[Trang chu] [Kinh sach]

KHÓA HƯ LỤC

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]


NÓI RỘNG MỘT ĐƯỜNG

HƯỚNG THƯỢNG

Dịch

Bàn Sơn để lời rằng: “Một con đường hướng thượng ngàn Thánh chẳng truyền, học giả nhọc h́nh như khỉ bắt bóng.” Khiến người học các nơi thảy nhằm trên đầu đường này mà tham lấy ư thiền. Thử hỏi các ông, ư thiền làm sao tham? Nếu là tham được việc ấy, lại như kẻ ngu trên đầu thêm đầu, dưới đuôi thêm đuôi, trong mắt thêm bụi, trên thịt thêm bướu. Nói đến th́ môi méo miệng lệch, nh́n đến th́ tṛng mắt rơi rớt. Đức Phật đứng bên liếc mắt nh́n, Tổ Đạt-ma tựa gốc châu mày, Mă Tổ treo phất tử, Thủ Sơn giấu trúc bề, Triệu Châu rách nát vải thô, Vân Môn dẹp bỏ bánh hồ, Đức Sơn ném phắt cây gậy, Lâm Tế im hơi. Phật Phật Tổ Tổ đều ẩn dấu, người người đều tan mật. Dùi không thể vào, kim không thể dung, đầu đồng cũng không thể tiến được, trán sắt vọt cũng chẳng thủng. Lửa nháng c̣n không đuổi kịp, điện xẹt cũng c̣n sau đuôi. Tịnh ngộ th́ ch́m trong làng say, động mê th́ đi trên đường sanh tử. Giả sử được phó chúc trên hội Linh Sơn trọn là một trường bày vẽ, Thiếu Thất truyền riêng cũng là hang dây ḅ. Mặc dù ông có cơ dường điện chớp, tiếng hét liền ngộ, nói thao thao như ḍng nước chảy; câu thoại đầu liền tiến được, tham qua tham lại, lâu ngày chầy tháng, trên miệng tạm có chút ít lưu loát, đâu khỏi thân vẫn ở trong hang ổ.        

Này các người! Đến trong đây cũng chẳng được vượt qua một mức, người học ngă nhào phóng mắt nh́n bờ thẳm rất khó bề tiến bước. Hôm nay tôi v́ tất cả các người, chẳng khỏi vuốt râu trên miệng cọp, bước khỏi đầu sào. Chỗ nói gió khua tùng vang, chỗ nín trăng rọi đầm trong. Khi đi th́ mây bay nước chảy, lúc đứng th́ non yên núi vững. Lời lời là kế sống đức Thích-ca, câu câu vốn gia phong Tổ Đạt-ma. Buông đó th́ chữ bát mở toang, nắm đó th́ một cửa không kẽ hở. Tại trong hang quỉ làm lầu các Di-lặc, ở dưới hắc sơn chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền. Chốn chốn là Đại quang minh tạng, cơ cơ đều bất nhị pháp môn. Mặc cho tối đi sáng lại, ngại ǵ mây che trăng khuất. Minh châu trong tay, xanh th́ rọi xanh, vàng th́ rọi vàng, gương sáng trên đài Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Đâu quan hệ ǵ thân huyễn, trọn là Pháp thân. Chẳng nhọc trên đảnh phóng quang, vốn đủ sáu thông thần dụng. Hất nhào cung điện Ma vương, lột trần tâm can ngoại đạo. Biến đại địa thành thế giới hoàng kim, khuấy trường hà làm tô lạc cho người trời. Trong lỗ mũi pháp luân thường chuyển, dưới chân mày chùa báu hiện tiền. Trên sóng gái đá múa điệu bà-sa, người gỗ thổi sáo ca khoản đăi. Hoặc gặp trường th́ đùa cợt, hoặc được chỗ th́ mở rộng ḷng. Hoặc duỗi tay d́u dắt, hoặc quay về núi rừng. Khi lười biếng th́ ngủ mây gối đá, khi hứng thú th́ vịnh gió ngâm trăng. Dạo chơi nơi quán rượu pḥng trà, cười đùa nơi bờ hoa rặng liễu. Hoa vàng rợp rợp đều là tâm Bát-nhă, trúc biếc xanh xanh vốn thật lư Chân như. Vạch cỏ hiện bản lai diện mục, đào đất dứt đường hiểm tử sanh. Xoay đầu ngựa sắt đánh lôi về, xỏ mũi trâu đất dẫn đi hành khước. Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, ai bảo một vật vẫn c̣n? Phật cũng phi, tâm cũng phi; chân cũng vào, giả cũng vào. Ngoài cửa tam yếu mặc t́nh hét hai làm ba, chữ thập đầu đường tha hồ gọi chín làm mười. Sáo không lỗ thổi bản vô sanh, đàn không dây khảy bài khoái hoạt (vui sống). Kia nơi nơi chẳng phải tri âm, đây chốn chốn đâu cho nghe lỏm.

Chỉ một con đường hướng thượng xưa nay làm sao nói? Dốt! Lửa này chưa từng đốt miệng. Lắng nghe! Lắng nghe! Nếu nghe được lời này th́ tai điếc ba ngày, nếu nghe chẳng được chạy qua nhanh. Lại trao cho chăng?

            Chốn chốn dương xanh nên cột ngựa,

            Nhà nhà có lối thẳng Trường An.

            Trở về dưới nguyệt người ít đến,

            Một ánh trăng soi khắp mọi miền.

