[Trang chu] [Kinh sach]

KHÓA HƯ LỤC

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]


NIÊM TỤNG KỆ

(tt)

Giảng: (tt)

25. Cử: Thủ Sơn đưa trúc bề nói: Bảo là trúc bề tức chạm, chẳng gọi trúc bề tức trái, hăy gọi là cái ǵ?

Niêm: Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy.

Tụng: Trúc bề chạm, trái thật khó phân,

            Ngay đó rơ ràng nhắc với người.

            Tuy vốn đường bằng bụi không dấy,

            Một trường bày hiện gai góc đầy.

Trúc bề là cây thước bằng tre, khoảng chừng ba tấc. Ở Trung Hoa các Thiền sư hay để cây thước tre đó trên bàn, và thường dùng mỗi khi có ai đến tham vấn hoặc trong buổi nói chuyện với chúng.

“Ngài Thủ Sơn đưa trúc bề nói: Bảo là trúc bề tức chạm, chẳng gọi trúc bề tức trái, hăy gọi là cái ǵ?” Nói phải th́ chạm, nói không phải là trái, nói thế nào cho đúng?

Niêm: “Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy.” Đưa ra hai bên, nói thế này là sai, thế kia cũng sai nên đừng động đến, động đến ăn ba mươi gậy, vậy phải hành động thế nào chớ không thể dùng ngôn ngữ đối đáp được.

Tụng:

            Trúc bề chạm trái thật khó phân,     

            Ngay đó rơ ràng nhắc với người.

            Tuy vốn đường bằng bụi không dấy,

            Một trường bày hiện gai góc đầy.

Đưa trúc bề lên nói rằng gọi trúc bề th́ chạm mà không gọi trúc bề là trái. Như vậy phải nói thế nào, nói hay không nói? Quí vị phải nhớ câu tứ mục tương cố, đưa lên nói ở đây, mà ư ở kia. Hiểu rồi mới thấy “ngay đó rơ ràng nhắc với người”. Đưa như thế là rơ ràng nhắc chúng ta.

Ngài Thủ Sơn là Thiền sư Tỉnh Niệm, cũng gọi là Niệm Pháp Hoa, đệ tử của ngài Phong Huyệt. Ngài rất thích tụng kinh Pháp Hoa, đi đâu cũng thầm tụng kinh này. Một hôm Sư đứng hầu, Phong Huyệt rơi nước mắt nói: Bất hạnh, đạo Lâm Tế đến ta sắp ch́m lặn vậy. Sư thưa: Xem trong một chúng này đâu không có người kế thừa Ḥa thượng? Phong Huyệt bảo: Người thông minh th́ nhiều, kẻ thấy tánh rất ít. Sư thưa: Như con, Ḥa thượng xem thế nào? Phong Huyệt bảo: Ta tuy trông mong ở ngươi đă lâu, vẫn e ngại ngươi đắm mến kinh này (Pháp Hoa) không thể buông rời. Sư thưa: Việc này có thể làm được, mong nghe yếu chỉ ấy.

Phong Huyệt thượng đường kể lại: Nơi hội Linh Sơn đức Thế Tôn đưa cành hoa sen lên rồi dùng mắt nh́n bốn phía, đến ngài Ca-diếp, ngài Ca-diếp nh́n Phật mỉm cười. Khi nói như thế ngài Phong Huyệt đưa mắt nh́n ngài Niệm Pháp Hoa, thấy ngài Phong Huyệt nh́n, bỗng dưng ngài Niệm Pháp Hoa ngộ, Ngài phủi áo đứng dậy đi, ngài Phong Huyệt ném cây gậy trở về phương trượng. Thị giả theo sau hỏi. Phong Huyệt nói: Niệm Pháp Hoa đă hội. Như vậy ngài Thủ Sơn thấy được cái ǵ? Phải chăng là Tứ mục tương cố. Thế nên Ngài dùng phương tiện đưa trúc bề lên là muốn chỉ tứ mục tương cố nhưng Ngài khéo dùng: nói trúc bề th́ chạm, không nói trúc bề th́ trái, hăy gọi là cái ǵ? Chúng ta kẹt trong câu nói, cho là Ngài nói khó hiểu mà không ngờ chỗ Ngài muốn chỉ, muốn nhắc: “Ngay đó rơ ràng nhắc với người.”

“Tuy vốn đường bằng bụi không dấy” là chỉ thẳng, nhưng: “một trường bày hiện gai góc đầy”, tại sao? V́ nói là chạm, là trái làm cho người nghe không có hướng để t́m kiếm, không có mối manh để phăng ra, nên nói “đầy gai góc”!

26. Cử: Tăng hỏi Động Sơn (Thủ Sơ): Thế nào là Phật? Sơn đáp: Trên vách ba cân gai.

Niêm: Gọi một vật lại chẳng trúng.

Tụng:  Hỏi Phật thế nào, nói đáp anh,

            Động Sơn trên vách gai mấy cân.

            Tuy nhiên không có phong trần dính,

            Cũng vẫn c̣n đem cảnh chỉ người.

Động Sơn là ngài Động Sơn Thủ Sơ. Động Sơn Tổ tông Tào Động là Thiền sư Lương Giới. Ngài Thủ Sơ hiệu là Sùng Tuệ, cũng ở tại Động Sơn, đệ tử của Thiền sư Vân Môn. Tăng hỏi Động Sơn: Thế nào là Phật? Sơn đáp: Trên vách ba cân gai. Hỏi thế nào là Phật, thấy trên vách đang treo khoanh gai ba cân nên nói trên vách ba cân gai.

Niêm: “Gọi một vật lại chẳng trúng.” Gọi một vật chẳng trúng, huống là ba cân gai!

Tụng:

            Hỏi Phật thế nào, nói đáp anh,

            Động Sơn trên vách gai  mấy cân.

            Tuy nhiên không có phong trần dính,

            Cũng vẫn c̣n đem cảnh chỉ người.

“Tuy nhiên không có phong trần dính”, tức là câu đáp “trên vách ba cân gai” không có dính mắc một chút ư niệm, không c̣n chỗ để khởi nghĩ, nhưng “cũng vẫn c̣n đem cảnh chỉ người”, c̣n chỉ ba cân gai đó cũng là chỉ cảnh.

27. Cử: Tăng hỏi Ḥa thượng Hiện Tử: Thế nào là ư Tây sang? Hiện Tử đáp: Mâm rượu trước bàn thần.

Niêm: Nếu chẳng phải sư tử con, đâu khỏi chạy theo khối đất lăn.

Tụng: Chặt đứt cội nguồn không chỗ nương,

            Ở đây nhắc lại để anh tường.

            Nếu bảo trước thần là Tổ ư,

            Khác nào kẻ gọi khố là quần.

Câu “thế nào là ư Tây sang”, trong nhà Thiền hỏi rất nhiều. Nói đủ câu là: thế nào là ư Tổ sư từ Tây sang, tức là Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa là ư ǵ, nghĩa là muốn thấy được ư chỉ Tổ Đạt-ma mang đến cho người Trung Hoa. Câu này các Thiền sư đáp mỗi vị một cách, có vị đáp có vị không đáp, như ngài Lâm Tế khi được hỏi câu này Ngài bảo: Đem tọa cụ lại cho ta. Người hỏi đem tọa cụ lại, Ngài liền đánh.

