[Trang chu] [Kinh sach]

KHÓA HƯ LỤC

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]


NIÊM TỤNG KỆ

 

Dịch

1. Cử: Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đă giáng vương cung, chưa ra thai mẹ độ người đă xong.

Niêm:  Gươm báu chưa vung, tướng quân đă lộ.

Tụng:  Không có h́nh hài, chửa rời quê,

            Sớm tối đưa người qua bến mê.

            Cất bước ngao du không xen cách,

            Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.

2. Cử: Thế Tôn mới sanh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: Trên trời dưới đất chỉ ta tôn quí.

Niêm: Một áng mây trắng che cửa động,

            Đàn chim về tổ thảy quên đường.

Tụng:  Đạt-đa mới giáng Tịnh Vương cung,

            Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.

            Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,

            Bao người con Phật mất gia phong.

3. Cử: Thế Tôn đưa cành hoa, Ca-diếp mặt rạng rỡ mỉm cười.

Niêm: Vén đứng lông mày để mắt xem,

            Tiến lên suy nghĩ cách ngàn non.

Tụng:  Thế Tôn nắm dựng một cành hoa,

            Ca-diếp sáng nay được đến nhà.

            Nếu bảo đây là truyền pháp yếu,

            Về Nam xe Bắc lối càng xa.

4. Cử: Ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời?        

Niêm: Trừ người quả thật con ta đó,

            Ai kẻ bạo chân vào đường này.

Tụng: Lao quan khó buộc có ai tri,

            Ngôn ngữ đều quên không chỗ y.

            Chẳng phải trong đời con ngựa giỏi,

            Do đâu bất chợt được tiện nghi.

5. Cử: Thế Tôn lên pháp ṭa, Văn-thù bạch chúng rằng: Quán kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế.

Niêm: Khảy khúc Dương Xuân đàn không dây,

            Muôn năm ngàn thuở tiếng nào dứt.

Tụng: Tuy nói câu câu chẳng vết tỳ,

            Giấu sừng, đuôi vẫn hiện như ri.

            Nào giống một cành sáo không lỗ,  

            V́ anh thổi khúc Thái b́nh thi.

6. Cử: Vua nước Kế-tân cầm kiếm, bảo Tổ thứ hai mươi bốn (Sư Tử) rằng: Thầy được năm uẩn không chăng? Tổ đáp: Đă được. Vua hỏi: Ĺa sanh tử chăng? Tổ đáp: Đă ĺa. Vua hỏi: Có thể thí cái đầu cho tôi được không? Tổ đáp: Thân c̣n không phải của ta, huống nữa là đầu! Vua liền chém. Sữa trắng vọt ra, tay vua tự rơi.

Niêm: Đem đầu kề gươm bén,

            Dường như chém gió xuân.

Tụng: Đao bén chém nước cùng xuy quang

                                                            (thổi ánh sáng),

            Việc này nên biết nào ngại ǵ.

            Báo tin sáng ấy xa khói, sóng,

            Ai biết riêng có nghĩ suy lành.

7. Cử: Đại sư Đạt-ma đến chùa Thiếu Lâm ở Lạc Dương, chín năm ngồi xây mặt vào vách.

Niêm: Để mắt xem, thôi ngủ gật.

Tụng: Chim Bằng vỗ cánh đến Nam Minh

                                                                        (Nam Hải),

            Nối gót luống công muôn dặm tŕnh.

            Đêm trước chỉ tham vui yến tiệc,

            Sáng nay bất giác say men nồng.

8. Cử: Nhị Tổ xin Sơ Tổ pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho ông. Nhị Tổ thưa: Con t́m tâm không thể được. Sơ Tổ bảo: Ta an tâm cho ông rồi.

Niêm: Em bé lên ba ôm trống giấy,

            Ông già tám chục mặc áo cầu.

Tụng:  Tâm đă không tâm nói với ai,           

            Người câm thức mộng mắt tṛn xoe.

            Lăo tăng dối bảo an tâm đấy,

            Cười ngất bàng quan chẳng tự hay.

