[Trang chu] [Kinh sach]

KHÓA HƯ LỤC

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]


NIÊM TỤNG KỆ

(tt)

Giảng

Niêm tụng kệ do ngài Trần Thái Tông biên soạn gồm bốn mươi ba bài, mỗi bài chia làm ba phần: Cử, Niêm và Tụng. Cử là đề ra hay nêu lên một câu chuyện hoặc một câu trong kinh để giải thích. Niêm là rút gọn hay tóm tắt để nói rơ ư nghĩa của vấn đề. Tụng là giải bày thành một bài kệ bốn câu.

1. Cử: Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đă giáng Vương cung, chưa ra thai mẹ độ người đă xong.

Niêm: Gươm báu chưa vung, tướng quân đă lộ.

Tụng:  Không có h́nh hài, chửa rời quê,

            Sớm tối đưa người qua bến mê.

            Cất bước ngao du không xen cách,

            Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.

Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đă giáng Vương cung, chưa ra thai mẹ độ người đă xong.”        

Ngài Trần Thái Tông toát yếu gọn lại: “Gươm báu chưa vung, tướng quân đă lộ.” Nghĩa là người tướng quân chưa hươi gươm chém giặc, mà h́nh thức tướng quân đă lộ, v́ mang giáp đeo kiếm nên biết là tướng quân. Cũng vậy, tuy đức Phật chưa rời trời Đâu-suất đă giáng sanh trong Vương cung, chưa ra khỏi thai mẹ đă hiển bày thể bất sanh bất diệt.      

            Không có h́nh hài chửa rời quê,

            Sớm tối đưa người qua bến mê.

Tuy chỉ là pháp thân, chưa có báo thân hay hóa thân, tức là chưa ra đời mà đă độ chúng sanh rồi.       

            Cất bước ngao du không xen cách,

            Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.

Pháp thân trùm khắp không vắng mặt nơi nào, nên không phải chờ có h́nh thức phao bè mới độ được người. Chính trong thể bất sanh bất diệt là thể độ chúng sanh ra khỏi bến mê.

2. Cử: Thế Tôn mới sanh ra một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: Trên trời dưới đất chỉ ta tôn quí.

Niêm: Một áng mây trắng che cửa động,

            Đàn chim về tổ thảy quên đường.

Tụng: Đạt-đa mới giáng Tịnh Vương cung,

            Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.

            Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,

            Bao người con Phật mất gia phong.

Đức Phật vừa ra đời, tay chỉ trời tay chỉ đất nói: Trên trời dưới đất chỉ ta là hơn hết. Nghe hai câu này có nhiều người nghĩ ngă của Ngài to quá.

 Nhớ lại khi xưa tôi đi giảng, có một Phật tử hỏi: Thưa Thầy, thường mỗi bài kệ trong kinh có bốn câu, v́ sao ở đây đức Phật chỉ nói hai câu:

            Thiên thượng thiên hạ,

            Duy ngă độc tôn.

C̣n hai câu nữa ở đâu? Tôi về tra lại trong kinh A-hàm, mới biết c̣n hai câu nữa là:

            Nhất thiết thế gian,

            Sanh lăo bệnh tử.

Như vậy bài kệ có tất cả bốn câu:

            Thiên thượng thiên hạ,

            Duy ngă độc tôn.

            Nhất thiết thế gian,

            Sanh lăo bệnh tử.

Dịch:

            Trên trời duới trời,   

            Chỉ ta hơn hết.

            Tất cả thế gian,

            Sanh già bệnh chết.

“Chỉ ta hơn hết” là hơn chỗ ta là người đă qua khỏi sanh già bệnh chết, c̣n thế gian vẫn mắc kẹt trong bốn cảnh này. Bên Đại thừa thường dùng hai câu trước bỏ hai câu sau, tại sao? V́ không muốn nói qua khỏi sanh già bệnh chết là hơn hết, tức là không nói người giải thoát sanh tử là hơn hết. Đại thừa nói “Ta là hơn hết”, v́ Ta là pháp thân, chớ không phải Ta là thân phàm tục do báo, hóa hiện ra, v́ vậy nói Ta hơn hết là đủ rồi, không nói thêm hai câu sau nữa.

Trong kinh Kim Cang có bài kệ bốn câu thường được nhắc đến là:

            Nhược dĩ sắc kiến ngă,

            Dĩ âm thanh cầu ngă,

            Thị nhân hành tà đạo,

            Bất năng kiến Như Lai.

Dịch:

            Nếu dùng sắc thấy Ta,

            Dùng âm thanh cầu Ta,

            Người ấy hành đạo tà,

            Không thể thấy được Phật.