Hiện là con ṣ, con hến. Vị Thiền sư này không giữ trai giới, Ngài ở gần bờ biển, sáng đi kiếm ṣ hến ăn, sống qua ngày, tối vào đ́nh ngủ, không ai biết tên, mọi người gọi Ngài là Hiện Tử. Nghe đồn về vị Ḥa thượng kỳ lạ này, ngài Lâm Tế mới đến thử, bất chợt chụp vai Ngài hỏi: Thế nào là ư Tây sang? Hiện Tử đáp: Mâm rượu trước bàn thần. Qua câu đáp, ngài Lâm Tế buông ra, Ngài nhận rằng đây quả thật là một Thiền sư.

Niêm: “Nếu chẳng phải sư tử con, đâu khỏi chạy theo khối đất lăn.” Khi hỏi thế nào là ư Tổ sư từ Ấn Độ sang, chúng ta hoặc nói thế này hoặc nói thế khác, nhưng Ngài chỉ nói “mâm rượu trước bàn thần”. Câu này là câu nói của sư tử con chớ không phải thường.

Tụng:

            Chặt đứt cội nguồn không chỗ nương,

            Ở đây nhắc lại để anh tường.

            Nếu bảo trước thần là Tổ ư, 

            Khác nào kẻ gọi khố là quần.

Câu đáp của ngài Hiện Tử là câu nói chặt hết cội nguồn, không c̣n manh mối để suy nghĩ, không c̣n lư do để bám, xét. Chặt đứt cội nguồn để nhắc cho mọi người thấy được ư Tổ sư từ Ấn Độ sang là chỗ chưa có niệm suy nghĩ phân biệt dấy lên. Mới nghe câu đáp, chúng ta thấy như không có chỉ nhưng thật là chỉ rất tường tận. Nếu khi đó lại suy gẫm về mâm rượu trước bàn thần là ư Tổ sư th́ khác nào kẻ nói khố là quần, nói như thế là sai v́ khố và quần khác nhau.

28. Cử: Quốc sư Vô Nghiệp nói: Nếu niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông chưa hết, chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Ḥa thượng Bạch Vân Đoan nói: Giả sử niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa.

Niêm: Đốt non cần cọp chạy, đập cỏ cốt rắn kinh.

Tụng:  Lời này xét lại chí khí khinh,

            Đập cỏ cốt là bọn rắn kinh.

            Nếu người rành lối Trường An ấy,

            Buông thơng tay đi khỏi hỏi tŕnh.

“Quốc sư Vô Nghiệp nói: Nếu niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông chưa hết, chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Ḥa thượng Bạch Vân Đoan nói: Giả sử niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa.”

Hai vị đều là Thiền sư mà lại nói trái nhau. Đó là tinh thần của cách đối đáp trong nhà Thiền. Nhà Thiền gọi hoạt cú tức là câu sống. Như khi hỏi thế nào là ư Tổ sư từ Ấn Độ sang th́ đáp “mâm rượu trước bàn thần”, hoặc hỏi thế nào là Phật th́ đáp “ba cân gai”. Tại sao? Thẳng đó nhận ra, thấy được nơi ḿnh. Câu sống làm cho người tỉnh liền, nếu không nhận ra cũng được an v́ không biết ǵ thêm.

Nếu hỏi thế nào là Phật, lại đáp Phật là giác ngộ, câu đó gọi là câu chết (tử cú) v́ làm cho người nghe suy nghĩ về giác ngộ tức là đi sâu vào cửa tử của vọng tưởng. Vọng tưởng là cửa chết.

Lại c̣n một lối trả lời làm cho người nghi, lối nói đó cũng khéo. Do nghi nên ôm ấp măi một ngày nào sẽ ngộ, đó cũng là một lối đặc biệt. Tóm lại có ba câu nói:

            1. Câu nói chết người làm cho niệm dứt bặt, đó là một lối đặc biệt.

            2. Câu nói để người nghi ôm ấp măi, không giải quyết được, đó cũng là hay.

            3. Câu nói thẳng để người nghe hiểu, gọi là dở. Nhưng thời này người ta chấp nhận dở nên phải nói dở, dù sao có c̣n hơn không.

Thiền sư Vô Nghiệp là đệ tử của Mă Tổ Đạo Nhất. Ai đến hỏi câu ǵ cũng mặc, Ngài chỉ đáp một câu: Chớ vọng tưởng. Như vậy câu chớ vọng tưởng đă nói hết ư nghĩa của sự tu, nhưng nói trắng quá. Nay Ngài lại nói: Nếu người nào c̣n một niệm phân biệt đây là phàm kia là thánh, dù nhỏ bằng đầu sợi lông, người đó cũng chưa ra khỏi bụng ngựa thai lừa. Nói thế cũng hơi quá đáng. Đó là chưa rời khỏi sanh tử v́ c̣n niệm th́ c̣n sanh tử.

Nhưng Ḥa thượng Bạch Vân Thủ Đoan lại nói: Giả sử một niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Ai đúng? Ngài Bạch Vân Thủ Đoan nói câu này để làm ǵ?

Niêm: “Đốt non cần cọp chạy, đập cỏ cốt rắn kinh.”

Câu niêm quá rơ. V́ sợ cọp nên những người đi rừng đốt lửa, cọp sợ không dám lại gần. Như vậy đốt lửa không phải v́ lửa cháy, mà v́ cho cọp sợ. Cũng như ban đêm, trên những con đường rậm rạp cỏ phủ, muốn cho rắn rít chạy trước khi ḿnh bước chân tới, chúng ta cầm gậy quơ trên ngọn cỏ, đập cỏ không phải v́ cỏ mà là để cho rắn chạy. Như vậy việc làm ở đây mà mục đích ở kia.

Tụng:

            Lời này xét lại chí khí khinh,

            Đập cỏ cốt là bọn rắn kinh.

            Nếu người rành lối Trường An ấy,

            Buông thơng tay đi khỏi hỏi tŕnh.

Bài tụng này nhắm vào câu nói của ngài Bạch Vân Thủ Đoan: Giả sử không c̣n một niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông cũng chưa ra khỏi bụng ngựa thai lừa. Câu này mục đích để phá chấp của người nghe câu nói của Quốc sư Vô Nghiệp, cho không có một niệm là cứu kính, nhưng c̣n thấy không tức là c̣n thấy có, nên c̣n kẹt trong có không, chưa phải là cứu kính. Thế nên câu này không phải là giá trị thật, là “chí khí khinh”. Chẳng qua là đập cỏ để rắn sợ chớ không phải chỉ lẽ thật. Nếu người thật rành đường về Trường An tức là người đă ngộ đạo rồi th́ buông thơng tay mà đi không nghi ngờ, không cần thưa hỏi. Nếu nghe mà khởi nghi tức chưa phải người có khả năng rành đường về Trường An.