Giảng

“Bàn Sơn để lời rằng: Một con đường hướng thượng ngàn Thánh chẳng truyền, học giả nhọc h́nh như khỉ bắt bóng.” Bàn Sơn là Thiền sư Bảo Tích ở Bàn Sơn, một trong tám mươi bốn vị Thiện tri thức đệ tử của Mă Tổ Đạo Nhất. V́ sao chư Thánh chẳng truyền con đường hướng thượng? V́ đó là con đường mỗi người tự đi, tự có, không ai trao cho ai được. “Học giả nhọc h́nh như khỉ bắt bóng.” Người học suy nghĩ, t́m hiểu, chỉ là nhọc nhằn không có kết quả ǵ, giống như con khỉ thấy bóng th́ chụp nắm, rốt cuộc chỉ nhọc công vô ích thôi. Như thế con đường hướng thượng chúng ta không thể trông cậy vào bậc thầy truyền cho ḿnh, hay Thiện tri thức chỉ cho ḿnh mà mỗi người phải tự quay lại, tự nhận ra. Đó là ư thâm trầm của câu này. Nhưng ngài Trần Thái Tông khéo diễn tả cho chúng ta thấy cái không thể chỉ được.

“Khiến người học các nơi thảy nhằm trên đầu đường này mà tham lấy ư thiền. Thử hỏi các ông, ư thiền làm sao tham?” Nghe nói có con đường hướng thượng, mọi người cứ ngay đó mà tham cứu để t́m cho ra ư thiền. Nhưng ư thiền không thể tham cứu, không thể t́m ra được.

“Nếu là tham được việc ấy, lại như kẻ ngu trên đầu thêm đầu, dưới đuôi thêm đuôi, trong mắt thêm bụi, trên thịt thêm bướu.” Nếu tham được ư thiền, giống như kẻ ngu trên đầu lại thêm một lớp đầu, dưới đuôi lại thêm một đuôi nữa, con mắt để bụi vào, trên thịt th́ thêm bướu. Chỗ này không thể do tham cứu mà đến được, nếu đến được đó là chuyện thừa, không có lợi ích, không có nghĩa lư ǵ. Tại sao? Tham cứu được ư thiền th́ thiền là cái ở ngoài, bị chúng ta t́m ra, cái đó không phải là ḿnh. Thí dụ như có người già sắp chết dặn con: Cha có chôn hũ vàng ở giữa gian nhà, khi cha chết, con đào lên lấy. Người cha chết, đứa con đào t́m được hũ vàng. Vậy hũ vàng không phải là nó, nếu là nó th́ nó không t́m thấy. Chỗ này quí vị phải lắng lặng tâm tư chớ không thể suy gẫm, hiểu theo thế thường. Nếu Thiền là cái chúng ta nghiên cứu t́m ra, thấy được, hẳn nó không phải là ḿnh, v́ chúng ta chỉ thấy những ǵ bên ngoài chớ không thể thấy được ḿnh! Như con mắt không bao giờ tự thấy con mắt, mà chỉ thấy bàn, ghế, ly, tách trước nó. Nếu mắt tự thấy là thấy bóng trong gương. Thiền tông nói thiền là nói thẳng tâm thể sẵn có của chúng ta, nó là chúng ta. Nhưng chúng ta làm sao biết? Thí dụ tôi có con mắt, có người hỏi mắt Thầy sáng hay tối, làm sao tôi biết? Tôi nh́n thấy sự vật, tôi tự biết mắt tôi sáng, nếu nói tôi thấy con mắt tôi sáng là nói sai. Biết mắt sáng là do mắt thấy sự vật chung quanh. Nếu không thấy được sự vật th́ biết mắt tối. Đó là do qua vật đối diện bên ngoài mà nhận ra, chớ không phải thấy được con mắt. Vậy nếu người nào nói tôi thấy con mắt tôi sáng th́ người đó không sáng suốt chút nào. Thế nên nói nếu tham cứu được ư thiền th́ chẳng khác nào kẻ ngu trên đầu thêm đầu... đó là làm chuyện thừa, v́ tưởng thiền là cái ǵ ở bên ngoài, không ngờ thiền là chỉ cho tâm thể sẵn có của ḿnh. Từ tâm thể khởi ra cái biết các sự vật, nay nói ḿnh biết lại tâm thể đó th́ thật vô lư. Chúng ta nhận ra ḿnh có tâm thể là do chúng ta nhận biết được sự vật. Có biết do có tâm thể, cũng như có thấy do mắt sáng. Hiểu rơ ư này, th́ những đoạn sau cũng dễ hiểu.

“Nói đến th́ môi méo miệng lệch.” Ai nói đến được cái đó th́ môi có tật, miệng lệch qua một bên. Tại sao? V́ tham cứu thuộc về tâm thức, không thể lấy tâm biết tâm được. Tham cứu không được th́ nói cũng không được, nên nói th́ sanh bệnh, môi méo miệng lệch. Tâm thể không dấy niệm, nói th́ phải khởi nghĩ tức là dấy niệm nên mất tâm thể, đó là điều thứ nhất. Thứ hai là ngôn ngữ thành lập trên phương diện đối đăi, có đen mới nói trắng, có tối mới lập sáng v.v... Tâm thể là cái không đối đăi, dùng cái đối đăi để diễn tả không thể được.

“Nh́n đến th́ tṛng mắt rơi rớt.” Trong nhà thiền người ta thường hiểu lầm kiến tánh là thấy tánh. Thật ra kiến tánh là nhận ra ḿnh có thể tánh, nhận một cách đúng đắn không nghi ngờ giống như ḿnh thấy nên gọi là kiến tánh. Nếu thấy tánh của ḿnh th́ tánh đó không phải là ḿnh, nên nói nh́n đến th́ tṛng mắt rơi rớt. Vậy trên ba phương diện, một là tham cứu, hai là nói đến, ba là nh́n đến, cả ba đều không thể dùng đối với con đường hướng thượng. Kẻ phàm đă như vậy, Phật Tổ th́ thế nào?