Chữ Ta trong bài kệ không có sắc tướng, không có âm thanh, đó là pháp thân. Pháp thân bất sanh bất diệt là hơn hết, không phải chỉ đức Phật mới có, mà ai ai cũng có, nên nói Ta hơn hết là đủ, không nói thêm nữa.

            Một áng mây trắng che cửa động,

            Đàn chim về tổ thảy quên đường.

Đây là thấy h́nh thức mà không thấy chỗ về. H́nh thức là tay chỉ trời tay chỉ đất nói: Ta là hơn hết. Ai cũng nghĩ Ta là thân này, cho nên không thể nào thâm nhập được lời Phật nói. Ngài Trần Thái Tông dùng hai câu niêm để giải thích: V́ đám mây trắng che cửa động, nên đàn chim quên đường về tổ. Nghĩa là v́ lầm chấp thân tứ đại là Ta nên không ai trở về được với pháp thân bất sanh bất diệt.

            Đạt-đa mới giáng Tịnh Vương cung,

            Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.

            Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,

            Bao người con Phật mất gia phong.

Ngài Tất-đạt-đa vừa giáng sanh ở cung vua Tịnh Phạn, v́ muốn giáo hóa quần sanh nên Ngài hiển bày tung tích của ḿnh, là phải đạt được pháp thân. Chúng ta cứ nghĩ Ta là thân này cho nên không ai thấy được chỗ Phật chỉ. Đức Phật đi bảy bước tay chỉ trời, tay chỉ đất nói: Ta là hơn hết, chủ yếu là chỉ thể bất sanh bất diệt nơi mọi người. V́ lầm nhận thân tứ đại là ḿnh nên không ai thấy được pháp thân. Thế nên bao người con Phật quên mất gia phong nhà ḿnh.

3. Cử: Thế Tôn đưa cành hoa, Ca-diếp mặt rạng rỡ mỉm cười.

Niêm: Vén đứng lông mày để mắt xem,

            Tiến lên suy nghĩ cách ngàn non.

Tụng: Thế Tôn nắm dựng một cành hoa,

            Ca-diếp sáng nay được đến nhà.

            Nếu bảo đây là truyền pháp yếu,         

            Về Nam xe Bắc lối càng xa.

Đức Phật nêu lên cành hoa, đưa mắt nh́n đại chúng, ai cũng im lặng, chỉ có ngài Ca-diếp mỉm cười.

“Vén đứng lông mày để mắt xem” là chỉ các bậc lăo niên lông mày rủ xuống, phải vén lên nh́n, nếu mỉm cười là đúng. “Tiến lên suy nghĩ cách ngàn non”, vừa khởi niệm suy nghĩ là cách xa ngàn dặm, không bao giờ thấy được.

            Thế Tôn nắm dựng một cành hoa,

            Ca-diếp sáng nay được đến nhà.

Đức Thế Tôn đưa cành hoa nh́n đại chúng, ngài Ca-diếp mỉm cười. Ngay đó đức Phật liền truyền pháp ấn cho Ngài: “Ta có Chánh pháp Nhăn tạng, Niết-bàn Diệu Tâm..., nay trao cho Ma-ha Ca-diếp.” Phật nói trao Chánh pháp Nhăn tạng mà Ngài có trao cái ǵ không? Thế nên nói:

            Nếu bảo đây là truyền pháp yếu,

            Về Nam xe Bắc lối càng xa.

Muốn về Nam mà xe hướng đầu đi qua phương Bắc th́ càng đi càng xa. Vậy có truyền pháp ấn hay không? Không có mà có. Nếu nghĩ pháp ấn là cái ǵ từ tay trao cho là không bao giờ hiểu được. Chẳng qua vị thầy muốn chỉ cái đó cho thấy, người đệ tử nhận thấy, sáng lên, biết được ư thầy, vị thầy liền ấn chứng. V́ thế đức Phật đưa cành hoa lên, chư Tổ trong nhà Thiền dựng đứng phất tử, Tổ Bá Trượng chỉ đốm lửa, yếu chỉ đâu có khác. Đó là những điểm đặc biệt trong nhà Thiền.

4. Cử: Ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời.

Niêm: Trừ người quả thật con ta đó,

            Ai kẻ bạo chân vào đường này.

Tụng: Lao quan khó buộc có ai tri,

            Ngôn ngữ đều quên không chỗ y.

            Chẳng phải trong đời con ngựa giỏi,

            Do đâu bất chợt được tiện nghi.

Có một ngoại đạo đến hỏi Phật: Tôi chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời. Đức Phật ngồi lặng thinh. Ngoại đạo tán thán: Thế Tôn v́ con mà chỉ chỗ cứu kính. Vậy Phật có nói câu nào không?

            Trừ người quả thật con ta đó,

            Ai kẻ bạo chân vào đường này.

Người nào là con thật của ta mới dám đi đường này, ngoài ra không ai dám cất bước vào.

