[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


Khóa Thứ Tư: Duyên Giác và Bồ Tát Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 6

Lục Độ
Độ thứ nhất: Bố Thí Ba La Mật 

 

A. Mở Đề

Đạo Phật thường được gọi là Đạo Từ bi, v́ t́nh thương trong Đạo Phật rất bao la, sâu rộng. Đức Phật tổ v́ từ bi mà xuất gia để t́m đạo cứu khổ cho chúng sinh. Vậy người Phật tử, khi noi theo dấu chân Phật, cũng phải lấy từ bi làm động tác chính cho sự tu hành của ḿnh.

Những làm thế nào để thể hiện được ḷng từ bi và làm cho nó tăng trưởng? Phương pháp mầu nhiệm nhất là thực hành pháp môn Bố thí Ba la mật, một trong sáu pháp môn(lục độ) mà đức Phật đă chế ra cho kẻ tu hành có tâm trí rộng lớn thực hành để độ ḿnh và độ người ra khỏi biển sanh tử luân hồi và đến bờ giác ngộ.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa

Bố thí là cùng khắp: thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi.

Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita. Người Trung hoa dịch nghĩa là "Bỉ ngạn đáo", nói theo tiếng Việt là "đến bờ bên kia".

Bố thí Ba la mật, tức là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí, co công năng như một chiếc thuyền, đưa ḿnh và người từ bờ mê lầm của chúng sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật.

II. Thành Phần Của Bố Thí Ba La Mật 

Bố thí Ba la mật gồm các loại sau đây: Tài thí, Vô úy thí. Dưới đây chúng ta lần lượt t́m hiểu ư nghĩa của các loại bố thí ấy:

1. Tài thí. Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của ḿnh ra cho. Tài thí có hai loại:

a) Nội tài. Là những vật chí thân quí báu nhất của ḿnh như thân mạng, đời sống của ḿnh. Thí nội tài ở đây tức là hy sinh thân mạng để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan. Trong các chuyện tiền thân của đức Phật Thích Ca, chúng ta đă thấy nhiều gương thí nội tài, như cấu chuyện Ngài lái buôn kia, trong khi đi biển bị thuyền ch́m đă tự hy sinh thân mạng bằng cách buông tay khỏi cột buồm mà ḿnh đang bám vào, để nhường chỗ cho những hành khách xấu số khác khỏi chết đuối.

Thí nội tài là một cử chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu ḷng từ bi, bác ái mới làm được. Nếu c̣n xem thân mạng ḿnh là quư, là trọng hơn thân mạng kẻ khác th́ chắc chắn không bao giờ thực hiện được loại bố thí này.

b) Ngoài tài. Ngoại tài là những vật thường dùng của ḿnh như thức ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v...Đem những vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ th́ gọi là thí ngoại tài.

2. Pháp thí. Đem lời hay, lẽ phải, những chân lư đúng đắn, những lời dạy quí báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc y theo giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh đều là pháp thí. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, và tài thí chỉ giúp người khác đơc túng thiếu về phương diện vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí giúp đỡ người rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng ǵ đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước; không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về sau. V́ những lẽ đó, nên người Phật tử chân chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà không làm pháp thí, cả về phương diện khẩu giáo (dùng lời lẽ đúng Phật pháp để chỉ dạy_ lẫn phương diện thân giáo (dùng đời sống chân chính hợp đạo để chỉ dạy).

3. Vô úy thí. Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho người khác không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe th́ tưởng như là không quan trọng ǵ cả. Nhữnh nếu suy nghĩ một cách chín chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật thật vô cùng thâm thúy khi chế ra pháp thí này.

Chúng ta hăy nghĩ lại mà xem, có phải trong một đời người, cái sợ đă chiếm nữa cuộc đời rồi không? Khi nhỏ chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập, sợ ma quỉ...khi tráng niên sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giặc, sợ thiếu công danh, sự nghiệp; khi già sợ đau, sợ ốm, sợ già, sợ chết...Chỉ toàn sợ và sợ. Đó là chưa nói đến gặp thời buổi loạn lạc, c̣n phải sợ sưu cao, thuế nặng, sợ quan tham, lại nhũng, sợ trộm cướp, lưu manh, sợ tù, sợ tội, sợ chém, sợ giết...Bao nhiêu thứ sợ chồng chất lên đầu người, làm cho họ không dám ngửng lên, lưng họ c̣m xuống, đầu gối họ sắp quỵ. Muốn có một h́nh ảnh tượng trưng cho sự sợ hăi, th́ hăy lấy h́nh ảnh của người dân quê Việt nam trong thời Pháp thuộc th́ rơ: Hai tay họ sẵn sàng chắp lạy, mắt không dám nh́n lên, lưng c̣ng xuống và hai đầu gối sẵn sàng để quỳ xuống mỗi khi nghe tiếng nạt của ông quan hay ông thực dân hống hách.

Đời sống đă khổ, lại càng khổ thêm v́ sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính là đă cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong liếp sống. Ḷng từ bi của đức Phật nở thấy chúng sinh khổ sở v́ sợ, nên đă chế ra phép thí vô úy.