“Đức Phật đứng bên liếc mắt nh́n, Tổ Đạt-ma tựa gốc châu mày.” Tại sao đức Phật cũng không thấy, không nói được? Đức Phật chứng được lục thông, trong đó có tha tâm thông, nghĩa là biết được tâm người khác. Biết tâm nào? Tức tâm khởi niệm, tâm vọng tưởng chớ không phải tâm chân thật, tâm vô niệm. Chỗ không khởi niệm đức Phật cũng không thấy được nên đứng bên liếc mắt nh́n. “Tổ Đạt-ma tựa gốc châu mày.” Tổ đứng dựa gốc cây châu mày, không nói được cũng không chỉ được.

Ngài dẫn các Tổ: “Mă Tổ treo phất tử, Thủ Sơn giấu trúc bề, Triệu Châu rách nát vải thô, Vân Môn dẹp bỏ bánh hồ, Đức Sơn ném phắt cây gậy, Lâm Tế im hơi. Phật Phật Tổ Tổ đều ẩn dấu, người người đều tan mật.” Các Thiền sư sau này như Mă Tổ Đạo Nhất, ai đến hỏi thiền th́ Ngài đưa phất tử lên, nhưng đến chỗ chân thật này, phất tử không c̣n hữu dụng nên treo phất tử.

“Thủ Sơn giấu trúc bề.” Trúc bề là cái thẻ tre như cây thước, thường thuở xưa các Tổ hay để trên bàn, ai tới cũng đưa thẻ tre lên giống như đưa phất tử. Thủ Sơn là Thiền sư Tỉnh Niệm, cũng gọi là Niệm Pháp Hoa, đệ tử của Thiền sư Phong Huyệt, cháu ba đời của Tổ Lâm Tế. Ngài thường để cây trúc bề trên bàn. Một hôm giữa đại chúng Ngài đưa trúc bề lên hỏi: Nói trúc bề là phạm, nói không phải trúc bề là trái, các ông thử nói xem? Nói trúc bề là phạm húy, c̣n không nói trúc bề th́ trái lẽ thật. Đó là thuật của các Thiền sư, nhưng đến chỗ này rồi cây trúc bề cũng giấu luôn, không đem ra dùng được.

“Triệu Châu rách nát vải thô.” Triệu Châu tức là Thiền sư Tùng Thẩm ở thành Triệu Châu. Một hôm có người hỏi Ngài: “Muôn pháp trở về một, một về chỗ nào?” Ngài nói: “Tôi ở Thanh Châu có bảy cân vải thô.” Nhưng đến chỗ này cũng không thể nói, nên nói Triệu Châu rách nát vải thô.

“Vân Môn dẹp bỏ bánh hồ.” Ngài Vân Môn là ngài Văn Yển ở chùa Vân Môn, từ Thiều Châu lên đó khoảng sáu mươi cây số, gần với chỗ của Lục Tổ. Bánh hồ (hồ bính) là loại bánh làm bằng bột trộn chung với mè (miền Bắc là vừng) cọng thêm đường. Mỗi khi ai hỏi câu ǵ khó trả lời th́ Ngài nói “bánh hồ”. Một hôm có người hỏi Ngài: “Thưa Ḥa thượng, câu siêu Phật việt Tổ là thế nào?” Ngài đáp: “Bánh hồ.” Nhưng đến chỗ này “bánh hồ” của Ngài cũng dẹp bỏ luôn.

“Đức Sơn ném phắt cây gậy.” Đức Sơn là ngài Tuyên Giám ở Đức Sơn, đệ tử của ngài Sùng Tín. Một hôm ra giữa chúng Ngài bảo: “Nói trúng th́ ăn ba gậy, nói không trúng cũng ăn ba gậy, các ông thử nói xem.” Nhưng gặp trường hợp này ngài Đức Sơn cũng phải ném cây gậy đi. Tại sao? V́ chỗ này không thể dùng cái ǵ để đến được.

“Lâm Tế im hơi.” Ngài Lâm Tế mỗi khi ai bước tới hỏi, hoặc mới bước vào cửa, Ngài liền hét. Đến chỗ này Ngài cũng im hơi không hét được. Như vậy tất cả thủ thuật đặc biệt của các Thiền sư để đánh thức đồ chúng đều không đến chỗ chân thật này được, nên đều không dùng.

“Phật Phật Tổ Tổ đều ẩn dấu, người người đều tan mật.” Cái chân thật này Phật Tổ và người đều không thể chỉ hay nói cho người khác hiểu được, nên không có dấu vết.

“Dùi không thể vào, kim không thể dung, đầu đồng cũng không thể tiến được, trán sắt vọt cũng chẳng thủng.” Nghĩa là cái chân thật đó dù cho dùng dùi bén dùi cũng không vào được, cây kim tí ti cũng không dung chứa được, dầu cho người có đầu cứng như đồng, muốn chui vào cũng không thể được, trán cứng như sắt, muốn vọt cho thủng cũng không được. Tóm lại dù cho người có những ǵ kỳ đặc cũng không thể chạm đến nó được.

“Lửa nháng c̣n không đuổi kịp, điện xẹt cũng c̣n sau đuôi.” Dù nhanh như lửa nháng, điện xẹt cũng không theo kịp đến chỗ này.