            Lao quan khó buộc có ai tri,

            Ngôn ngữ đều quên không chỗ y.

Khi đến chỗ cuối cùng, không bị trói buộc, đâu có ai biết được. Tôi xin nhắc lại câu chuyện trong kinh: Có một ngoại đạo đến hỏi Phật: Thưa Thế Tôn, con không hỏi có lời, không hỏi không lời, Thế Tôn dạy cho. Đức Phật ngồi lặng thinh giây lâu. Ngoại đạo nói: Thế Tôn thật là đại từ đại bi, đă chỉ cho con chỗ cứu kính. Khi ngoại đạo đi rồi, Ngài A-nan đứng hầu một bên, ngạc nhiên hỏi Phật: Bạch Thế Tôn, ngoại đạo hiểu ǵ mà nói câu đó. Phật bảo: Con ngựa hay thấy bóng roi liền chạy. V́ thế trong bài tụng có hai câu:

            Chẳng phải trong đời con ngựa giỏi,

            Do đâu bất chợt được tiện nghi.

Bất chợt là dịch chữ Hán “đặc địa”. Con ngựa hay là nhắc lại câu chuyện trong kinh. Tất cả ngôn ngữ nói ra không phải là cứu kính, tại sao? V́ ngôn ngữ lập trên phương diện đối đăi, chớ không phải tuyệt đối. Như nói trắng là đối với đen, nói tốt là đối với xấu, nói phải là đối với quấy, không có câu nói nào ngoài đối đăi. Thường đến chỗ vượt đối đăi chư Tổ chỉ hét hoặc hư một tiếng mà không nói lời nào. C̣n chúng ta cả ngày nói ồn ào, cố gắng nói đến chỗ cứu kính, mà càng nói càng xa. Dù có nói ǵ cũng ở trong đối đăi phải quấy, hơn thua, c̣n đối đăi là không phải chân lư. Thế nên chân lư không có ngôn ngữ, ngôn ngữ không có chân lư. Nhưng muốn cho người hiểu chúng ta phải nói, lại c̣n viết sách nữa, đó đều là mượn những đối đăi để tạm hiểu thôi. Thật ra chỗ cứu kính không có ngôn ngữ, v́ ngôn ngữ có hai lỗi: Một là lập trên đối đăi không phải tuyệt đối. Hai là lời nói do khởi nghĩ mới có nên động, c̣n chân lư là không động, v́ thế lời nói không đến được chân lư. Do hai lỗi này nên mất đi cái chân thật. Việc này chỉ có con cháu trong nhà mới biết được.

5. Cử: Thế Tôn lên pháp ṭa, Văn-thù bạch chúng rằng:

Quán kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế.

Niêm: Khảy khúc Dương Xuân đàn không dây.

            Muôn năm ngàn thuở tiếng nào dứt.

Tụng: Tuy nói câu câu chẳng vết tỳ,

            Giấu sừng đuôi vẫn hiện như ri.

            Nào giống một cành sáo không lỗ,

            V́ anh thổi khúc Thái b́nh thi.

Thế Tôn lên pháp ṭa, Văn-thù bạch chúng rằng: Quán kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế. Đây là bạch chùy, tức là đánh kiểng rồi tŕnh bạch với chúng: Quán kỹ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như thế. Nói như vậy mới đủ.

            Khảy khúc Dương Xuân đàn không dây,     

            Muôn năm ngàn thuở tiếng nào dứt.

Khảy bản nhạc Dương Xuân với cây đàn không dây, tiếng đàn c̣n măi không bao giờ dứt bặt. Nếu tiếng do động mà ra, tức nhiên có sanh phải có diệt. C̣n tiếng không động mà có, tiếng đó không bao giờ diệt, nên muôn năm ngàn thuở không bao giờ dứt.

Pháp của Pháp vương như thế, chúng ta hiểu chữ “như thế” ra sao? Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật giảng về “Thập Như Thị”: như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo v.v... tất cả là mười pháp như thế. Pháp của Pháp vương như thế tức là pháp của Phật là như thế, đây là chỉ tướng chân thật của các pháp.

Trong nhà Phật chữ “như thế” có nghĩa rất đặc biệt. Tỉ dụ đây là cái tách. Có người hỏi: Cái tách ra làm sao? Đáp: Cái tách là cái tách, nó như thế. Đáp vậy là đúng như thị. Nếu nói cái tách này xấu là có so sánh với cái tách khác đẹp hơn. Tức là khi trước chúng ta đă thấy một cái tách khác và đem h́nh bóng của cái tách cũ để đối chiếu với cái tách hiện giờ. Chúng ta luôn luôn dùng h́nh bóng quá khứ để so sánh với hiện tại, có so sánh là không thấy như thật. Nếu nói cái tách là cái tách, không nói ǵ thêm, nh́n thấy nó như thế là thấy như thật, đó là nh́n đúng với con mắt nhà Thiền. Nếu nh́n cái tách nói là đẹp là xấu, là nh́n với con mắt phân biệt so sánh, tức không thấy đúng như thật.