Đến đây tôi dẫn câu chuyện ngài Đại Mai Pháp Thường cho quí vị thấy. Ngài đến học với Mă Tổ một thời gian rồi về ở núi Đại Mai. Mă Tổ nghi không biết Ngài ngộ đạo chưa, mới sai một đệ tử khá tới thử xem. Người đó gặp ngài Đại Mai mới hỏi: Ông ở chỗ Mă Tổ được cái ǵ mà về ở núi? Ngài đáp: Tôi nghe Mă Tổ nói tức tâm tức Phật, tôi liền nhận được rồi về ở núi. Người kia liền nói: Nay Mă Tổ không nói tức tâm tức Phật, mà nói phi tâm phi Phật. Nếu là người chưa biết đường về Trường An, nghe câu nói sau liền nghi là khi trước ḿnh hiểu chưa đúng v́ sau này thầy nói khác. Nhưng ngài Đại Mai nói: Mặc ông già nói ǵ th́ nói, tôi chỉ biết tức tâm tức Phật. Người kia về thưa lại Mă Tổ, Mă Tổ ở giữa đại chúng nói: trái mai đă chín, tức là ngài Pháp Thường thật ngộ. Như vậy người ngộ đạo dù ai nói đông nói tây ǵ cũng không lay chuyển được. Trái lại mới nghe nói th́ tin, khi nghe ai nói khác lại khởi nghi, là chưa thật ngộ. Thế nên ngài Trần Thái Tông mới nói: “nếu người rành lối Trường An ấy, buông thơng tay đi khỏi hỏi tŕnh”, v́ đâu c̣n nghi ngờ mà phải hỏi.

29. Cử: Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc Lăo túc khắp nơi đều bảo: “Tiếp vật lợi sanh.” Chợt gặp ba hạng người bệnh lại, làm sao tiếp? Người bệnh mù, giơ chùy dựng phất họ chẳng thấy. Người bệnh điếc, nói năng tam-muội họ không nghe. Người bệnh câm, dạy họ nói, nói không được.

Niêm: Khát uống đói ăn, lạnh mặc nóng quạt.

Tụng:  Buồn th́ ủ rũ, vui tươi cười,

            Mũi dọc mày ngang chẳng khác người.

            Đói khát lạnh nồng tùy chỗ được,

            Đâu nên bất chợt lại sanh nghi.

“Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc Lăo túc khắp nơi đều bảo: Tiếp vật lợi sanh. Chợt gặp ba hạng người bệnh lại, làm sao tiếp? Người bệnh mù, giơ chùy dựng phất họ chẳng thấy. Người bệnh điếc, nói năng tam-muội họ không nghe. Người bệnh câm, dạy họ nói, nói không được.” Như vậy làm sao độ ba hạng đó?

Niêm: Khát uống, đói ăn, lạnh mặc, nóng quạt.

Lời niêm có dính với những bệnh mù điếc câm ở trên không?

Tụng:

            Buồn th́ ủ rũ, vui tươi cười,

            Mũi dọc mày ngang chẳng khác người.

            Đói khát lạnh nồng tùy chỗ được,

            Đâu nên bất chợt lại sanh nghi.

Dù cho không hiện ở mắt, tai và miệng nhưng đâu phải là thiếu vắng, đâu phải có mắt, tai, miệng mới có cái đó. Tuy ba cơ quan không hiển lộ được cái sáng nhưng nơi ḿnh có thiếu nó bao giờ, nên mới dùng các chữ khát uống, đói ăn, lạnh mặc, nóng quạt. 

30. Cử: Thụy Nham thường gọi: Ông chủ nhân, tỉnh tỉnh đi, về sau chớ bị người lừa gạt.

Niêm: Khóc đến máu tuôn không chỗ dụng,

            Chi bằng ngậm miệng qua xuân tàn.

Tụng:   Thụy Nham thường gọi chủ nhân ông,

            Lược giỏi cơ sâu cũng chẳng hùng.

            Nếu quả thế gian tướng vô địch,

            Đợi ǵ gươm giáo mới là hưng.

Thụy Nham là Thiền sư Sư Nhan ở núi Thụy Nham, ngồi một ḿnh thỉnh thoảng tự gọi ông chủ nhân rồi tự dạ, tự nhắc: Tỉnh tỉnh đi, về sau chớ để người lừa gạt. Thấy như người điên nhưng thật sự chúng ta có bệnh quên, ngồi một lúc là bị ma ngủ hay vọng tưởng gạt, nên nhắc tỉnh tỉnh chớ bị người lừa. Đó là phương tiện để Ngài tự cảnh giác. Hiện nay ngồi lâu bị người lừa dẫn đi chơi th́ có các vị giám thiền cầm gậy đánh cho chạy về. Đánh là để không bị người lừa dẫn đi bằng vọng tưởng hay giấc mộng. Có người ngồi một lúc mộng thấy việc này việc kia, đó là đi khá xa nên nhờ gậy đánh liền giựt ḿnh tỉnh lại. Hiểu như thế mới mang ơn người vác gậy đi tuần, nếu không sẽ bực tức khi bị đánh giựt ḿnh.

Niêm:

            Khóc đến máu tuôn không chỗ dụng,

            Chi bằng ngậm miệng qua xuân tàn.

Khóc đến máu tuôn nhưng cũng không dùng được, chi bằng làm thinh để qua mùa xuân. Hành động của ngài Thụy Nham là hành động thiết tha đối với sự tu hành, nhưng c̣n gọi, nói chủ khách v.v... th́ chưa phải là tuyệt vời, nên ngài Trần Thái Tông hơi chê.

Tụng:

            Thụy Nham thường gọi chủ nhân ông,

            Lược giỏi cơ sâu cũng chẳng hùng.

Tuy có mưu lược, có cơ sâu nhưng cũng chưa phải hùng.

            Nếu quả thế gian tướng vô địch,

            Đợi ǵ gươm giáo mới là hưng.

Nếu là tướng vô địch th́ không cần gươm giáo, không cần phải kêu gọi chi cho ồn. Tuy bị chê như vậy, nhưng ngài Thụy Nham sau này cũng là một vị Tổ. V́ mỗi người tự biết bệnh ḿnh, nếu ngồi lâu dễ gục hoặc dễ chạy theo vọng tưởng th́ phải tự gọi cho tỉnh. Như vậy đối với ngài Thụy Nham là có lợi, nhưng so sánh với những Thiền sư khác th́ thấy hơi ồn, c̣n nghiêng về h́nh thức.

31. Cử: Tam Thánh nói: Tôi gặp người liền ra, ra th́ chẳng v́ người. Hưng Hóa nói: Tôi gặp người th́ chẳng ra, ra th́ v́ người.

Niêm: Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.

Tụng:   Gặp khát tức th́ uống nước ngay,

            Nói ăn ngày trọn bụng đói chay.

            Hai bên gươm bén thôi niêm kín,

            Khi khác trẻ con miệng họa này.