“Tịnh ngộ th́ ch́m trong làng say, động mê th́ đi trên đường sanh tử.” Động mà mê th́ đó là luân hồi sanh tử, c̣n người tu được lặng lẽ mà ngộ vẫn c̣n ch́m trong làng say. Tại sao? V́ trong đó không c̣n đối đăi, tịnh là đối với động, ngộ là đối với mê, động tịnh ngộ mê không c̣n nữa.

“Giả sử được phó chúc trên hội Linh Sơn trọn là một trường bày vẽ.” Nơi hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa đồng thời đưa mắt nh́n tứ chúng, thấy chỉ riêng ngài Ca-diếp nh́n Phật mỉm cười, liền đó Phật bảo: “Ta có Chánh pháp Nhăn tạng, Niết-bàn Diệu tâm... truyền cho Ca-diếp.” Đó là Phật truyền tâm ấn cho ngài Ca-diếp. Nói truyền tâm ấn là truyền cái ǵ? Tỉ dụ tôi có cây viết, muốn cho ai tôi đưa họ, họ nhận, đó là tôi trao cây viết cho người đó. Hoặc tôi có lá y tôi đưa người nhận đó là truyền y. Có cái trao cho, có người nhận mới gọi là truyền. C̣n ngài Ca-diếp nh́n lên, thấy Phật đưa cành hoa, mắt nh́n tứ chúng, ngay đó Ngài nhận được cái thật của ḿnh. Như tôi đă nói nhờ thấy được sự vật nên biết mắt ḿnh sáng. Ngài Ca-diếp hội ư Phật muốn nói, Ngài mỉm cười, nên Phật bảo Ta truyền cho Ca-diếp. Truyền mà không có ǵ để truyền nên nói “giả sử được phó chúc trên hội Linh Sơn trọn là một trường bày vẽ”, chớ sự thật không có ǵ để truyền trao, chỉ tự ḿnh lănh hội được cái ǵ của ḿnh mà Phật muốn chỉ, đó gọi là truyền. Thí dụ như tôi giảng có người lănh hội được ư tôi, hiểu tôi muốn chỉ cái ǵ. Nay tôi không nói, tôi ngồi nh́n, thấy người nào lănh hội được là người đó hiểu tôi muốn nói điều ǵ, người đó đồng tâm niệm với tôi, đồng với nhau nên gọi là truyền trao tâm ấn. Tâm này với tâm kia giống nhau gọi là ấn. Ấn là in, trong con dấu có chữ ǵ in xuống giấy có chữ ấy không sai. Tâm của người đệ tử, tâm của vị thầy thông cảm nhau không khác, gọi là truyền tâm ấn. Nay v́ không biết nên nhiều người bày đủ chuyện như vào pḥng kín truyền tâm ấn, gây mê tín dị đoan, làm những việc trái đạo lư. Hiểu như vậy mới thấy trọng tâm của Thiền.

“Thiếu Thất truyền riêng cũng là hang dây ḅ.” Đến Tổ Đạt-ma truyền y cho Tổ Huệ Khả tại Thiếu Thất cũng là dây ḅ miệng hang không có ǵ thật. Nói truyền thừa chỉ là một lối nói, không phải thật có vật để truyền trao.

“Mặc dù ông có cơ dường điện chớp, tiếng hét liền ngộ, nói thao thao như ḍng nước chảy; câu thoại đầu liền tiến được, tham qua tham lại, lâu ngày chầy tháng, trên miệng tạm có chút ít lưu loát, đâu khỏi thân vẫn ở trong hang ổ.” Dù cho chúng ta có cơ nhạy bén, nghe một câu hoặc một tiếng hét liền ngộ, tự cho là đủ rồi nói dọc nói ngang, cũng chưa ra khỏi sanh tử. Lại như những người nghiên cứu thoại đầu, bỗng chợt trên miệng tạm có chút ít lưu loát, nói th́ hay, “bàn thiền tợ Thánh”, lư luận những lời cao xa nhưng “trước cảnh như ngu” gặp tài sắc th́ dính mắc v́ chưa sống trọn vẹn với thể chân thật của ḿnh. Như vậy cũng chưa đến nơi đến chốn, nên chưa ra khỏi hang ổ của phiền năo sanh tử. Tóm lại mỗi người sẵn có thể chân thật, khi do một cơ duyên đặc biệt chúng ta lănh hội được và sống trọn vẹn với thể chân thật ấy mới là chỗ cứu kính.

“Này các người! Đến trong đây cũng chẳng được vượt qua một mức, người học ngă nhào phóng mắt nh́n bờ thẳm rất khó bề tiến bước.” Đến trong đây là con đường hướng thượng, không được nhảy qua một bực nào, tại sao? Nếu vượt qua là ra ngoài phạm vi chân thật của ḿnh. Thế nên các Thiền sư bảo phải nh́n xuống gót chân, phải ngay nơi đó mà nhận, vượt ra ngoài phạm vi là đă mất rồi. V́ thế những người nghe nói có con đường hướng thượng, muốn chạy ra t́m bên ngoài, đó là sai, vượt ra ngoài là ngă nhào không thể nào thấy được. Phóng mắt nh́n, thấy khó khăn như thấy bờ vực thẳm, không có chỗ vin, rất khó tiến bước.

“Hôm nay tôi v́ tất cả các người, chẳng khỏi vuốt râu trên miệng cọp, bước khỏi đầu sào.” Nay  tôi v́ tất cả các người mà chỉ nói th́ việc làm này như vuốt râu trên miệng cọp, hẳn là không yên, như bước khỏi đầu sào ắt không đứng vững. Chuyện không thể nói, phải nói thế nào?