9. Cử: Ngài Văn-thù thấy cô gái nhập định gần Phật, Ngài đến xuất định không được. Phật sai Bồ-tát Vơng Minh đến xuất định được.

Niêm: Đứa con oan gia, tan gia phong ta.

Tụng: Đều cùng xuất định có sơ thân,

            Định ấy nên là chửa chánh chân.

            Nếu thật Hóa công không hậu bạc,

            Xoay vần xuân đến khắp mọi phần.

10. Cử: Mă Tổ nói: Từ sau loạn Hồ ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối.

Niêm: Dù cho chẳng phạm mảy may,

            Vẫn là cầm bánh dính tay.

Tụng: Trước kia làm bạn khách rượu chè,

            Quán rượu thường nằm bên cạnh nhà.

            Giả thử khoe khoang người lanh lợi,

            Giữa đường mất áo chịu thôi mà.

11. Cử: Bá Trượng tái tham Mă Tổ, Mă Tổ hét một tiếng. Bá Trượng đại ngộ.

Niêm: Ngàn mũi nhọn, không bằng một nhát mai cùn.

Tụng:  Ngày trước xe thơ chẳng cùng đồng,

            Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.

            Mă Tổ một phen vung kiếm bén,

            Từ đây đường nẻo tin tức thông.

12. Cử: Quốc sư một ngày gọi thị giả ba lần. Thị giả ba lần dạ. Quốc sư nói: Ngỡ là ta phụ ngươi, ngược lại ngươi phụ ta.

Niêm: Như người uống nước, lạnh nóng tự biết.

Tụng: Dưới trên xướng họa xứng cùng hai,

            Ư ấy so đâu biết ngắn dài.

            Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch,

            Trong đây chỉ hứa tự ḿnh hay.

13. Cử: Đại Qui nói: Câu có câu không như dây leo cây. Sơ Sơn hỏi: Cây ngă dây khô câu về chỗ nào? Đại Qui cười to ha hả!

Niêm: Nước chảy ắt về biển, trăng lặn chẳng rời trời.

Tụng: Sóng lặng yên rồi, trận gió thâu,

            Uổng công hướng ngoại khổ t́m cầu.

            Khối nghi cười nát thành trăm mảnh,

            Từ đó mới phân đá với châu.

14. Cử: Bá Trượng bảo: Thế nào là pháp không v́ người nói? Nam Tuyền đáp: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.

Niêm: Ngàn Thánh t́m dấu y chẳng được, toàn thân ẩn tại đại hư không.

Tụng: Trước đây công án không lệch nghiêng,

            Đối diện xem xem hội chăng liền.

            Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,

            Đêm về như trước ngủ bờ lau.

15. Cử: Nam Tuyền nói: Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo.

Niêm: Uống cạn huyền vi lư, đường về dưới trăng đi.

Tụng:  Muôn tiếng trùng lặng, sao Đẩu dời,

            Bầu trời trong suốt gợn mây vơi.

            Nương tựa gậy lê lên gác ngắm,

            Yên yên lặng lặng thật thảnh thơi.

16. Cử: Sau khi Lâm Tế khai hóa chỉ dùng gậy hét dạy đồ chúng. Vừa thấy Tăng vào cửa liền hét.

Niêm: Mùng năm tháng năm giờ ngọ viết,

            Miệng đỏ lưỡi độc tận tiêu trừ.

Tụng: Vào nhà liền hét muốn làm chi?

            Dẫn được cháu con tỉnh giấc mê.

            Chẳng phải sấm xuân vang một tiếng,

            Làm sao vỏ hạt được nẩy mầm.

17. Cử: Nam Tuyền nói: Tâm b́nh thường là đạo.

Niêm: Lạnh nói là lạnh, nóng nói là nóng.

Tụng: Ŕu búa không cần, ngọc trắng tinh,

            Đâu do mài giũa để cầu tân.

            Đường về chẳng bước nhà vẫn tới,

            Trao kẻ trèo non buông thơng tay.

18. Cử: Triệu Châu nói: Mọi người bị mười hai thời sai khiến, Lăo tăng sai khiến được mười hai thời.

Niêm: Cậy thế dối người, không nơi căn cứ.