Như hiện giờ chúng ta nh́n một người đă có ác cảm với ḿnh khi trước, vừa trông thấy người ấy, chúng ta cảm thấy không vui trong ḷng, dù người ấy đang nói những lời tốt lành với bè bạn. Đó là chúng ta nh́n với khuôn cũ sẵn có cho người ấy là xấu, không thể nào tốt được. Giả sử có người có cảm t́nh với chúng ta khi trước, bị phê b́nh là xấu là dở, chúng ta liền phản đối và bênh vực ngay. Tại sao? V́ chúng ta nh́n theo h́nh bóng đẹp khi xưa đă có sẵn nơi chúng ta, nên không thấy đúng như thật về con người đó. Tóm lại, nếu thấy đúng “như thế”, th́ khi nh́n một người nào, chúng ta không có ǵ bực bội chê bai hay bênh vực bào chữa. V́ thế người tu thiền là lột hết những khuôn cũ, những kiến chấp cũ mà thế gian gọi là thành kiến hay định kiến, chỉ thấy con người và sự vật đúng như thật ngay đây và hiện giờ, các pháp như thế nào thấy như thế ấy, chớ không đem khuôn cũ để so sánh với cái mới hiện tại. Thế nên pháp “như thị” rất hay, rất đặc biệt. Tinh thần đạo Phật là thấy tất cả như thật, không theo thành kiến của chính ḿnh hay của những người thân thuộc bạn bè lập ra. Nếu thấy đúng tinh thần “như thị’ th́ chúng ta không có phiền năo. Trái lại thấy trong so sánh phân biệt th́ chúng ta sẽ bực bội rất nhiều. Đối diện với người oán hờn ḿnh, nếu thấy “như thị” th́ chúng ta không c̣n bực tức, nghĩa là không có oán tắng hội khổ. Nếu sống “như thị” th́ có người thương hay không có cũng thôi, th́ đâu có ái biệt ly khổ. Sống “như thị” th́ không khởi niệm mong cầu, thế là không c̣n cầu bất đắc khổ... Thấy “như thị’ th́ tất cả khổ đau theo đó tan hoang như mây khói. Sở dĩ hiện nay bao nhiêu thứ khổ đau dồn dập tới là v́ chúng ta sống với h́nh bóng quá khứ, sống với mong cầu tương lai, chớ không sống với các pháp hiện tại. Những ǵ trong quá khứ chúng ta cứ nuôi dưỡng, nên khi đối diện với hiện tại, như ư th́ vui, trái ư th́ buồn, như ư và trái ư là đối với khuôn cũ sẵn có. Dù cho hiện tại có thay đổi chăng nữa, nhưng v́ thành kiến nên luôn luôn chúng ta sống trong đau khổ. Nếu sống đúng như thị th́ chúng ta sẽ được an lành tự tại, những khổ đau ngang đây chấm dứt.

Như vậy cái thấy đúng “như thị” là cái thấy đạo đức, đâu mất thời giờ để nói chuyện năm xưa, đâu mất thời giờ để so sánh đối chiếu. Sống trong hiện tại, giờ ăn cơm cứ ăn cơm, giờ cuốc đất cứ cuốc đất, như thế chúng ta tránh được bao thứ điên đảo, hoặc của thời quá khứ hoặc của mong đợi tương lai. Thế nên Thiền sư nói: Cây gậy là cây gậy. Đó là nh́n đúng “như thị”. Pháp của Pháp vương như thế, mới nghe dường như đơn giản, kỳ thật khó hiểu làm sao! Song gốc của đạo là ở đây vậy, nên nói tiếng đàn không dây rất tuyệt vời không bao giờ mất.

            Tuy nói câu câu chẳng vết tỳ,

            Giấu sừng đuôi vẫn hiện như ri.

Nếu nói câu nào đều đúng “như thị” th́ câu câu đều không tỳ vết. Giấu sừng mà đuôi vẫn hiện, nói như thị mới nghe tưởng như bí mật, nhưng đă bày hiện lẽ thật rồi, đó là giấu đầu mà ló đuôi.

            Nào giống một cành sáo không lỗ,

            V́ anh thổi khúc Thái b́nh thi.