Tam Thánh là Thiền sư Huệ Nhiên. Hưng Hóa là Thiền sư Tồn Tương. Hai vị là đệ tử lớn của ngài Lâm Tế. Một vị nói: Tôi gặp người liền ra, ra th́ chẳng v́ người, một vị lại nói: Tôi gặp người th́ chẳng ra, ra th́ v́ người. Ai nói đúng?

Niêm: “Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.” Trạnh là con ba ba. Nửa cặp cũng là một con. Như vậy một bên là rùa mù, một bên là trạnh què. V́ ra hoặc không ra, v́ người hoặc không v́ người đều là một bên, chưa phải là cứu kính, nên ngài Trần Thái Tông mới b́nh: Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.

Tụng:

            Gặp khát tức th́ uống nước ngay,

            Nói ăn ngày trọn bụng đói chay.

            Hai bên gươm bén thôi niêm kín,

            Khi khác trẻ con miệng họa này.

Đói th́ ăn, khát th́ uống, nói làm chi ồn cả ngày mà bụng vẫn đói. Ư Ngài trách là nói “v́ người không v́ người, ra không ra” chi cho nhiều.

“Hai bên gươm bén thôi niêm kín”, nghĩa là hai vị dùng thuật nói mâu thuẫn nhau giống như hai cây gươm bén niêm kín.

“Khi khác trẻ con miệng họa này”, e khi khác trẻ con liếm nhằm bị đứt miệng, đứt lưỡi. Lối nói này không cho người thấy được lẽ thật, mà chỉ là nói để cho nghi.

32. Cử: Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong đến, chỉ tịnh b́nh nói: Tịnh b́nh là cảnh, ông không được động đến cảnh.

Niêm: Nói có, nhằm chỗ nào để.

Tụng: Trong gương không nhớp luống tự chùi,

            Dụng hết công phu uổng phí thôi.

            Lặng lặng im im tùy chỗ thích,

            Cơm xong liền đó uống chung trà.

Tịnh b́nh là cảnh, lại chỉ tịnh b́nh bảo không được động đến, vậy phải động đến cái nào? Đó là thuật kỳ đặc trong nhà Thiền. Thông thường nghe chỉ đâu chúng ta chạy theo đó là bị gạt.

Niêm: “Nói có, nhằm chỗ nào để.” Nói không được động đến th́ cái đó có hay không? Nếu có th́ để ở đâu?

Tụng:

            Trong gương không nhớp luống tự chùi,

            Dụng hết công phu uổng phí thôi.

            Lặng lặng im im tùy chỗ thích,

            Cơm xong liền đó uống chung trà.

Bài thơ rất là thâm thúy. Gương không nhớp, không bụi mà lau, thật là uổng công. Như vậy để mặc nó hay sao? Nghĩa là chúng ta nói lau gương là uổng công, nếu nói lau bụi th́ đáng công. Hiện nay chúng ta lau gương hay lau bụi? Gương tự sáng, sở dĩ chúng ta không thấy được ánh sáng là do bụi, nay lau sạch bụi th́ gương tự sáng. Cũng vậy cái chân thật nguyên là như thế, không có tu, nhưng v́ bụi trần che phủ nên phải tu tức là hằng ngày lau bụi tham sân si mạn nghi..., lau sạch rồi th́ gương tự sáng. Nếu gương không sáng dù lau hết bụi cũng vẫn không sáng. Bản chất nó là sáng nên nói lau là vô ích.

“Dụng hết công phu uổng phí thôi.” Dù dùng bao nhiêu công phu để chùi gương cũng là uổng phí, nhưng nếu dụng công chùi bụi th́ rất đáng công.

“Lặng lặng im im tùy chỗ thích”, nó im nó lặng, tùy duyên tùy cảnh nó hưởng ứng. Hưởng ứng bằng cách nào? “Cơm xong liền đó uống chung trà.” Ăn cơm xong rồi uống trà, việc đó rất b́nh thường, nhưng chính việc b́nh thường là cái hiện rơ ràng của tấm gương.

33. Cử: Thạch Đầu nói: Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy chẳng được.

Niêm: Các hạnh vô thường, tất cả đều khổ.

Tụng:   Câu nói hay khéo đem đến ông,

            Tạm làm mây trắng che cửa động.

            Dù cho toàn được mười phần đúng,

            Vẫn ở giữa đường muôn dặm trông.

“Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy chẳng được.” Nói như vậy nghe khó hiểu làm sao! Thế ấy là khẳng định, chẳng thế ấy là phủ định, thế ấy chẳng thế ấy là khẳng và phủ định, thảy đều không được. Như vậy tất cả sự vật trên thế gian đứng về mặt khẳng định, hoặc phủ định, hoặc gồm cả hai đều không đúng. Tại sao?

Niêm: “Các hạnh vô thường, tất cả đều khổ.” Khẳng định, phủ định hay chung cả hai đều là các hạnh, nên đều là khổ.

Tụng:

            Câu nói hay khéo đem đến ông,

            Tạm làm mây trắng che cửa động.

Câu nói cho ông nghe dù hay dù khéo chẳng khác nào mây trắng che cửa động. Mây che cửa động, bầy chim muốn về tổ không biết đường vào, cũng như lời nói hay khéo phủ mờ chỗ chân thật.

            Dù cho toàn được mười phần đúng,

            Vẫn ở giữa đường muôn dặm trông.

Cả ba câu khẳng định, phủ định hoặc gồm cả hai, dầu được dùng đủ cũng c̣n ở giữa đường, chưa đến nhà, nên ngài Thạch Đầu bảo cả ba đều không được. Hiểu như thế mới thấy được ư người xưa.

34. Cử: Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Giáp Sơn? Sơn đáp:

            Vượn ẵm con về sau núi biếc,

            Chim tha hoa rụng trước non xanh.

Niêm: Cây gậy tùy thân, gặp trường th́ đùa.

Tụng: Giáp Sơn cảnh vắng không người đến,

            Ngay đó phải nên làm những ǵ?

            Nếu người thật được đôi mắt sáng,

            Giờ ngọ mặc t́nh trống canh ba.

            Thí dụ có người đến đây hỏi: Thế nào là cảnh Trúc Lâm?

Đó là hỏi cảnh Trúc Lâm hay hỏi cái ǵ? Thật ra không phải hỏi cảnh bên ngoài mà muốn hỏi cái ǵ nơi chúng ta, nếu diễn tả cảnh bên ngoài th́ sai.

