa độ được nhiều chúng sanh là nhờ, ngoài trí huệ sáng suốt, c̣n có một tâm Từ vô lượng, không quản khó khăn, không nagị gian nguy, một ḷng kiên nhẫn vô biên như lụ̣ng kiên nhẫn của người mẹ đối với người con, quyết tâm tác thành cho con nên người mới thôi. Nếu không có được trí huệ, chí kiên nhẫn và nhất là ḷng từ bi vô lượng như các vị bồ tát th́ kho tránh khỏi cái nạn thối chuyển v́ trần sa hoặc.

Dưới đây là một đoạn văn chương trong Kinh Hoa Nghiêm có thể chứng minh một cách hùng hồn ḷng Từ vô lượng của đức Phổ hiền:

"...Hằng thuận chúng sanh là như thế nào? Nghĩa là có bao nhiêu chúng sanh ở cơi nước mười phương trong cả pháp giới, hư không giới...tôi đêù tùy thuận mà chuyển mọi thứ thừa sự, mọi cách cúng dường, như ḱnh cha mẹ, như phụng sự sư trưởng và A La Hán cho đến bực như lai đều đồng không khác. Với kẻ bịnh khổ th́ làm lương y cho họ, với kẻ lạc đường, chỉ lối thẳng cho họ, với kẻ trong đêm tối, làm cho họ được sáng lên và với ke nghèo cùng, khiến cho họ được gặp của...Bồ Tát làm lợi ích b́nh đẳng với tất cả chúng sanh như thế là v́ ḅ tát nhận thấy rằng tùy thuận chúng sanh tức là tùy thuận cúng dường chư Phật nên tôn trọng thừa sự chúng sanh tức là tôn trọng thừa sự Như lai..".

Tùy thời. Tức là thích ứng với thời đại với giai đoạn mà hóa độ chúng sanh. Thời gian xoáy vần cuộc thế biến chuyển mỗi khi một khác. Thời tiết có khi mưa, khi nắng, thay đổi theo bốn mùa, th́ ḷng người cũng có khi thích cái này khi ưa cái khác. Nếu phương pháp hóa độ không biến chuyển, không thay đổi để cho thích nghi với hàon cảnh, với giai đoạn th́ phương pháp dù hay ho bao nhiêu, cũng chẳng thu được kết quả ǵ tốt đẹp. Bồ Tát hiểu rơ như thế, nên khi dạy chúng sanh cũng phải theo thời thế, biết khi nào là tượng pháp, khi nào mạt pháp để cho giáo pháp được thích hợp với căn cơ.

Tóm lại, muốn hóa độ chúng sanh một cách có hiệu qủa th́ Bồ Tát bao giờ cũng không quên hai điều chính là tùy cơ và tùy thời. Kinh "Tâm Địa Quán" cũng có dạy:

" Các đức Phật chuyển pháp luân, vẫn tùy cơ mà nói pháp, bao giờ cũng tránh bốn điều sai lạc; một là nói không phải chỗ; hai là nói không phải thời; ba là nói không phải là căn cơ; bốn là nói không phải pháp".

Bởi những lẽ trên nên Bồ Tát trong lúc hóa độ khi th́ hiện thân, khi th́ ẩn thân lúc làm thuận hạnh, lúc lại nghịch hạnh, khi dùng oai dũng, lúc lại Từ ḥa. Công hạnh của bồ tát sai khác nhiều đến vô lượng, nhưng chỉ phát sinh từ một ư duy nhất là tạo cái vui chân thật cho chúng sanh.

Nên nhớ "tạo cái vui chân thật" ở đây, không có nghĩa là tạo ra cảnh giới thiên đàng hay cảnh giới cực lạc để cho những chúng sanh thân yêu của ḿnh vào hưởng, như người ta ban phép lạ, mà chỉ có nghĩa là tạo cho chúng sanh cái mầm an vui chân thật bằng cách thức tỉnh dắt dẫn chúng sinh tránh các điều dữ làm các điều lành một cách tích cực mạnh mẽ, cho đến khi cái mầm vui, nhự các hành động lành ấy mà kết quả vui mới thôi.

Đấy, ḷng Từ vô lượng là thế. Như trên đă nói Từ phải đi theo với B. Nếu chỉ có Bi không, th́ đại nguyện của Bồ tát chưa thành, v́ mới chỉ cứu hkổ, chứ chưa ban vui. Chúng ta là Phật tử, muốn tu hạnh Bồ Tát phải luyện tập cho ḷng Từ mở rộng, mở rộng măi cho đến vô lượng vô biên.