“Chỗ nói gió khua tùng vang, chỗ nín trăng rọi đầm trong.” Gió khua lá tùng lá thông reo, vang ra tiếng nhưng không có ư. Trăng rọi bóng dưới đầm trong, đầm và trăng cùng không có ư. Như vậy chỗ nói nín đều không có ư. Chúng ta hiện nay nói nín đều có ư, nên làm việc ǵ cũng trong điên đảo vọng tưởng. Phải làm sao nói nín đều không mắc kẹt, như gió khua tùng vang, như trăng rọi đầm trong, nghĩa là tất cả cảnh vật bên ngoài có tiếng vang có bóng rọi nhưng đều vô ư.

“Khi đi th́ mây bay nước chảy, lúc đứng th́ non yên núi vững.” Mây bay nước chảy, non yên núi vững đều không có ư. Nói nín, đi đứng đều như vậy. Ngài Trần Thái Tông khéo dùng cảnh diễn tả rất hay cái không thể nói được.

“Lời lời là kế sống đức Thích-ca, câu câu vốn gia phong Tổ Đạt-ma.” Lời nào cũng là lời Phật, câu nào cũng là câu của Tổ, chớ không nói lời phàm tục sai quấy. Trái lại lời nào của chúng ta cũng là lời phàm tục, câu nào cũng là câu thế gian. Ngài bảo đến chỗ đó là nói nín đi đứng đều không chen lẫn ư phàm, tất cả đều không ngoài nếp sống của Phật, gia phong của Tổ. Được vậy mới là đúng.

“Buông đó th́ chữ bát mở toang, nắm đó th́ một cửa không kẽ hở.” Hai bên chân mày chúng ta giống h́nh chữ bát. Trong nhà thiền hay dùng h́nh ảnh này, v́ dưới chân mày là con mắt, là cái sáng để thầm chỉ tâm. Buông ra tức là cặp chân mày mở trống, con mắt hiện tiền, nên: “Buông đó th́ chữ bát mở toang, nắm đó th́ một cửa không kẽ hở.” Nếu nắm lại th́ chỗ đó không có ǵ chen vào được.

“Tại trong hang quỉ làm lầu các Di-lặc, ở dưới hắc sơn chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền. Chốn chốn là Đại quang minh tạng, cơ cơ đều bất nhị pháp môn. Mặc cho tối đi sáng lại, ngại ǵ mây che trăng khuất.” Người đến chỗ tự tại đi đứng nói nín đều không ngoài nếp của Phật Tổ, buông nắm toàn là chỗ chân thật. Người đó sẽ có diệu dụng, dù ở hang quỉ, vẫn là lầu các Di-lặc, dù trong núi đen cũng là cảnh giới rực rỡ của Phổ Hiền. Như vậy ngay trong cảnh ma là cảnh Phật, ngay trong chỗ tối là chỗ sáng, không phải t́m kiếm đâu xa. Nơi nào cũng là kho Đại quang minh, căn cơ nào cũng là pháp môn bất nhị. Dù cho tối đi sáng lại, mây che trăng khuất, con người tự tại vẫn không bị cảnh bên ngoài làm thay đổi.

“Minh châu trong tay, xanh th́ rọi xanh, vàng th́ rọi vàng, gương sáng trên đài, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Đâu quan hệ ǵ thân huyễn, trọn là Pháp thân.” Đă lộ rồi! Nói quanh nhưng đến đây th́ thấy rơ. Người đi, đứng, nói, nín tự tại không có một niệm dấy khởi, nói như gió khua tùng vang, nín như trăng rọi đầm trong, đi như mây bay nước chảy, đứng như non yên núi vững v.v..., tất cả đều là nề nếp của Phật của Tổ, người đó có đầy đủ diệu dụng, ở chỗ tối cũng thành sáng, ở chỗ xấu cũng thành tốt. Như vậy người đó có đủ điều kiện để nhận ra cái chân thật sẵn có nơi ḿnh, như hạt minh châu cầm sẵn trong tay, bên ngoài có màu sắc nào th́ hiện màu sắc ấy, giống như gương sáng trên đài, người Ấn đến hiện người Ấn, người Hoa đến hiện người Hoa không sai khác. Nói rơ hơn trong tất cả trường hợp chúng ta đều không dấy niệm th́ tâm chúng ta là cảnh giới thanh tịnh sáng suốt. Thí dụ khoảng một tiếng đồng hồ tâm không khởi niệm, lúc đó chúng ta vui hay buồn? Nói vui buồn là có niệm, không niệm th́ đâu có vui buồn song gương mặt vẫn tươi sáng, không âu sầu. Quí vị thử nghiệm xem. Không c̣n niệm xấu tốt đối đăi th́ tất cả chỗ đều như nhau, không c̣n nghĩ nơi đây xấu th́ sợ, nơi kia tốt th́ tham, nên nói ở trong hang quỉ làm lầu các Di-lặc, ở dưới hắc sơn chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền. Khi tâm không khởi niệm mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, thân vẫn có cảm giác, nhưng thấy nghe và cảm giác đó giống như hạt minh châu sáng, như gương sáng, vật ǵ đến hiện vật ấy, người đến hiện người, cảnh đến hiện cảnh, không thêm một niệm nào, chớ không phải không c̣n ǵ. Thế nên nói xanh th́ rọi xanh, vàng rọi vàng, Hồ th́ hiện Hồ, Hán hiện Hán, cái nào hiện cái ấy rất trung thực. Đừng nói lúc đó không biết, không niệm nhưng vẫn biết đầy đủ, biết đúng như thật. Hiện nay chúng ta biết mà không đúng như thật. Nếu người có thiện cảm đến, chúng ta liền thấy vui, người có ác cảm đến liền thấy bực bội. Chúng ta nh́n tất cả mọi người qua lớp thành kiến của ḿnh, thành kiến tốt th́ thấy người tốt, thành kiến xấu th́ thấy người xấu, đó là nh́n sự vật không trung thực, không đúng như thật.  Trong kinh Pháp Hoa gọi là không “như thị”, tức là không đúng như thế, những ǵ qua khuôn của chúng ta đều biến chất. Tóm lại chúng ta đang mang kiếng hoặc màu xanh, hoặc màu đen, màu hồng v.v... nên sự vật đều biến màu. Chỉ khi tâm chúng ta không c̣n dấy niệm, không c̣n bị đóng khung trong thói quen nữa, lúc đó sự vật đều hiện ra rơ ràng không sai khác. Đó mới là thấy đúng như thật.