Ngài Giáp Sơn là Thiền sư Thiện Hội. Thuở trước khi c̣n ở Kinh Khẩu Ngài giảng cho đồ chúng ở chùa rất đông. Một hôm Ngài lên ṭa, ở dưới có Thiền sư Đạo Ngô Viên Trí ngồi nghe. Có vị Tăng bước ra hỏi: Thế nào là Pháp thân? Ngài Thiện Hội đáp: Pháp thân vô tướng. Vị ấy hỏi tiếp: Thế nào là Pháp nhăn? Ngài đáp: Pháp nhăn vô tỳ (không có tỳ vết). Ở dưới ngài Đạo Ngô cười. Khi giảng xong, ngài Thiện Hội đắp y đến thưa với ngài Đạo Ngô: Bạch Ḥa thượng, khi tôi đáp lời người hỏi, có chỗ nào không đúng khiến Ḥa thượng cười? Ngài Đạo Ngô nói: Nếu là người giảng kinh th́ Ḥa thượng nói rất đúng, c̣n nếu là Thiền sư th́ chưa có thầy. Nghe như vậy ngài Thiện Hội mới xin ngài Đạo Ngô giới thiệu cho một vị thầy. Ngài Đạo Ngô giới thiệu ngài Hoa Đ́nh Thuyền Tử. Đang là một Giảng sư nổi tiếng mà ngài Thiện Hội từ bỏ tất cả đi t́m ngài Hoa Đ́nh Thuyền Tử. Pháp thân vô tướng, Pháp nhăn vô tỳ đều đúng cả, nhưng tại sao ngài Đạo Ngô cười? V́ dùng tử ngữ như vậy th́ biết người học chưa có thầy. Sau khi ngộ, ngài Thiện Hội trở về trụ ở Giáp Sơn, có người hỏi: Thế nào là cảnh Giáp Sơn? Ngài đáp bằng hai câu thơ:

            Vượn ẵm con về sau núi biếc,

            Chim tha hoa rụng trước non xanh.

Niêm: “Cây gậy tùy thân, gặp trường th́ đùa.” Sẵn có cây gậy tùy thân gặp trường th́ đùa không sợ té. Đó là lời khen ngài Giáp Sơn khéo, khi có người hỏi cảnh liền diễn tả cảnh cho người nghe.

Tụng:

            Giáp Sơn cảnh vắng không người đến,

            Ngay đó phải nên làm những ǵ?

            Nếu người thật được đôi mắt sáng,

            Giờ ngọ mặc t́nh trống canh ba.

Giờ ngọ mà đánh trống canh ba nghe thật trái ngược, nhưng thật người có mắt sáng th́ giờ ngọ đánh trống canh ba. Tại sao? Khi Ngài diễn tả cảnh Giáp Sơn vượn bồng con về núi, chim tha hoa rụng trước non..., nếu biết th́ đó là hiện tiền. Thế nên dường như tả cảnh mà đă chỉ ra cái chân thật cho người hỏi như giờ ngọ mà đánh trống canh ba tức là nói ở đây mà thấy rơ ở kia.

35. Cử: Tăng hỏi Mục Châu: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Châu đáp: Có bao nhiêu bánh đem hết lại đây.

Niêm: Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.

Tụng: Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,

            Vạch lá t́m cành chẳng nhọc ḿnh,

            Vô biên huyền nghĩa đều hiện rơ,

            Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.

“Tăng hỏi Mục Châu: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Châu đáp: Có bao nhiêu bánh đem hết lại đây (có chỗ nói là bánh bao).” Tức là trên bàn có bao nhiêu bánh bao đem hết lại đây, đơn giản làm sao!

Niêm: “Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.”

Thật là khen đáo để. Buông tay là đến nhà không cần phải nhọc đi bước vào.

Tụng:

            Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,

            Vạch lá t́m cành chẳng nhọc ḿnh,

            Vô biên huyền nghĩa đều hiện rơ,

            Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.

Ngài Mục Châu là Trần Tôn Túc, hiệu Đạo Minh, là vị Thủ tọa bảo ngài Lâm Tế đi hỏi Tổ Hoàng Bá ba lần, là một tay cự phách ở hội Tổ Hoàng Bá. Khi ngài về Mục Châu có người đến hỏi: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Câu hỏi quá rắc rối. Tôi nhắc lại câu chuyện Tổ Bát-nhă được nhà vua mời dự trai tăng. Đến nơi chư Tăng siêng năng tụng kinh c̣n Ngài thong dong đi dạo. Vua thấy lạ mới hỏi: Sao Ḥa thượng không đi tụng kinh? Ngài đáp: Ta thở ra không dính sáu trần, hít vào không kẹt ấm giới, mỗi ngày ta tụng không biết bao nhiêu bộ kinh. Như vậy nói theo cách của Ngài là một hơi thở tụng hết ba tạng kinh! Chúng ta hiện nay thở ra hít vào dính kẹt đủ điều, nếu thở ra không dính sáu trần, hít vào không kẹt ấm giới th́ tự tại biết bao nhiêu! Như vậy dường như không tu mà thật tu, c̣n cố gắng tụng hết bộ kinh này sang bộ kinh khác, dường như tận lực tu hành nhưng rốt lại chỉ được phước, chớ thật chưa biết chuyển vô minh phiền năo trở thành Bồ-đề; v́ tham tụng cho hết bộ để được phước nhiều nên vẫn c̣n phiền năo. Trái lại thở ra hít vào mà không dính kẹt ǵ cả, đó mới thật là tụng kinh.

Đáp câu hỏi của vị Tăng, ngài Mục Châu không nói hết, không nói không, chỉ bảo: Trên bàn có bao nhiêu bánh bao dọn ra ăn. Trả lời thấy như lạc đề nhưng chính đó là điểm hay, nếu vị Tăng biết, là thấy được bao nhiêu tạng kinh rồi. Thế nên lời niêm:

“Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.” Ngay đó thấy ǵ nói nấy, không phải suy gẫm t́m kiếm.

Tụng:

            Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,

            Vạch lá t́m cành chẳng nhọc ḿnh.

            Vô biên huyền nghĩa đều hiện rơ,

            Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.

Nghĩa là không nhọc nhằn vạch lá t́m cành, ṃ từng chữ từng câu, nếu không c̣n dính mắc th́ bao nhiêu huyền nghĩa đều hiện rơ. “Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh”, hỏi đến chữ nghĩa đều chẳng hiểu rơ nhưng tất cả đều đầy đủ.

36. Cử: Trong hội Lâm Tế, hai vị Thủ tọa nhà Đông nhà Tây gặp nhau đồng thời hét. Tăng hỏi: Lại có chủ khách hay không? Lâm Tế đáp: Chủ khách rơ ràng.

Niêm: Cũng là vượn trắng nói lăng xăng.

Tụng: Thánh chúa ngày nay cổ hóa phong,

            Bản đồ văn phạm trọn cùng đồng.   

            Bờ cơi xa gần phân rành rơ,

            An dân tế thế nào kể công.

“Trong hội Lâm Tế, hai vị Thủ tọa nhà Đông nhà Tây gặp nhau đồng thời hét. Tăng hỏi: Lại có chủ khách hay không? Lâm Tế đáp: Chủ khách rơ ràng.” Tông Lâm Tế hay phân chủ khách. Hai người gặp nhau hét một lượt th́ ai là chủ, ai là khách?

Niêm: “Cũng là vượn trắng nói lăng xăng.”

Nghe Tổ Lâm Tế đáp chủ khách rơ ràng, nên chúng ta phăng t́m xem ai chủ ai khách. Chủ là người hay, khách là người dở, nhưng hai người hét một lượt th́ làm sao phân biệt chủ khách. Nếu chúng ta cứ t́m hiểu việc đó, chẳng khác nào nghe vượn trắng nói mà suy nghĩ.