3. Hỷ vô lượng. Hỷ là ǵ? Nói cho đúng là tùy hỷ, nghĩa là "vui theo". "Vui theo" có nhiều cách:

Phóng tâm vui theo những cảnh trần: nào sắc, nào thanh, nào hương, nào vị, nào xúc, nào pháp..để mặc cho nó làm chủ, không biết phản giác, không biết tỉnh ngộ mà dẹp trừ những hiện hành phiền năo, ấy là vui theo dục vọng, theo thói quen phóng túng của ḷng phàm.

Vui theo ác nghiệp, như khi thấy một người sát sanh, uống rượu, trộm cướp..đáng lẽ ta nên khuyên can mà lại không, c̣n bằng ḷng theo họ đi vào con đường ác. Sự vui theo ở đây có nghĩa là khuyến khích đồng lỏa với kẻ ác vậy.

Vui theo những việc nhưon từ phước thiện, như khi thấy người đem của ra bố thí, lập nhà thương, ta tán thành, gíup đỡ vui theo với công việc của họ.Sự vui theo này là một bước tiến đi đến con đường thiện nghiệp. Tuy thế, ta nên phân biệt hai trường hợp tốt sẽ được nhiều phước báo, c̣n nếu không v́ ḷng thiện, nhưng v́ thấy người làm thiện được người ta ca tụng, danh tiếng vang lừng mà ḿnh cùng hùa theo tán thành, giúp đỡ để được tiếng khen lây, th́ không khéo chỉ gây thêm ngă ái ngă mạn.

Khác với những lối vui trên, là những lối vui tầm thường của thế gian, hàng Nhị thừa chỉ vui theo cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh. Thứ vui theo này, tuy không có tánh cách trụy lạc ác độc, nhưng theo chánh giáo, th́ cũng c̣n hẹp ḥi, thiếu ḷng Từ bi rộng răi và chưa phải đúng nghĩa "hỷ" vô lượng tâm. Đức Phật c̣n quở đó là cái vui "Khôi thân diệt trí" hay "thu tịch Niết Bàn".

Chỉ có sự "vui theo" sau đây của Bồ Tát mới đúng với nghĩa tâm Hỷ vô lượng.

Trong khi thật hành phương tiện Từ bi để độ sinh và sau khi công hạnh này được kết quả, nhận thấy chúng sinh hết khổ, hưởng vui, tâm của Bồ Tát tự nhiên cũng vui theo. Trong luận Đại Thừa Trang nghiêm Ngài Trần Na Bồ Tát dạy rằng: "Sự vui này c̣n nhiều gấp bội sự vui của chúng sinh được hưởng". Bồ tát c̣n xác nhận rằng:"Nếu làm chúng sinh được vui, tức làm cho tất cả chư Phật được vui mừng". Đó là lời nói của đức Phổ Hiền.

Nên nhớ cái "Hỷ" của bồ tát có những đặc điểm sau đây:

Chẳng những không làm cho chúng sinh mê lầm mà c̣n giác ngộ cái mê và được giải thoát.

Không c̣n bị buộc trong ṿng vui tự đắc làm tăng trưởng ngă mạn, chấp trước ở thế gian, mà trái lại, làm cho chúng sinh xuất thế.

Thoát ra khỏi phạm vi tư lợi mà phổ biến và b́nh đẳng đối với tất cả chúng sinh. Tóm lại, sự vui ở đây bắt nguồn từ ḷng Từ bi mà phát ra. Ḷng Từ bi rộng lớn bao nhiêu th́ cái "hỷ" này cũng rộng ớn như thế.

Chúng ta là Phật tử, tu hạnh Bồ tát, chúng ta phải tập cho được cái vui trong sạch, giải thoát của các vị bồ tát, chứ đừng quay cuồng theo cái vui nhiễm ô ích kỷ, hẹp ḥi của phàm phu hay hàng Nhị thừa.

4. Xả vô lượng. Xả là cái ǵ? Xả là bỏ, không chấp không kể.

Thói thường, khi chúng ta làm điều ǵ, nhất là khi được két quả tốt, thia hay tự hào, đắc chí đôi khi ngạo nghể kho chịu. Sự bất b́nh, căi vả xung đột giữa bạn bè thân thuộc hay giữa nhóm này và nhóm khác cũng do tánh chấp trước. tự cho là quan trọng ấy. Nguyên nhân của tánh nầy là do sự chấp ngă, chấp pháp mà ra.