Tụng:  Lăo này hay khiển mười hai thời,

            Rồng dữ cọp hung thảy được thuần.

            Cần phương chỉ sắt thành vàng thật,

            Chẳng để cho người có việc nghe.

19. Cử: Tăng hỏi Lâm Tế: Thế nào là vô vị chân nhân? âm Tế đáp: Cục cứt khô.

Niêm: Bắn sẻ mất châu, ném chuột nhơ đồ.

Tụng: Vô vị chân nhân, cục cứt khô,

            Do người Thích tử mất gia phong.

            Nh́n xuống xem xem, biết chẳng biết,

            Con trâu vào biển dấu vết không.

20. Cử: Triệu Châu nói: Khám phá bà già ở Ngũ Đài Sơn xong.

Niêm: Ngũ nghịch nghe sấm, chẳng cho bịt tai.

Tụng: Khảy móng Đài Sơn hết nói ngoa,

            Chẳng phiền bước tới được về nhà.

            Can qua chẳng động ḷng người phục,

            Gươm bén đâu cần ra hộp ngà.

21. Cử: Triệu Châu nói: Phật vàng không độ được ḷ đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi trong nhà.

Niêm: Núi là núi nước là nước, Phật ở chỗ nào?

Tụng: Trên đồ Vơng Xuyên xếp thành h́nh,

            Ngày trước Vương Duy được nổi danh.

            Uổng phí mực son nơi khó vẽ,

            Trong không trăng sáng cùng gió lành.

22. Cử: Triệu Châu nói: Tôi ở Thanh Châu may một chiếc áo vải nặng bảy cân.

Niêm: Trấn Châu củ cải c̣n thể được,

            Thanh Châu áo vải lại phiền người.

Tụng:  Một manh áo vải thật lạ thường,

            Tùng Thẩm không màng chẳng cất rương.

            Trong đây nghĩ nghị chia cân lượng,

            Cười ngất nhà đông, Mạnh Bát Lang.

23. Cử: Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?

            Triệu Châu đáp: Không. Tăng lại hỏi, Triệu Châu đáp: Có.

Niêm: Lấy hai so một.

Tụng: Hỏi ngay ở trước, đáp có không.

            Bảo thẳng ngay lời dứt nhóm ngông.

            Một đời tự phụ người tài giỏi,

            Thế ấy vẫn là chẳng trượng phu.

24. Cử: Triệu Châu nói: Chỗ có Phật chẳng trụ, chỗ không Phật chạy qua gấp.

Niêm: Nước đến thành ao, roi va lằn nổi.

Tụng: Chỗ Phật có không cả hai quên,

            Lời này xem lại chưa được toàn.

            Sau rốt cầm hoa đưa trở lại,

            Chẳng rời tấc bước đến Tây thiên.

25. Cử: Thủ Sơn đưa trúc bề nói: Bảo là trúc bề tức chạm, chẳng gọi trúc bề tức trái, hăy gọi là cái ǵ?

Niêm: Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy.

Tụng: Trúc bề chạm, trái thật khó phân,

            Ngay đó rơ ràng nhắc với người.     

            Tuy vốn đường bằng bụi không dấy,

            Một trường bày hiện gai góc đầy.

26. Cử: Tăng hỏi Động Sơn (Thủ Sơ): Thế nào là Phật? Sơn đáp: Trên vách ba cân gai.

Niêm: Gọi một vật lại chẳng trúng.

Tụng: Hỏi Phật thế nào, nói đáp anh,

            Động Sơn trên vách gai mấy cân.

            Tuy nhiên không có phong trần dính,

            Cũng vẫn c̣n đem cảnh chỉ người.

27. Cử: Tăng hỏi Ḥa thượng Hiện Tử: Thế nào là ư Tây sang? Hiện Tử đáp: Mâm rượu trước bàn thần.

Niêm: Nếu chẳng phải sư tử con, đâu khỏi chạy theo khối đất lăn.

Tụng:  Chặt đứt cội nguồn không chỗ nương,

            Ở đây nhắc lại để anh tường.

            Nếu bảo trước thần là Tổ ư,

            Khác nào kẻ gọi khố là quần.