Như có cành trúc dùng làm ống sáo mà không có lỗ, v́ anh thổi khúc sáo Thái b́nh. Ai sống được như thị sẽ được thái b́nh an lạc muôn đời. Chúng ta hăy thử sống một ngày “như thị” xem có được thái b́nh muôn thuở chăng? V́ sống với quá khứ và vị lai cho nên chúng ta thường bất b́nh nổi sóng. Chúng ta ngồi lại cứ ôn nhớ những chuyện cũ rồi tự ḿnh chuốc khổ, buồn thương giận ghét. C̣n sống ngay hiện tại, tất cả như thế, th́ đâu có khổ, đó thật là thái b́nh.

Việc tu hết sức là đơn giản, đâu phải làm những điều ǵ khó khăn, chỉ thấy đúng như thế thôi, không có so sánh để khen chê thương ghét. Nếu c̣n so sánh là c̣n thương ghét, khen chê, nhân đó sanh ra các thứ phiền năo. Nếu thấy các pháp đều như thế th́ không c̣n thương ghét khen chê, chẳng phải khúc sáo thái b́nh là ǵ? Như vậy tu là cốt đem lại cho ḿnh một cuộc đời b́nh an vô sự, thanh thản không phiền hà, đó là “như thị”.

6. Cử: Vua nước Kế-tân cầm kiếm, bảo Tổ thứ hai mươi bốn (Tổ Sư Tử) rằng: Thầy được năm uẩn không chăng? Tổ đáp: Đă được. Vua hỏi: Ĺa sanh tử chăng? Tổ đáp: Đă ĺa. Vua hỏi: Có thể thí cái đầu cho tôi được không? Tổ đáp: Thân c̣n không phải của ta, huống nữa là đầu! Vua liền chém. Sữa trắng vọt ra, tay vua tự rơi.

Niêm: Đem đầu kề gươm bén,

            Dường như chém gió xuân.

Tụng : Đao bén chém nước cùng xuy quang

                                                            (thổi ánh sáng),

            Việc này nên biết nào ngại ǵ.

            Báo tin sáng ấy xa khói, sóng,

            Ai biết riêng có nghĩ suy lành.

Đây là câu chuyện Tổ Sư Tử bị vua Kế-tân giết. Ngài Trần Thái Tông niêm:

            Đem đầu kề gươm bén,

            Dường như chém gió xuân.

Vua Kế-tân đưa kiếm chém đầu Tổ dường như chém gió mùa xuân. Tại sao? V́ Tổ đă nói: Thân này c̣n không phải của ta huống nữa là đầu. Tức là thân này không phải của Ngài, nên khi bị chém đầu, Ngài xem như chém gió xuân, không có dính dáng ǵ với Ngài cả. Nếu người tu đến được chỗ này là thành Tổ rồi. C̣n chúng ta hiện nay, nếu kiếm bén đưa đến gần liền qú lạy van xin tha mạng, là v́ chúng ta c̣n thấy cái ngă quá to, quá nặng, nhưng với Tổ, Ngài thấy cái ngă không c̣n nữa. Thế nên có bài tụng:

            Đao bén chém nước cùng xuy quang

                                                            (thổi ánh sáng),

            Việc này nên biết nào ngại ǵ.

Dùng dao bén chém nước hay chém lửa cũng không được, nước và lửa không bị đứt. Dùng miệng thổi ánh sáng mặt trời, ánh sáng cũng không lay động. Như thế cầm dao chém lửa đang cháy, lửa không có vết tích ǵ, dùng dao chém nước dưới sông, nước cũng không tỳ vết. Đây là nói lên ư nghĩa: Khi vua Kế-tân cầm kiếm chém đầu Tổ Sư Tử, cũng như chém nước chém lửa, cũng như thổi ánh sáng, đối với Tổ không có nghĩa lư ǵ, nên nói “việc này nên biết nào ngại ǵ”. Tuy Tổ bị giết mà không có chút ǵ ngại ngùng hay khó khăn.

            Báo tin sáng ấy xa khói, sóng,

            Ai biết riêng có nghĩ suy lành.

“Xa khói, sóng” tức là bỏ thân nhớp nhúa vô thường. Thân này như khói, như sóng không có giá trị ǵ. Tuy bị chặt đầu, bỏ thân khói sóng, nhưng vẫn có hiện tượng tốt đẹp, nên nói: “riêng có nghĩ suy lành”, nghĩa là khi ấy Tổ được thảnh thơi giải thoát. Bỏ thân bại hoại vô thường, sống với thể bất sanh bất diệt, th́ đẹp biết dường nào, đâu có ǵ phải lo sợ hay buồn khổ. Thế nên qua lời giảng của ngài Trần Thái Tông chúng ta thấy rơ những ǵ cần làm, cần tu, chớ không phải chỉ nói chuyện suông, nhất là đối với người tu Thiền.

7. Cử: Đại sư Đạt-ma đến chùa Thiếu Lâm ở Lạc Dương. Chín năm ngồi xây mặt vào vách.

Niêm: Để mắt xem, thôi ngủ gật.