Phàm phu th́ vừa thấy có ḿnh làm (chấp ngă) vừa thấy có công việc kết quả ḿnh đạt được (chấp pháp) nên cứ bị trói buộc trong cái giới hạn phân chia nhân năg, bỉ thử và do đó, không bao giờ thoát được cảnh giới phàm phu.

C̣n hàng Nhị thừa tuy đă xả được chấp ngă, nhưng chưa xả được chấp pháp. Sau khi nhờ tu tập, các Ngài thoát ly được tam giới chứng được quả Hữu dư y Niết Bàn, các Ngài coi như đó là phần thưởng xứng đáng của bao công phu tu tập và yên trí nơi cảnh giới sở đắc ấy. Do đó, hàng Nhọ thừa vẫn c̣n bị biế dịch sanh tử.

Chỉ có các vị bồ tát là những bậc chừn được pháp không, nên đă ly khai quan niệm pháp chấp. Khi các Ngài ra công cứu khổ cho chúng sinh, th́ đó là một sự cảm ứng tự nhiên, giữa các Ngài với chúng sinh, các Ngài dùng trí hoàn toàn vô phân biệt để được b́nh đẳng phổ biến theo đồng thể đại bi.

Chúng sinh có hưởng được vui chăng, Bồ tát không thấy ḿnh là kẻ ân nhân chủ động. Trai lại, các Ngài c̣n thấy chúng sinh là ân nhân của ḿnh trên bước đường lợi tha tiến đến công hạnh viên măn. Bởi thê, ḷng Từ, ḷng Bi của Bồ Tát thoát khỏi ṿng ái kiến và trụ trước, túc là xả vậy. Đến như ḷng "Hỷ" cũng thế, Bồ Tát vui ḷng từ bi, thấy chúng sinh được vui chứ không phải lối vui tự đắc, vui v́ thàh thật tán thán công đức chung cùng chư Phật, chư Bồ tát và chúng sinh, chứ không phải vui v́ dắm miếng riêng tư. Cho nên tâm tùy hỷ đây cũng hoàn toàn giải thoát, nghĩa là cũng thanh tịnh trên tinh thần "Xả".

Như vậy, Xả là một tâmlượng quảng đại cao cả. ở đó, không kiến lập một tướng nào. Ke fần Ngài xa đeù b́nh đẳng, kẻ trí người ngu vẫn như nhau, ḿnh và người không khác; làm tất cả mà thấy như không làm ǵ cả; nói mà thấy ḿnh có nói ǵ cả, chứng mà không thấy ḿnh có chứng và quả ǵ được.Cho nên trong kinh Tú thập nhị chương có chép "Niệm mà không chấp nơi niệm mới là niệm, hành mà không chấp nơi hành là hành, nói mà không chấp nơi nói mới là nói, tu mà không chấp nơi tu mới là tu. Lư hội nghĩa ấy là gần đạo, mê mờ không rơ là xa đạo".

Làm như thế tức là Xả: Xả hết tất cả mới thật là Bồ tát. Nếu c̣n chấp một tướng ǵ, dù nhỏ nhặt bao nhiêu cũng chưa phải là Bồ tát. Hăy nghe trong kinh Kim Cang Phật dạy ông Tu Bồ Đề. "Này ông Tu Bồ Đề, nếu có vị Bồ Tát c̣n tướng ngă, tướng nhưon, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, tức chẳng phải là Bồ Tát".

Ư nghĩa chữ Xả đă rơ ràng. Bây giờ chúng ta chỉ c̣n cố gắng tu tập dần dần cho được cái tâm xả ấy. Thành tựu được cái Xả một cách hoàn toàn cái Xả vô lượng tức là chứng quả Bồ đề.

III. Sự đối Trị Của Bốn Món Tâm Vô lượng 

Bốn món tâm vô lượng là bốn trạng thái của Tâm Bồ Tát, nhưng đó cũng là bốn pháp tu của những Phật tử tu hạnh Bồ tát.

Trong mỗi con người đều có hai xu hướng: xu hướng thiện và xu hướng ác. Hai xu hướng này cứ xung đột nhau luôn: hễ thiện thắng th́ ác lùi, hễ ác thắng th́ hiện lùi.

Khi ḷng Giận hừng hẩy, th́ tâm Bi bị lấn.

Khi ḷng sân bừng dậy, th́ tâm Từ bị che khuất.

Khi Ưu năo dẫy đầy, th́ tâm Hỷ không phát hiện.

Khi ḷng Ái dục c̣n nặng nề, th́ tâm xả không sanh.

Trái lại, khi tâm Bi lớn mạnh, th́ ḷng Hận phải yếu ṃn.

Khi tâm từ lan rộng, th́ ḷng sân phải lùi.