28. Cử: Quốc sư Vô Nghiệp nói: Nếu niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông chưa hết, chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Ḥa thượng Bạch Vân Đoan nói: Giả sử niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa.

Niêm: Đốt non cần cọp chạy, đập cỏ cốt rắn kinh.

Tụng: Lời này xét lại chí khí khinh,

            Đập cỏ cốt là bọn rắn kinh.

            Nếu người rành lối Trường An ấy,

            Buông thơng tay đi khỏi hỏi tŕnh.

29. Cử: Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc Lăo túc khắp nơi đều bảo: “Tiếp vật lợi sanh.” Chợt gặp ba hạng người bệnh lại, làm sao tiếp? Người bệnh mù, giơ chùy dựng phất họ chẳng thấy. Người bệnh điếc, nói năng tam-muội họ không nghe. Người bệnh câm, dạy họ nói, nói không được.

Niêm: Khát uống đói ăn, lạnh mặc nóng quạt.

Tụng: Buồn th́ ủ rũ vui tươi cười,

            Mũi dọc mày ngang chẳng khác người.

            Đói khát lạnh nồng tùy chỗ được,

            Đâu nên bất chợt lại sanh nghi.

30. Cử: Thụy Nham thường gọi: Ông chủ nhân, tỉnh tỉnh đi, về sau chớ bị người lừa gạt.

Niêm: Khóc đến máu tuôn không chỗ dụng,

            Chi bằng ngậm miệng qua xuân tàn.

Tụng: Thụy Nham thường gọi chủ nhân ông,

            Lược giỏi cơ sâu cũng chẳng hùng.

            Nếu quả thế gian tướng vô địch,

            Đợi ǵ gươm giáo mới là hưng.

31. Cử: Tam Thánh nói: Tôi gặp người liền ra, ra th́ chẳng v́ người. Hưng Hóa nói: Tôi gặp người th́ chẳng ra, ra th́ v́ người.

Niêm: Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.

Tụng: Gặp khát tức th́ uống nước ngay,

            Nói ăn ngày trọn bụng đói chay.

            Hai bên gươm bén thôi niêm kín,

            Khi khác trẻ con miệng họa này.

32. Cử: Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong đến, chỉ tịnh b́nh nói: Tịnh b́nh là cảnh, ông không được động đến cảnh.

Niêm: Nói có, nhằm chỗ nào để.

Tụng: Trong gương không nhớp luống tự chùi,

            Dụng hết công phu uổng phí thôi.

            Lặng lặng im im tùy chỗ thích,

            Cơm xong liền đó uống chung trà.

33. Cử: Thạch Đầu nói: Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy chẳng được.

Niêm: Các hạnh vô thường, tất cả đều khổ.

Tụng: Câu nói hay khéo đem đến ông,

            Tạm làm mây trắng che cửa động.

            Dù cho toàn được mười phần đúng,

            Vẫn ở giữa đường muôn dặm trông.

34. Cử: Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Giáp Sơn? Sơn đáp: Vượn ẵm con về sau núi biếc, chim tha hoa rụng trước non xanh.

Niêm: Cây gậy tùy thân, gặp trường th́ đùa.

Tụng: Giáp Sơn cảnh vắng không người đến,

            Ngay đó phải nên làm những ǵ?

            Nếu người thật được đôi mắt sáng,

            Giờ ngọ mặc t́nh trống canh ba.

35. Cử: Tăng hỏi Mục Châu: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Châu đáp: Có bao nhiêu bánh đem hết lại đây.

Niêm: Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.

Tụng:  Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,

            Vạch lá t́m cành chẳng nhọc ḿnh.

            Vô biên huyền nghĩa đều hiện rơ,

            Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.

36. Cử: Trong hội Lâm Tế, hai vị Thủ tọa nhà Đông nhà Tây gặp nhau đồng thời hét. Tăng hỏi: Lại có chủ khách hay không? Lâm Tế đáp: Chủ khách rơ ràng.

Niêm: Cũng là vượn trắng nói lăng xăng.

Tụng:  Thánh chúa ngày nay cổ hóa phong,

            Bản đồ văn phạm trọn cùng đồng.