Tụng: Chim bằng vỗ cánh đến Nam Minh (Nam Hải),

            Nối gót luống công muôn dặm tŕnh.

            Đêm trước chỉ tham vui yến tiệc,

            Sáng nay bất giác say men nồng.

Đây là kể lại câu chuyện Tổ Đạt-ma khi đến ở chùa Thiếu Lâm, tại kinh đô Lạc Dương.

“Tổ Đạt-ma đến chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi xây mặt vào vách” để làm ǵ?

Ngài Trần Thái Tông niêm gọn lại: Để mắt xem, thôi ngủ gật. Tức là ngồi đó nh́n xem, chớ có ngủ gật. Chúng ta đừng tưởng lầm Tổ tiêu cực yếm thế, ngồi xây mặt vào vách, không nói đến ai. Mục đích Tổ ngồi đó là chờ người đủ điều kiện đến để truyền trao chánh pháp. Như vậy đây là một việc làm phi thường, chớ không phải có tánh cách tiêu cực, yếm thế, trốn thiên hạ. Cho nên có bài tụng:

            Chim bằng vỗ cánh đến Nam Minh

(Nam Hải),

            Nối gót luống công muôn dặm tŕnh.

Chim đại bàng một khi vỗ cánh liền tới biển Nam Hải. Nếu bắt chước nối gót theo sau th́ luống công vô ích, v́ chim vỗ cánh đă bay xa muôn dặm, chúng ta có đi theo cũng không kịp. Đó là nói việc làm của Tổ Đạt-ma giống như chim đại bàng vỗ cánh. Nếu chúng ta bắt chước ngồi xây mặt vào vách như Ngài, chỉ uổng công vô ích, chớ không bao giờ giống Ngài được.

            Đêm trước chỉ tham vui yến tiệc,

            Sáng nay bất giác say men nồng.

Đêm trước chúng ta mê vui trong yến tiệc đến khuya, sáng lại giựt ḿnh thức dậy, mặt trời đă lên cao mà c̣n say trong men nồng. Hai câu này ư nói: Chúng ta ở trong mê, mà tưởng lầm là giác, cũng như chúng ta bắt chước Tổ ngồi xây mặt vào vách, mà không biết mục đích của Ngài. Đó là bắt chước trong mê, chớ không phải đúng, như thế mê lại thêm mê, không có lợi ích ǵ.

8. Cử: Nhị Tổ xin Sơ Tổ pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho ông. Nhị Tổ thưa: Con t́m tâm không thể được. Sơ Tổ bảo: Ta an tâm cho ông rồi.

Niêm: Em bé lên ba ôm trống giấy,

            Ông già tám chục mặc áo cầu.

Tụng: Tâm đă không tâm nói với ai,

            Người câm thức mộng mắt tṛn xoe.

            Lăo tăng dối bảo an tâm đấy,

            Cười ngất bàng quan chẳng tự hay.

Nhị Tổ Huệ Khả xin Sơ Tổ Đạt-ma pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho. Ngài Huệ Khả t́m tâm không được, thưa: Con t́m tâm không được. Tổ bảo: Ta đă an tâm cho ngươi rồi. Như vậy Tổ có an tâm thật hay không? Làm cách ǵ để an tâm? - Không có một pháp để an tâm. Thế mà Sơ Tổ lại bảo đă an tâm cho ngươi rồi. Đó là nói thật hay không?

            Ngài Trần Thái Tông niêm:

            Em bé lên ba ôm trống giấy,

            Ông già tám chục mặc áo cầu.

Trống giấy là của người lớn khéo đánh mới không bể, lại đưa cho con nít lên ba vỗ th́ lủng ngay. C̣n ông già tám mươi tuổi lại mặc áo cầu, là áo vẽ h́nh bông hoa để cho con nít mặc.

Ư ngài Trần Thái Tông nói Tổ Đạt-ma chỉ pháp an tâm cho Tổ Huệ Khả giống như là trao trống giấy cho đứa trẻ lên ba, hay là bắt ông già tám mươi tuổi mặc áo bông vậy. Đây là Tổ Đạt-ma đánh lừa nhưng rất khéo.

            Tụng:

            Tâm đă không tâm nói với ai,

            Người câm thức mộng mắt tṛn xoe.

Tâm đă không thật làm sao nói! Cũng như người câm nằm ngủ mộng thấy ḿnh được đăi một bữa tiệc rất ngon, khi thức dậy muốn kể lại cho bạn bè làm sao kể? Chỉ nh́n người rồi trợn tṛn đôi mắt, chớ không nói ǵ được. Cũng như vậy, tâm không thật lại bảo đem ra, làm sao đem. Tâm vọng tự nó dấy lên ḿnh thấy nhưng không nói cho người nghe được, chỉ cho người thấy được, giống như người câm nằm mộng mà bảo kể lại giấc mộng th́ không kể được.