Khi tâm hỷ bừng lên, th́ ḷng Ưu năo phải dẹp xuống.

Sự chiến đấu với phiền năo cũng như sự chiến đấu với giặc cướp, phải tiếp tục măi cho đến khi toàn thắng mới dừng lại. Nếu chúng ta mới chiến thắng vài ba trận đă vội thỏa măn và dừng nghỉ, th́ giặp cướp sẽ tai phát và hoành hành trở lại.

Cũng thế, trong trận chiến đấu của Từ, Bi, Hỷ, Xat chống sân, hận, ưu, dục chúng ta phải tiếp tục thi hành cho đến toàn thắng, gnĩa là Bành trướng các đức từ, bi hỷ, xả cho đến vô cùng tận để sân, hận, ưu, dục hoàn toàn bị tiêu diệt mới thôi. Một khi bóng tối đang c̣n, là v́ ánh sáng chưa mạnh, muốn bóng tối hoàn toàn tiêu tan, th́ ánh sáng phải đủ sức chiếu soi cùng khắp. Khi từ bi, hỷ xả, đă trở thành vô lượng th́ phiền năo sẽ không c̣n và hành giả đạt đến quả vị Bồ tát. Đó là ư nghĩa "phiến năo tức là Bồ đề" mà Ngài Bồ tát Trần Na đă dạy trong Luận Đại Thừa Trang nghiêm.

C. Kết Luận

Chúng ta thướng nghe quen tai và nói quen miệng bốn tiếng "từ bi hỷ xả". Những chính v́ "quen" quá mà chúng ta không để ư phân tách ư nghĩa sâu xa của nó. Bốn đức tánh ấy có một sự tương quan mật thiết và bổ túc cho nhau, thiêu một không được:

V́ thấy chúng sinh vô cùng khổ sở, nên thương xót chúng sinh. V́ thương xót chúng sinh nên ra tay cứu chúng sinh khỏi khổ (Bi). Cứu chúng sinh khỏi khổ cũng chưa phải làm xong nhiệm vụ của t́nh thương, nên cần phải tiếp tục làm cho chúng sinh được vui (Từ). Khi chúng sinh hết khổ được vui, ḿnh mới vui được (Hỷ). Nhưng nếu cái vui này mà c̣n vướng ngă mạn, tụ đắc v́ tự cho ḿnh đă thành tựu những công hạnh lớn lao, th́ cái vui ấy trở thành ái dục, dơ bẩn nặng nề, kéo hành giả xuống hàng phàm phu. Vậy cái vui ấy cần phải là một thứ vui trong sạch, hoàn toàn xa ĺa các thứ chấp trước như nhân, ngă, bỉ, thử, chúng sinh, Bồ tát...(Xả).

Đó là về phần phẩm, c̣n nói về phần lượng th́ bốn đức tánh này cần phải rộng lớn vô cùng, hay nói theo danh từ thường dùng, là phải vô lượng. Có vô lượng mới đủ sức cứu độ chúng sinh cũng nhiều vô lượng. Có vô lượng mới lấn át tất cả những phiền năo và không cho chúng có đất sống để tái phát và nhiễu loạn.

Đó là hành tướng và ư nghĩa của bốn món Tâm vô lượng, hay của bốn đức: Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả, mà chúng ta thường tán thán mỗi khi niệm các danh hiệu Bồ tát hay Phật.

Phải công nhận rằng có được bốn món Tâm vô lượng không phải là dễ, mặc dù bốn đức ấy đă nămg sẵn trong bản tánh thanh tịnh của chúng sinh. Nhưng cùng đừng thấy khó mà lại chùn chân, lùi bước. Có công việc ǵ được thành công lớn lao, rực rỡ mà dễ dàng đâu?

Yếu tó quan trọng gíup cho sự thành công là sự quyết tam và ḷng kiên nhẫn. Người tu hành cũng như kẻ trèo núi. Đừng thấy núi cao mà nản chí, sơn ḷng. Trước tiên phải lập chí quyết trèo lên trên cho đến chót núi, rồi sau đó tuần tự kiên nhăn bước từng bước một, đừng hấp tấp và cũng đừng trễ nải th́ một ngày kia thế nào cũng đặt chân lên được chót núi cao.

Người tu hành cũng vậy, hăy phát bốn lời thệ nguyện lớn, ṛi cứ tuận tự, kiên nhẫn, mà tu tập theo những pháp môn Phật đă chế cho đến khi thành tựu mới thôi.

Cầu mong quí vị Phật tử đều phát tâm dơng mănh tu bốn món Tâm vô lượng.  

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]