            Bờ cơi xa gần phân rành rơ,

            An dân tế thế nào kể công.

37. Cử: Huyền Sa nói: Nếu luận việc này, ví như người chủ một thửa ruộng, đến trong một phạm vi đă bán cho các ông rồi, chỉ c̣n cái cây ở trung tâm vẫn thuộc về Lăo tăng.

Niêm: Biển cả chẳng nạp tử thi.

Tụng: Dù người liễu ngộ ngời ngời tỏ,

            Muôn lự đầu tâm hết lăng xăng;

            Trong đây c̣n có tơ hào dấy,

            Vào mắt mạt vàng lại xốn xang.

38. Cử: Tăng hỏi Ḥa thượng Tư (Hành Tư) về đại ư Phật pháp.

            Ḥa thượng Tư đáp: Ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu?

Niêm: Bóng trúc quét thềm trần chẳng dấy,

            Vầng trăng xuyên biển nước không tỳ.

Tụng: Lời này quả thật bậc anh linh,

            Gồm hết căn cơ tiếp hữu t́nh.

            Một hỏi, Lô Lăng gạo giá mấy,

            Hoàn toàn trọn chẳng dính đồ tŕnh.

39. Cử: Tăng hỏi Thiền sư Văn-thù: Muôn pháp về một, một về chỗ nào? Văn-thù đáp: Sông Hoàng Hà chín khúc.

Niêm:Nhân khi có trăng đẹp, bất thần qua Thương Châu.

Tụng: Hoàng Hà chín khúc v́ nêu ra,

            Chẳng dính đồ tŕnh tự đến nhà.

            Nhiều kẻ ban ngày mở mắt ngóng,

            Đâu hay chim trĩ đến Tân La.

40. Cử: Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: Ngươi là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? Triệu Châu đáp: Có chủ. Nam Tuyền hỏi: Thế nào là chủ? Triệu Châu khoanh tay thưa: Hôm nay kính chúc Ḥa thượng luôn được muôn phước.

Niêm: Co tay chuyển chùy chẳng đổi gươm,

            Người khéo sử dụng đều được tiện.

Tụng: Khoanh tay Tùng Thẩm chỉ cho người,

            Chẳng kẹt hai bên chủ tự phân.

            Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật,

            Nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.

41. Cử: Tăng hỏi Mộc Am: Thế nào là việc của Nạp y (Tăng sĩ). Mộc Am đáp: Dùi châm chẳng vào.

Niêm: Ngồi yên dứt mảy trần, hư không chẳng lối thông.

Tụng: Cầm th́ mịn mượt, ấn th́ mềm,

            Trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên.

            Vốn thật hư không, không gián cách,

            Đêm về như cũ hoa quế thu.

42. Cử: Bàng cư sĩ nói: Đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về.

Niêm: Tháp nhạn đề tên, không dung giấy trắng.

Tụng: Áo may trăm mảnh giày cỏ xuyên,

            Thi Phật trong trường đă có tên.

            Nếu bảo tâm không lại ứng cử,

            Chẳng ăn roi vọt cũng ăn thoi.

43. Cử: Từ Minh hỏi Chân Điểm Hung về đại ư Phật pháp. Chân đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi ḷng sông. Minh hét, nói: Đầu bạc răng vàng vẫn khởi kiến giải này. Chân rơi lệ, giây lâu nói: Không biết thế nào là đại ư Phật pháp? Minh đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi ḷng sông. Chân đại ngộ.

Niêm: Người nhân thấy th́ gọi là nhân, người trí thấy th́ gọi là trí.

Tụng: Kia đây đồng khảy một cung đàn,

            Cần phải trao cho bạn tri âm.

            Không mây, trăng có tuy đồng đấy,

            Nào khác núi cao cùng nước sâu.

            Dốt: Trọn ngày theo hồng trần,

            Chẳng biết báu nhà ḿnh.

            Ôi: Buông tay không tựa toàn thể hiện,

            Lăo chài thuyền nhỏ đậu hoa lau.

?

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]

[Trang chu] [Kinh sach]