            Lăo tăng dối bảo an tâm đấy,

            Cười ngất bàng quan chẳng tự hay.

Tổ nói: ta an tâm cho ngươi rồi, đó là một cách nói dối, nhưng dối mà không dối. Người bàng quan không biết được việc này.

Hiện giờ chúng ta có biết Tổ Đạt-ma an tâm bằng cách nào không? Đây là thuật của Tổ, bảo an tâm mà tâm đó hư dối không thật, làm sao an? Tỉ dụ như hiện giờ cái tách cái dĩa có h́nh tướng để bên cạnh ghế nó sẽ ngă đổ, nếu để giữa bàn bảo đảm là an ổn. Vậy có h́nh thức mới có chỗ nơi. C̣n tâm suy nghĩ vọng tưởng của chúng ta hiện giờ ra sao đang ở đâu? Nó không h́nh không tướng, muốn an làm sao an? Thế nên Sơ Tổ bảo: T́m tâm đem ra ta an cho. Nghĩa là ông muốn an cái không h́nh không tướng, nếu t́m được đem ra đây, th́ ta an được. Nhưng ngài Huệ Khả t́m đáo để không được. Khi t́m không được, tức là tâm an mất rồi. Như vậy ngài Huệ Khả tự an tâm mà nói Sơ Tổ an tâm, không phải nói dối là ǵ? Thế mà chúng ta nghĩ có pháp an tâm thật, đó là người bàng quan không biết ǵ.

Trọng tâm việc tu là biết xoay lại t́m. V́ tâm vọng không thật, nên một phen t́m lại nó mất tiêu, thế là tự nó đă an rồi. Nói an tâm nhưng thật ra không có tâm nào, không có cách nào để an, chỉ là biết xoay lại soi sáng chính ḿnh, tâm vọng mất đi, đó là an tâm. Đây là điểm đặc biệt trong nhà Thiền, nếu chúng ta không nắm vững, khó mà biết được chỗ này.

9. Cử: Ngài Văn-thù thấy cô gái nhập định gần Phật. Ngài đến xuất định không được. Phật sai Bồ-tát Vơng Minh đến xuất định được.

Niêm: Đứa con oan gia, mất gia phong ta.

Tụng: Đều cùng xuất định có sơ thân,

            Định ấy nên là chửa chánh chân.

            Nếu thật Hóa công không hậu bạc,

            Xoay vần xuân đến khắp mọi phần.

Đây là câu chuyện dẫn trong kinh: Một hôm đức Phật đang thuyết pháp cho Tăng chúng, có một cô gái đến ngồi gần ṭa đức Phật nhập định. Ngài Văn-thù thấy vậy là vô phép, mới dùng thần thông để xuất định cho cô, nhưng không được. Sau đó đức Phật bảo Bồ-tát Vơng Minh đến xuất định th́ cô mới xuất. Ngài Vơng Minh là Bồ-tát mới tu, c̣n ngài Văn-thù là Bồ-tát Đại Trí, rất là đặc sắc, thế mà Ngài không làm được việc mà một vị sơ cơ làm được. Như vậy định của cô gái có phải là đại định không?

Lời Niêm: Đứa con oan gia, mất gia phong ta. Nếu là định cứu kính chân thật th́ người đại trí đă cho xuất được, c̣n định đó chưa phải là chân thật nên người tu sơ cơ cũng xuất được. Thí dụ như có những Phật tử nghiên cứu Phật pháp khá, đến đây hỏi đạo lư với tôi, khi tôi giảng nói họ nghe họ hiểu. C̣n nếu người chưa hiểu Phật pháp chút nào hay hiểu lệch lạc, đến đây hỏi, tôi có nói họ cũng không hiểu. Nhưng khi đến nhà khách, thầy Tri khách nói họ lại hiểu. Vậy những ǵ cao sâu th́ người tu cao nói được, c̣n những điều thông thường th́ người thường nói chuyện vui vui đây kia họ nghe họ hiểu.

            Thế nên có lời b́nh như sau:

            Đều cùng xuất định có sơ thân,

            Định ấy nên là chửa chánh chân.

Nếu cùng xuất định mà có kẻ sơ người thân th́ định ấy chưa chân chánh.

            Nếu thật Hóa công không hậu bạc,

            Xoay vần xuân đến khắp mọi phần.

Nếu thật trời đất không có đối với người sâu, cạn khác nhau th́ nơi đâu cũng được mùa xuân. Nhưng v́ có hậu bạc, nên mùa xuân không cùng khắp. Đó là để nói định có chân và không chân, không phải định nào cũng đều chân chánh như nhau.