Tụng:

            Thánh chúa ngày nay cổ hóa phong,

            Bản đồ văn phạm trọn cùng đồng.

Vua Thánh muốn vận động người tổ chức lại phong hóa đẹp đẽ cho quê hương xứ sở th́ những điều kiện như bản đồ, văn phạm... đều có trách nhiệm chung. Thánh chúa đây là chỉ ngài Lâm Tế, bản đồ văn phạm là chỉ hai ông Thủ tọa cùng hét, nên trọn cùng đồng.

            Bờ cơi xa gần phân rành rơ,

            An dân tế thế nào kể công.

Trong đó đă nói rơ ràng chỗ lợi ích cho chúng sanh, chỗ giáo hóa chân thật đầy đủ. Các Ngài nói nhưng chúng ta đừng phân biệt t́m hiểu, nên tuy có lợi cho chúng sanh mà không kể công. Như vậy chúng ta đừng kẹt trong lời của Tổ Lâm Tế mà phân biệt đúng hay sai, chủ hay khách. 

37. Cử: Huyền Sa nói: Nếu luận việc này, ví như người chủ một thửa ruộng, đến trong một phạm vi đă bán cho các ông rồi, chỉ c̣n cái cây ở trung tâm vẫn thuộc về Lăo tăng.

Niêm: Biển cả chẳng nạp tử thi.

Tụng: Dù người liễu ngộ ngời ngời tỏ,

            Muôn lự đầu tâm hết lăng xăng,

            Trong đây c̣n có tơ hào dấy,

            Vào mắt mạt vàng lại xốn xang.

Huyền Sa là ngài Huyền Sa Sư Bị. Việc này là việc ai cũng sẵn có. Nói về việc này th́ giống như thửa ruộng lớn khoảnh nào cũng bán cho các ông hết, mỗi người đều có phần, chỉ c̣n cây giữa trung tâm là phần của ta. Nói như thế là không có giấu giếm ǵ cả. Chia phần cho tất cả, ai có phần nấy, nhưng cây ở giữa là phần của Ngài, không ai được động đến là thầm chỉ cái đó ai cũng có phần, chớ không phải dành riêng cho người nào.

Niêm: “Biển cả chẳng nạp tử thi.” Những người chết trên biển sớm muộn ǵ sóng cũng đùa thây vào mé bờ, ư nói chỗ trong sạch không dung cái nhơ nhớp hay nói cách khác là thể không h́nh tướng không chấp nhận cái có tướng. Cây ở giữa thuộc về Ngài cũng là có tướng.

Tụng:

            Dù người liễu ngộ ngời ngời tỏ,

            Muôn lự đầu tâm hết lăng xăng,

            Trong đây c̣n có tơ hào dấy,

            Vào mắt mạt vàng lại xốn xang.

Ngài Trần Thái Tông b́nh rằng: Dù cho ngài Huyền Sa đă ngộ được rơ ràng, nhưng c̣n nói có cây hay có chỗ nào cũng là c̣n dính mắc, giống như mắt đang lành mạnh lại có người đem mạt vàng hay mạt ngọc để vào. Tuy mạt vàng quí nhưng mắt không thể dung được. Cũng thế dù nói những lời hay, ư đúng nhưng c̣n có nơi, có tướng cũng là c̣n kẹt.

38. Cử: Tăng hỏi Ḥa thượng Tư (Hành Tư) về đại ư Phật pháp. Ḥa thượng Tư đáp: Ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu?

Niêm: Bóng trúc quét thềm trần chẳng dấy,

            Vầng trăng xuyên biển nước không tỳ.

Tụng: Lời này quả thật bậc anh linh,

            Gồm hết căn cơ tiếp hữu t́nh.

            Một hỏi, Lô Lăng gạo giá mấy,

            Hoàn toàn trọn chẳng dính đồ tŕnh.

Tăng hỏi Ḥa thượng Tư “đại ư Phật pháp”.

Ḥa thượng Tư tức ngài Hành Tư. Câu này ngài Lâm Tế cũng hỏi ngài Hoàng Bá. Vị Tăng này hỏi cũng tương tợ như vậy. Ḥa thượng Tư hiền lành nên đáp: Ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu? Nếu nay có người hỏi tôi: thế nào là đại ư Phật pháp, tôi hỏi: ngoài Đà Lạt giá gạo bao nhiêu một kư, quí vị nghe có lạc đề không? Đó là hiền lành chớ c̣n bạo như ngài Hoàng Bá th́ liền đập cho một gậy. Chính ngài Lâm Tế bị ba gậy cũng do câu hỏi này. Câu đáp hiền lành nhưng không c̣n chỗ để suy gẫm.

Niêm:

            Bóng trúc quét thềm trần chẳng dấy,

            Vầng trăng xuyên biển nước không tỳ.

Câu niêm thật hay. Chúng ta thấy vào xế trưa, những bụi trúc gần chùa rọi bóng trên thềm, gió thổi cành trúc, bóng trúc đong đưa qua lại như quét thềm chùa mà không dấy bụi. Vào đêm rằm chúng ta thấy có vầng trăng dưới đáy biển, nhưng mặt nước không có tỳ vết của vầng trăng xuyên qua v́ đó chỉ là bóng mặt trăng. Như vậy bóng trúc hay bóng trăng hiện sờ sờ nhưng không có tác dụng ǵ thật. Cũng thế câu “ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu” tuy có câu nói mà không một chút dính mắc, chẳng khác nào bóng trúc bóng trăng.

Tụng:

            Lời này quả thật bậc anh linh,

            Gồm hết căn cơ tiếp hữu t́nh.         

            Một hỏi Lô Lăng gạo giá mấy,

            Hoàn toàn trọn chẳng dính đồ tŕnh.

Câu trả lời của ngài Hành Tư gồm tất cả căn cơ và tỏ rằng Ngài là bậc anh linh. Đáp lại vị Tăng bằng câu hỏi “Lô Lăng giá gạo bao nhiêu” thật không một dấu vết, không một chỗ dính mắc, như trăng đáy biển, như trúc quét thềm, tuy thấy mà không dính dáng. Đó là lời tán thán.

39. Cử: Tăng hỏi Thiền sư Văn-thù: Muôn pháp về một, một về chỗ nào? Văn-thù đáp: Sông Hoàng Hà chín khúc.

Niêm: Nhân khi có trăng đẹp, bất thần qua Thương Châu.

Tụng: Hoàng Hà chín khúc v́ nêu ra,

            Chẳng dính đồ tŕnh tự đến nhà.

            Nhiều kẻ ban ngày mở mắt ngóng,

            Đâu hay chim trĩ đến Tân La.

Ở Trung Hoa có hai vị Thiền sư nổi tiếng đều ở chùa Văn-thù là ngài Tuyên Năng phái Hoàng Long và ngài Tâm Đạo phái Dương Kỳ, nên không biết chỉ vị nào.