“Đâu quan hệ ǵ thân huyễn, trọn là Pháp thân.” Cái thấy sự vật đúng như thật đó là Pháp thân, là cái chân thật, cái đó không quan hệ ǵ đến thân huyễn này, thân huyễn này là đất nước gió lửa, là vật bỏ đi, nó không biết, không soi rọi được, nó chỉ là tạm bợ, tùy duyên không phải thật. Nhưng hiện nay chúng ta đang sống với cái tạm bợ tùy duyên nên trở trời đổi gió cũng theo duyên trời duyên gió mà đau! Nghe người nói trái tai cũng theo duyên trái tai mà ngủ không được! Tất cả duyên ngoài chi phối chúng ta nên cả ngày điêu đứng khổ sở. Nếu sống với cái chân thật th́ tất cả duyên đều không động tới chúng ta được v́ cái đó lúc nào cũng nhất như, không ǵ làm cho nó biến đổi. Tu đến đó mới gọi là giải thoát, c̣n tu sơ sài th́ vui buồn theo lời khen chê, làm sao giải thoát được! Đó là lẽ thật, là điều cao siêu của Phật giáo. Đọc qua đoạn trên chúng ta thấy dường như ngài Trần Thái Tông tả cảnh trời mây không nói ǵ đến việc tu hành, nhưng thật ra đó là điều thiết yếu cho sự tu của chúng ta. Đa số người tu hiểu lầm khi tâm không c̣n dấy niệm, tu mà không suy nghĩ, không quán chiếu e sẽ ngu đần. Trong nhà thiền tuy thấy như ngây như ngô, không có những bén nhạy của thế gian, nhưng lại có diệu dụng bất tư ngh́.

“Chẳng nhọc trên đảnh phóng quang, vốn đủ sáu thông thần dụng. Hất nhào cung điện Ma vương, lột trần tâm can ngoại đạo. Biến đại địa thành thế giới hoàng kim, khuấy trường hà làm tô lạc cho người trời.” Không đợi trên đảnh phóng hào quang mà vẫn có thần thông diệu dụng. Cung điện Ma vương chúng ta cũng hất nhào, tâm can ngoại đạo cũng bị lột trần ra hết. Đại địa là chỗ đất đai g̣ nổng, cao thấp khác nhau, chúng ta có thể đổi thành thế giới hoàng kim. Dù ở cảnh ta-bà khổ nhưng lúc nào mặt cũng tươi vui, vậy không phải sống trong thế giới hoàng kim là ǵ? Giả sử nước sông khuấy cũng thành tô lạc. Đến đó rồi, bất cứ một sự việc ǵ cũng thành hữu ích, cũng đều có lợi cho trời người.

“Trong lỗ mũi pháp luân thường chuyển, dưới chân mày chùa báu hiện tiền. Trên sóng gái đá múa điệu bà-sa, người gỗ thổi sáo ca khoản đăi.” Dưới chân mày là ngôi chùa báu. Mũi thở ra vào thường giảng pháp. Gái đá biết múa, người gỗ thổi sáo. Tóm lại người đến đó rồi có những diệu dụng khó nghĩ bàn.

“Hoặc gặp trường th́ đùa cợt, hoặc được chỗ th́ mở rộng ḷng. Hoặc duỗi tay d́u dắt, hoặc quay về núi rừng. Khi lười biếng th́ ngủ mây gối đá, khi hứng thú th́ vịnh gió ngâm trăng. Dạo chơi nơi quán rượu pḥng trà, cười đùa nơi bờ hoa rặng liễu.” Đây là con người tự tại gặp trường hợp thuận th́ đùa cợt cho vui, gặp chỗ lợi ích chúng sanh th́ mở ḷng thương giúp đỡ. Khi thấy chúng sanh khổ th́ duỗi tay d́u dắt, khi mệt mỏi th́ trở về núi rừng. Lười biếng th́ ngủ trong mây, gối đầu trên phiến đá cũng sung sướng, đâu phải đợi đầy đủ tiện nghi. Khi hứng th́ vịnh gió ngâm trăng thật là thích thú! Đến chỗ đó rồi mới là kẻ buông thơng tay vào chợ, quán rượu pḥng trà, bờ hoa rặng liễu, nơi nào cũng có thể làm lợi ích cho chúng sanh.