Muốn thực hành pháp môn này, hành giả trước tiên phải luyện cho ḿnh một đức tính đừng sợ ǵ cả. Mà kẻ tu hành chân chính, hiểu rơ giáo lư của Phật, th́ c̣n sợ nỗi ǵ? Tiền của, họ không tham lam cho nên không sợ mất; danh lợi, họ không màn, nên không sợ thiếu, sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm lư đó mà cơi ḷng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ luôn luôn b́nh tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Người tu hạnh thí vô úy sẵn sàng để nhảy xuống nước vớt người sắp chết ch́m, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gơ cửa công, để minh oan cho người vô tội...

Tóm lại, người tu hạn thí vô úy, hhẽ đi đến đâu th́ đem đến đó một nỗi binh tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.

III. Phải Bố Thí Như Thế Nào Mới Đúng Chánh Pháp

Chúng ta đă biết qua các lối Bố thí Ba la mật. Đến đây, chúng ta cũng cần biết rơ thái độ của người tu hành bố thí phải như thế nào.

Sự bố thí như đă nói trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ giàu có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố thí, có nhiều người bỏ cả tài sản ra lập nhà thương, kư nhi viện, trường học, có nhiều người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu, nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh hùng đem tài năng ra bảo vệ kẻ yếu hèn, hay dám đương đầu với bọn xâm lăng để giữ ǵn đất nước.

Về phương diện thí pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo lư ra giảng nói, đi đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả.

Nếu nh́n bề ngoài, th́ những hành động ấy đều là bố thí cả. Nhưng nếu xét về tâm lư và động lực thúc đẩy bên trong, th́ có thể có hai trường hợp khác xa nhau.

1. Bố thí chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong sạch. Chúng ta đă biết bố thí do từ tâm mà ra. Bố thí là một pháp môn để tự độ và độ tha. Những nếu bố thí với một dụng tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả nhiều), hoặc v́ ganh đua, hoặc v́ muốn làm nhục người chịu ơn, hoặc v́ bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lư khinh rẻ, hối tiếc hoặc cho với một tâm lư lừa lọc, bất công, thiên vị; nếu bố thí với một tâm lư, một thái độ như thế, th́ tất là bố thí chấp tướng.

Chẳng hạn đem tiền của ra lập nhà thương, trường học để được nêu trên báo, để được nhắc nhở đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối để được "người đẹp" tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được tấm huy chương, hoặc giảng đạo lư để tỏ ra ḿnh học rộng biết nhiều. Những hành vi bên ngoài đẹp đẽ ấy, bên trong thật không có giá trị ǵ.

Bố thí với tâm lư, với động lực như thế, không phải là Bố thí Ba la mật; và phước đức của những hành động ấy thuộc về hữu lậu rất mỏng manh, như mây nổi giữa hư không, gặp gió thổi liền tiêu tan.

2. Bố thí không chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng ư trong sạch, đúng với ư nghĩa của nó.

Trong khi bố thí, hành giả v́ tâm từ bi b́nh đẳng, xem chúng sinh như con, nên không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành giả v́ biét tài sản cũng như thân mạng ḿnh đều là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Hành giả v́ biết cái ngă không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự đại.

Bố thí với một tâm địa trong sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, mới đúng là Bố thí Ba la mật.

IV. Công Đức Bố Thí Ba La Mật 

Pháp bố thí là cái nhân lành của quả phúc ở thế gian và xuất thế gian. Trong lục độ vạn hạnh, pháp bố thí đứng đầu, v́ nó tương đối dễ làm hơn tất cả các pháp, mà công đức lại lợi lạc được cả đôi bên người nhận và kẻ cho:

1. Đối với người nhận. Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần này th́ thiếu phần khác: kẻ được vật chất th́ mất tinh thần, kể đầy đủ tinh thần th́ thiếu thốn vật chất.

Kẻ đang thiếu thức ăn mà được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót mà được vỗ về, an ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm bọc che chở th́ thật là may mắn sung sướng vô cùng. Trong một xă hội có được nhiều người giàu ḷng từ bi bác ái, luôn luôn t́m cách giúp người, th́ xă hội ấy chắc chắn sẽ được an vui thịnh đạt.

2. Đối với người cho. Sự bố thí đă đành là lợi lạc cho người nhận, những đối với người cho cũng không kém phần quư báu. Ngoài sự sung sướng được thấy ḿnh làm việc phải, được thấy quần sinh sung sướng, vui mừng, hành giả c̣n nhờ bố thí mà tiến mau, tiến xa trên đường đạo. Mỗi khi đem của cải ra cho, là hành giả có một dịp để chiến thắng ḷng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ và noiứ rộng ḷng từ bi; mỗi khi hy sinh tánh mạng để cứu giúp người, là hành giả có dịp để thử thách ḷng tham sống, sợ chết, và trau dồi đức tánh lợi tha, b́nh tĩnh. Mỗi khi cho mà không kể kẻ thân người thù, là hành giả có dịp để chiến đấu với ngă chấp ngă ái, băg mạn. Nếu hành giả thí pháp, th́ đó là những cơ hội để ḿnh tự nhắc nhở, ghi nhớ những lời đức Phật dạy, nhữ công đức mà Ngài đă làm để noi theo.

C. Kết Luận

Chúng ta đă thấy rơ giá trị của pháp Bố thí Ba la mật. Công đức của nó không những chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ ḿnh. Nó công năng đưa ḿnh và người từ bờ mê lầm đến bờ giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ Tát.

Vậy xin khuyên các Phật tử đều phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bố thí Ba la mật, để trên cầu thành quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh, đền ơn Tam Bảo.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]