“Muôn pháp về một, một về chỗ nào”, ư nói muôn pháp từ tâm khởi, vậy tâm về đâu. Câu này trước đă có ngài Thạch Sương hỏi ngài Qui Sơn, ngài Qui Sơn bảo: Trong gạo có sâu. Ngài Văn-thù là một Thiền sư đạt đạo nên khi vị Tăng hỏi câu trên Ngài đáp: Sông Hoàng Hà chín khúc. Sông Hoàng Hà là một con sông lớn thứ hai ở Trung Hoa, gần Bắc Kinh, dài hơn tám ngàn dặm, mỗi ngàn dặm có một khúc quanh nên gọi là sông Hoàng Hà chín khúc. Thí dụ như có ai hỏi tôi: muôn pháp về một, một về chỗ nào, tôi đáp: sông Cửu Long chín cửa, câu trả lời như thế có thú vị không? Câu nói đó để cho người nghe bặt hết những nghĩ suy. Nếu nói cho người suy nghĩ th́ gạo có sâu.

Niêm: “Nhân khi có trăng đẹp, bất thần qua Thương Châu”, nghĩa là nhân đêm trăng sáng trời đẹp đi chơi một lúc lạc đến Thương Châu. Hỏi và đáp nghe như có câu hỏi, lời đáp nhưng chẳng qua là tṛ chơi, không có ư nghĩa để chúng ta phải t́m hiểu.

Tụng:

            Hoàng Hà chín khúc v́ nêu ra,

            Chẳng dính đồ tŕnh tự đến nhà.

            Nhiều kẻ ban ngày mở mắt ngóng,

            Đâu hay chim trĩ đến Tân La.

Nói sông Hoàng Hà chín khúc, nếu ngay đó nhận ra th́ không cần đi trên đường dài mà tự đến nhà. Trái lại nếu không nhận được, cứ t́m hiểu tại sao hỏi “một về chỗ nào” lại đáp “sông Hoàng Hà chín khúc”, suy gẫm măi điều đó th́ chẳng khác nào kẻ ban ngày ngóng nh́n chim bay trong khi chim trĩ bay đến Tân La vẫn không hay. Thật là vô ích!

40. Cử: Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: Ngươi là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? Triệu Châu đáp: Có chủ. Nam Tuyền hỏi: Thế nào là chủ? Triệu Châu khoanh tay thưa: Hôm nay kính chúc Ḥa thượng luôn được muôn phước.

Niêm: Co tay chuyển chùy chẳng đổi gươm,

            Người khéo sử dụng đều được tiện.

Tụng:   Khoanh tay Tùng Thẩm chỉ cho người,

            Chẳng kẹt hai bên chủ tự phân.

            Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật,

            Nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.

Ngài Nam Tuyền đang ngồi trên giường thiền, thấy ngài Triệu Châu đến, lúc đó ngài Triệu Châu c̣n là một Sa-di khoảng mười mấy tuổi, liền hỏi: Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? Nay nếu hỏi quí vị như vậy th́ quí vị cũng đáp “có chủ”. Nhưng khi hỏi chủ ở đâu th́ rất khó diễn đạt. Ngài Triệu Châu liền khoanh tay thưa: “Hôm nay kính chúc Ḥa thượng luôn được muôn phước.” Có lạc đề không? Có chủ hay không chủ? Nếu không chủ ai biết nói? Không nói ǵ đến chủ, chỉ khoanh tay thưa một câu tầm thường mà diễn tả được Sa-di có chủ, nên ngài Nam Tuyền chấp nhận.

Niêm:

            Co tay chuyển chùy chẳng đổi gươm,

            Người khéo sử dụng đều được tiện.

Co tay là khoanh tay, chuyển chùy chẳng đổi gươm là cái ǵ có sẵn liền sử dụng, không phải đợi có gươm bén mới sử dụng được. Nghĩa là đối với người đang khai chiến, chúng ta có ǵ th́ dùng liền cái ấy không cần phải t́m kiếm ǵ khác. Nếu người khéo dùng th́ ngay đó đều được tiện.

Tụng:

            Khoanh tay Tùng Thẩm chỉ cho người,

            Chẳng kẹt hai bên chủ tự phân.

            Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật,

            Nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.

Ngài Tùng Thẩm chỉ khoanh tay mà đă chỉ được ông chủ nhân cho người, lại không kẹt hai bên.

            Tuân tuần tức là không lâu, chỉ trong giây phút thôi.

            Hàn là Hàn Tương Vũ. Hoa Lam là xứ Hoa Lam.

            Lệnh thuật tức là có thuật khéo nấu rượu.

“Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật, nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.” Nếu không phải là Hàn Tương Vũ ở Hoa Lam th́ đâu có thuật khéo chỉ trong mấy phút mà nấu được một nồi rượu. Đó là để tán thán nếu không phải ngài Triệu Châu có tài th́ đâu thể ngay câu hỏi đáp lại một cách khéo léo như vậy.

41. Cử: Tăng hỏi Mộc Am: Thế nào là việc của Nạp y (tăng sĩ)? Mộc Am đáp: Dùi châm chẳng vào.

Niêm: Ngồi yên dứt mảy trần, hư không chẳng lối thông.

Tụng:  Cầm th́ mịn mượt, ấn th́ mềm,

            Trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên.

            Vốn thật hư không, không gián cách,

            Đêm về như cũ hoa quế thu.

Nạp y là Tăng sĩ. Tăng hỏi Mộc Am: Việc của các Tăng sĩ như thế nào? Ngài Mộc Am đáp: Dùi châm chẳng vào.

Niêm: “Ngồi yên dứt mảy trần, hư không chẳng lối thông.” Ngài Trần Thái Tông khen ngài Mộc Am nói câu đó là ngồi yên mà dứt sạch không c̣n dính một mảy trần, như hư không không c̣n lối nào cho người đi.

Tụng:

            Cầm th́ mịn mượt, ấn th́ mềm,

            Trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên.

            Vốn thật hư không, không gián cách,

            Đêm về như cũ hoa quế thu.

Việc của chư Tăng, chư Ni, hay việc của Thiền sư như thế nào? Tại sao dùi châm chẳng vào? V́ nó không phải là diện mạo có h́nh có tướng, làm sao dùi châm được. Chỗ đó cầm th́ mịn mượt nhẹ nhàng, ấn th́ mềm không khó khăn, nhưng trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên, không ai chui vào được. Mỗi người tự giữ, không ai chen vào của ai được, đó là điểm kỳ đặc. Hư không không có chỗ hở nên dùi châm chẳng được. Mùa thu đêm về nghe hoa quế thơm, tức là cái đó hiện thực ở thế gian.

42. Cử: Bàng cư sĩ nói: Đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về.

Niêm: Tháp nhạn đề tên, không dung giấy trắng.

Tụng:  Áo may trăm mảnh giày cỏ xuyên,

            Thi Phật trong trường đă có tên.

            Nếu bảo tâm không lại ứng cử,

            Chẳng ăn roi vọt cũng ăn thoi.

Câu “đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về” là trong bài thơ của ông Bàng Long Uẩn, nghĩa là ai tâm không c̣n dính mắc th́ được đậu.