“Hoa vàng rợp rợp đều là tâm Bát-nhă, trúc biếc xanh xanh vốn thật lư chân như. Vạch cỏ hiện bản lai diện mục, đào đất dứt đường hiểm tử sanh. Xoay đầu ngựa sắt đánh lôi về, xỏ mũi trâu đất dẫn đi hành khước.” Hoa vàng không ngoài tâm Bát-nhă, trúc biếc không rời lư chân như. Hoa trúc đều là trí tuệ, đều là như thật, không có ǵ phàm tục đảo điên. Vạch cỏ hay cắt cỏ, lúc nào cũng thấy bản lai diện mục hiện tiền. Cuốc đất, đào đất cũng là dứt đường sanh tử. Được như thế th́ nơi nơi đều là giải thoát. Lôi đầu ngựa sắt, xỏ mũi trâu đất, tất cả đều tự tại, không có ǵ ngăn trở.

“Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, ai bảo một vật vẫn c̣n? Phật cũng phi, tâm cũng phi; chân cũng vào, giả cũng vào. Ngoài cửa tam yếu mặc t́nh hét hai làm ba, chữ thập đầu đường tha hồ gọi chín làm mười.” Người không cùng muôn pháp làm bạn là người nào? Là người không dính mắc vật ǵ cả, đó cũng là tên khác của pháp thân. Pháp thân th́ làm ǵ có một vật, thế nên “nếu nói một vật tức không trúng”(Lời của ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng.). Nói Phật là đối với chúng sanh. Phật là giác, chúng sanh là mê, mê giác đối đăi, không phải thật, c̣n cái chân thật ĺa đối đăi nên không gọi là Phật, cũng không gọi là tâm. Nhà thiền thường nói tức tâm tức Phật, tâm chân thật đó là Phật, nhưng nói tâm cũng c̣n đối đăi với Phật, nói Phật là đối đăi với chúng sanh, tất cả ngôn ngữ không thể nói đến được cái chân thật đó nên nói “Phật cũng phi, tâm cũng phi”. “Chân cũng vào, giả cũng vào”, chân giả cũng nằm sẵn trong đó, không có đối đăi riêng biệt. Ngài Lâm Tế có lập Tam huyền, Tam yếu, để chỉ chỗ thâm sâu của hệ phái Lâm Tế. Chỗ tam yếu hét hai làm ba, nghĩa là nó không c̣n thật nữa. Đến đầu đường chữ thập là gần đến chỗ cứu kính, mặc t́nh gọi chín là mười, tức cũng không phải là thật. Như vậy lư rất nhiệm mầu rất đặc biệt của tông Lâm Tế là Tam huyền Tam yếu cũng là tạm bợ, chữ thập đầu đường của những người tiến tu gần đến cứu kính cũng là giả lập.

“Sáo không lỗ thổi bản vô sanh, đàn không dây khảy bài khoái hoạt (vui sống). Kia nơi nơi chẳng phải tri âm, đây chốn chốn đâu cho nghe lỏm.” Khi ấy dùng sáo không lỗ thổi bài hát vô sanh, đàn không dây khảy khúc nhạc khoái hoạt, tức là sống vui thích. Như vậy khi thoát khỏi những đối đăi phân biệt, chúng ta mới tiến thẳng vào chỗ vô sanh. Vô sanh cũng là một lối nói thôi, v́ không c̣n niệm th́ đâu c̣n sanh, không sanh th́ đâu có tử. Không phải nhờ sáo có lỗ mới thổi được bản vô sanh, không phải đợi đàn có dây mới khảy được bài khoái hoạt. Dù không sáo không đàn, chúng ta vẫn đang sống trong vô sanh, trong giải thoát tự tại nên gọi là an vui. Tri âm tri kỷ là biết ḿnh, thân với ḿnh. Người tri âm, tri kỷ nghe đoạn này mới thấm được, mới thấy được tất cả cái hay. Nếu không phải tri âm th́ đừng có lén nghe, v́ chưa hiểu nên nghe không có lợi.

“Chỉ một con đường hướng thượng xưa nay làm sao nói? Dốt! Lửa này chưa từng đốt miệng. Lắng nghe! Lắng nghe! Nếu nghe được lời này th́ tai điếc ba ngày, nếu nghe chẳng được chạy qua nhanh.” Như vậy con đường hướng thượng từ xưa đến nay làm sao nói. Đâu phải cháy miệng nên không nói, nói mà không dính kẹt mới nên nói. Thế mà điều hết sức khó nói, ngài Trần Thái Tông vẫn nói được cho chúng ta hiểu.

Lắng nghe! Lắng nghe! Nghe mà thấm được th́ điếc tai ba ngày, nghe không thấm th́ đi nhanh qua, đừng ngó lại! “Nếu nghe được lời này th́ điếc tai ba ngày” là câu chuyện Tổ Bá Trượng khi làm thị giả. Sau khi thâm nhập được rồi Tổ Bá Trượng trở lên tái tham, Mă Tổ liền hỏi: Ta chưa nói câu nào tại sao ngươi cuốn chiếu? Ngài tŕnh bày th́ Mă Tổ hét một tiếng điếc tai ba ngày. Từ đó về sau Ngài không bao giờ quên. Rất tiếc chúng tôi không biết hét nên quí vị dễ quên. Mới nghe dường như hiểu nhưng một lúc sau lại quên hết. Nếu nghe hét, ba ngày c̣n ù tai th́ c̣n nhớ.

            Lại trao cho chăng?

            Chốn chốn dương xanh nên cột ngựa,

            Nhà nhà có lối thẳng Trường An.

Nơi nào cũng có dương xanh, muốn cột ngựa th́ cứ đến, chẳng cần t́m kiếm đâu xa. Trường An là kinh đô nhà Đường ở Trung Hoa, là chỗ tụ hội của những người lănh đạo. Nhà nào cũng có con đường thấu tới Trường An. Như vậy tất cả chúng ta dù cư sĩ tại gia hay Tăng Ni xuất gia, ai ai cũng sẵn có một lối để tiến đến chỗ cứu kính, gọi là con đường hướng thượng hay con đường thẳng tới Trường An, không phải người này có, người kia vô phần.