Niêm: “Tháp nhạn đề tên, không dung giấy trắng.” Ở Trung Hoa vào đời Đường, những người thi đậu Tiến sĩ được ghi tên vào bia ở dưới tháp nhạn tại chùa Từ Ân huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.

Tên được đề trên tháp nhạn, đó là khắc trong đá chớ không dùng giấy trắng, ư muốn nói “đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về” là chỗ chưa ổn.

Tụng:

            Áo may trăm mảnh giày cỏ xuyên,

            Thi Phật trong trường đă có tên.

            Nếu bảo tâm không lại ứng cử,

            Chẳng ăn roi vọt cũng ăn thoi.

Nếu nói tâm không là đậu Phật th́ không bị roi đ̣n cũng ăn thoi đấm. Tại sao? V́ tâm không c̣n cách một lớp rào: “Vô tâm du cách nhất trùng quan.” Nếu bảo đến đó là xong th́ không được v́ tâm không là không những niệm khởi lăng xăng, nhưng chỗ đó chưa phải là cứu kính. Khi biết không có niệm lăng xăng, nhưng cái chân thật vẫn hiện tiền th́ được, c̣n chỉ biết cái không mà quên cái hiện tiền th́ “không ăn roi vọt cũng ăn thoi”.

43. Cử: Từ Minh hỏi Chân Điểm Hung về đại ư Phật pháp. Chân đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi ḷng sông. Minh hét, nói: Đầu bạc răng vàng vẫn khởi kiến giải này. Chân rơi lệ, giây lâu nói: Không biết thế nào là đại ư Phật pháp? Minh đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi ḷng sông. Chân đại ngộ.

Niêm: Người nhân thấy th́ gọi là nhân, người trí thấy th́ gọi là trí.

Tụng: Kia đây đồng khảy một cung đàn,

            Cần phải trao cho bạn tri âm.

            Không mây, trăng có tuy đồng đấy,

            Nào khác núi cao cùng nước sâu.

            Dốt: Trọn ngày theo hồng trần,

            Chẳng biết báu nhà ḿnh.

            Ôi: Buông tay không tựa toàn thể hiện,

            Lăo chài thuyền nhỏ đậu hoa lau.

Quí vị thấy lạ không? Khi hỏi thế nào là đại ư Phật pháp th́ đáp được một câu rất hay: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi ḷng sông. Không mà lại sanh, có lại rơi, đó là muốn nói đại ư Phật pháp không dính mắc hai bên có không. Ngài Từ Minh là một tay cừ khôi, chưa vội chấp nhận nên hét nói: Đầu bạc răng vàng vẫn khởi kiến giải này. Nếu là người thật ngộ th́ khi bị nói như thế phải có một thái độ, một hành động ǵ để tỏ rằng câu nói của ḿnh là không sai, nhưng ngài Chân Điểm Hung lại rơi lệ rồi hỏi: Không biết thế nào là đại ư Phật pháp? Thế là nghe người ta nói ḿnh bắt chước nói theo chớ chưa thấy được. V́ vậy ngài Từ Minh liền lập lại: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi ḷng sông. Chân đại ngộ, tức là được xác nhận nên tin chắc không c̣n nghi ngờ nữa. Như vậy người xưa có tài biết ai chưa đủ ḷng tin th́ thử, dù câu nói đúng mà vẫn bẻ lại, khi bị bẻ nếu ḿnh hoảng hốt th́ thấy là sai.

Niêm: “Người nhân thấy th́ gọi là nhân, người trí thấy th́ gọi là trí.”

Cùng một câu mà người chưa ngộ nói vẫn là chưa ngộ, người ngộ nói vẫn là ngộ rồi.

Tụng:  

            Kia đây đồng khảy một cung đàn,

            Cần phải trao cho bạn tri âm.

            Không mây, trăng có tuy đồng đấy,

            Nào khác núi cao cùng nước sâu.

Ngài Từ Minh và Chân Điểm Hung giống như cùng khảy một cung đàn, nhưng âm ba khác nhau v́ người có học đàn với người chưa học. Người hiểu và cảm thông được với ḿnh mới đúng cùng một cung đàn nhịp nhàng với nhau. Cả hai người cùng nói một câu nhưng “nào khác núi cao cùng nước sâu”, người trên trời, người dưới vực, khác nhau chỗ ngộ và chưa ngộ.

            Dốt: Trọn ngày theo hồng trần,

            Chẳng biết báu nhà ḿnh.

            Ôi: Buông tay không tựa toàn thể hiện,

            Lăo chài thuyền nhỏ đậu hoa lau.

Kết thúc là nếu đi trong cuộc đời, buông thơng tay không dính vào sự vật th́ toàn thể hiện tiền, rồi sẽ yên ổn giống như lăo chài mệt mỏi đậu thuyền cạnh bờ hoa lau ngủ ngon, ḷng không bận bịu.

Tóm lại từ những lời dạy đơn giản gần gũi với Phật tử đến những lời dạy đủ tư cách một Thiền sư của vua Trần Thái Tông cho chúng ta thấy người xưa nói đến nơi, làm đến chốn, không phải như chúng ta chỉ học lóm, nói được làm không được. Tuy sống trong cảnh nhung lụa sang trọng nhưng Ngài không nhiễm không dính, nên người sau thường kết luận các vua đời Trần xem ngai vàng như dép rách, muốn từ bỏ lúc nào cũng được. Đó là điểm đặc biệt của người thật thấy đạo. Trái lại chúng ta hiện nay có chùa khang trang một chút, chùa là của bá tánh mà bỏ cũng không đành. Những lời giảng nói của ngài Trần Thái Tông có giá trị ở chỗ Ngài thấy được và làm được. Khi trở về già, Ngài về động Thái Vi ở gần vùng Hoa Lư, mở mang cho dân làm ruộng lập ấp, đồng thời Ngài tu tại đó, nhưng sử không ghi Ngài xuất gia hay c̣n tại gia. Những bài nói về ngũ giới, sám hối lục căn là Ngài viết lúc ở tại triều, c̣n những bài tụng cổ v.v... có lẽ Ngài viết lúc về già. Ở nơi yên tĩnh tu hành, Ngài thâm nhập được nên có cái nh́n sâu sắc, đúng tinh thần của một Thiền sư. Tuy là một vị vua đa đoan trăm công ngàn việc, trong thời đất nước bị ngoại xâm, mà Ngài vẫn tu được, vẫn thấy đạo. Chúng ta phải quí trọng và noi gương Ngài để tự nhắc nhở. Chúng ta đang ở trong hoàn cảnh rảnh rang, dễ dàng trăm phần, nhận lănh vài việc nhỏ trong chùa mà than bận quá tu không được. Đó là lỗi tại ai? Đừng trách cảnh mà chỉ buồn v́ ḿnh không khéo. Đổ cho hoàn cảnh th́ t́m khắp quả đất cũng không có cảnh nào như ư, chỉ chúng ta biết ứng dụng ngay trong cảnh đó, thâm nhập được đạo lư th́ nơi nào cũng tu được. Đó là lời nhắc chung cho toàn chúng.

]

 

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]

[Trang chu] [Kinh sach]