            Trở về dưới nguyệt người ít đến,

            Một ánh trăng soi khắp mọi miền.

Người đi lang thang trong tăm tối th́ nhiều, trở về dưới ánh trăng sáng rực lại ít. Chạy theo ngũ dục thế gian là chạy trên con đường tăm tối mà thiên hạ đua nhau không biết chán, ít ai chịu trở về dưới ánh trăng sáng ngời, cỏ cây hoa lá tươi đẹp.

Nhiều khi mang h́nh thức người tu cũng không chịu trở về, vẫn c̣n thích đi lang thang! Nếu trở về được th́ “một ánh trăng soi khắp mọi miền”. Chỉ c̣n một ánh trăng sáng vằng vặc soi khắp cả bầu trời! Như vậy đường chúng ta đang đi là con đường tươi sáng vô cùng. Đường chúng sanh đang lao ḿnh vào là con đường đen tối mịt mù, thế mà ít ai thức tỉnh.

Kết thúc bài này quí vị thấy con đường hướng thượng chưa? Đây là một cách dùng h́nh thức để nói cho dễ hiểu, thật ra hướng thượng là chỉ cho chính ḿnh. Ngài Toàn Khoát có nói: “trục vật hướng hạ, khước vật hướng thượng”, nghĩa là đuổi theo sáu trần là hướng hạ, từ chối không theo sáu trần là hướng thượng. Thử kiểm xem chúng ta đang hướng theo chiều nào. Nếu đang ngồi bỗng nhớ thức ăn ngon, hoặc nhớ lời phê b́nh của người chung quanh v.v... đó là đang đi trên đường hướng hạ. Nếu thấy người thấy vật như mây bay gió thổi không dính mắc, đó là hướng thượng. Vậy sáu căn không bị sáu trần lôi dẫn là người hướng thượng, trái lại bị sáu trần lôi dẫn là người hướng hạ. Nghĩa là không bị ngoại cảnh chi phối gọi là hướng thượng, bị ngoại cảnh chi phối gọi là hướng hạ, chớ không có ǵ khác. Cái chân thật không bị ngoại cảnh chi phối, không ai trao truyền, cũng không ai chỉ cho chúng ta thấy được. Thí dụ như tất cả chúng ta ngồi đây, mắt nh́n tượng Phật, ai cũng thấy tượng Phật, nhưng không ai thấy được cái thấy của ḿnh và của người khác. Thấy tượng Phật tức là có cái thấy. Tượng Phật có thể diễn tả được, c̣n cái thấy không thể diễn tả, nhưng tất cả chúng ta đều có. Thấy tượng Phật là có cái thấy, có cái sáng, chỉ ḿnh tự nhận biết, không ai diễn tả hay chỉ bày cho ḿnh được. Nếu diễn tả được đó là ngoại cảnh, không phải cái chân thật của ḿnh. Nếu có tŕnh bày là tŕnh bày những tâm lư sanh diệt, những bóng dáng của sáu trần, c̣n cái chân thật  không sanh không diệt, hằng sáng hằng giác, không dính sáu trần, không ai chỉ cho chúng ta được. Chỉ chúng ta mới tự nhận ra cái chân thật của chính ḿnh. C̣n thân bọt bóng này vài mươi năm rồi nát, nát rồi không biết ra sao. Cái chân thật đó không có ǵ chi phối nó được th́ làm sao nát, làm sao hoại, thế mà chúng ta lại bỏ quên. Cho nên Phật Tổ dùng phương tiện nhắc chúng ta phải sống với cái thật đó tức là hướng thượng. Từ ngữ hướng thượng th́ hiểu được, c̣n thật chất hướng thượng vừa khởi hiểu là mất ngay, v́ hướng thượng là cái chân thật của chính ḿnh, mỗi người phải tự nhận tự biết.

            Tóm lại bài này chia làm hai phần:

1. Phần thứ nhất: Nếu chúng ta muốn t́m thấy, muốn suy nghĩ, muốn nói đến cái chân thật th́ đó là điều không thể được. Hoặc giả có người nói tôi được truyền trao v.v... cũng không phải, v́ đó là cái không thể trao truyền.

2. Phần thứ hai: Nếu muốn sống với cái chân thật th́ đi đứng nằm ngồi nói nín... tâm chúng ta như mây, như nước, như núi, như trăng, không dấy niệm. Được như thế dù sống trong cảnh khổ cũng thành vui, sống chỗ tối cũng thành sáng, sống trong địa ngục cũng thành thiên đường. Nghĩa là không có niệm so sánh th́ không khổ không vui, nhưng luôn luôn tươi sáng và tất cả hành động ngôn ngữ đều chân thật như Phật Tổ không khác. Chúng ta sẽ có diệu dụng không thể nghĩ bàn, những cái vô nghĩa đều biến thành hữu ích. Muốn sống với thể chân thật sẵn có, chúng ta chỉ cần quay lại chính ḿnh, không chạy theo sáu trần. Một ngày nào sáu trần không c̣n dính mắc, không c̣n len vào tâm tư, th́ lúc đó cả bầu trời trăng sáng hiển hiện nơi ḿnh. Đẹp biết chừng nào! Đây là ngài Trần Thái Tông chỉ cho chúng ta hiểu đại khái, c̣n cái thật là mỗi người phải sống chớ không thể chỉ ra được. 

]

 

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]

[Trang chu] [Kinh sach]