10. Cử: Mă Tổ nói: Từ sau loạn Hồ ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối.

Niêm: Dù cho chẳng phạm mảy may,

            Vẫn là cầm bánh dính tay.

Tụng: Trước kia làm bạn khách rượu trà,

            Quán rượu thường nằm bên cạnh nhà.

            Giả thử khoe khoang người lanh lợi,

            Giữa đường mất áo chịu thôi mà.

Đây là câu chuyện trong sử, Mă Tổ ra đi giáo hóa, trụ ở Giang Tây. Thầy Ngài là Tổ Nam Nhạc Hoài Nhượng cho người tới hỏi: Từ khi rời Tổ Nam Nhạc đến nay, Thầy ở đây truyền bá thế nào? Mă Tổ nói: Từ sau loạn Hồ ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối. Loạn Hồ tức là thời loạn lạc ở Trung Hoa. Sau đó ba mươi năm th́ tương muối lúc nào cũng sẵn, không có thiếu. Ư muốn nói từ khi thấy đạo đến nay, lúc nào cũng hiện tiền, không có thiếu thốn.

Niêm:

            Dù cho chẳng phạm mảy may,

            Vẫn là cầm bánh dính tay.

Nói chưa từng thiếu tương muối, nghĩa là khoe ta là người không có thiếu. Như thế tuy không phạm lỗi, nhưng cũng là cầm bánh dính tay, hơi dơ một chút.

            Ngài Trần Thái Tông có lời b́nh:

            Trước kia làm bạn khách rượu trà,

            Quán rượu thường nằm bên cạnh nhà.

            Giả thử khoe khoang người lanh lợi,

            Giữa đường mất áo chịu thôi mà.

            Trước kia tức là lúc loạn Hồ.

Khoe khoang người lanh lợi là nói Mă Tổ bảo chưa từng thiếu tương muối. Nhưng giữa đường mất áo phải chịu thôi, nghĩa là tuy lanh lợi thật nhưng cũng bị mất áo t́m không được, vậy mới đúng với ư nghĩa cầm bánh dính tay. Nếu tự cho ḿnh không từng vắng thiếu, vẫn là có chút khoe khoang!

Phụ chú:

1. Những bài Niêm Tụng này, mới nghe thấy rất khó. Người nghe chỉ có hứng thú trong cái dứt bặt nghĩ tưởng, c̣n suy gẫm th́ không thấy thú chút nào. Nghe rồi mỗi ngày thấm một ít, lâu ngày thành quen, mới biết Thiền rất là quan trọng. Nhiều khi chúng ta nghĩ Thiền nói chuyện đâu đâu không hiểu nổi, dù có hay cũng trở thành không hay. Nếu không hay th́ sách vở để lại làm ǵ cho vô ích? Chúng ta cần phải nhận hiểu đôi chút để nếm được hương vị Thiền mới thấy cái hay của người xưa. Người xưa hiểu và ứng dụng tới đâu, chúng ta ngày nay cũng noi theo gương đó để thực hành. Tuy những bài Niêm Tụng có khô khan nhưng chúng ta cố gắng nghe, rồi sẽ thấm được vị Thiền.

2. Chữ Biết trong đạo Phật

Hôm nay chúng tôi nói thêm về chữ Biết trong đạo Phật để quí vị nghe và nhận định kỹ trước khi bước vào đường tu tập.

Chữ Biết danh từ chuyên môn trong đạo gọi là Tâm. Đức Phật nh́n thấy nơi con người chúng ta có hai loại biết:

            1.- Loại biết do duyên với bóng dáng của sáu trần rồi khởi suy nghĩ phân biệt, đó là cái biết sanh diệt, trong nhà Phật gọi là Vọng tâm.

            2.- C̣n cái biết sẵn nơi sáu căn, không do duyên với bóng dáng sáu trần, cũng không do suy nghĩ phân biệt, mà luôn luôn hằng có, đó là cái biết không sanh diệt, trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật gọi là Chân tâm.

Như vậy Chân tâm là cái biết thường hằng không sanh diệt, c̣n Vọng tâm là cái biết duyên theo bóng dáng sáu trần, cái biết này hư dối, chợt sanh chợt diệt, chợt có chợt không, không phải là thật. Nhưng hầu hết chúng ta đang sống trong cái biết sanh diệt đó. Lúc nào có nghĩ có tính th́ gọi là biết, khi không nghĩ không tính tưởng chừng như không biết. V́ thế chúng ta nhận cái biết sanh diệt làm tâm của ḿnh, c̣n cái biết hằng hữu không sanh không diệt, ḿnh lại bỏ quên, không nhận ra nó. Thế nên đức Phật nói chúng ta cứ măi đi trong luân hồi sanh tử.

Cái biết duyên theo bóng dáng sáu trần, mà sáu trần là tướng vô thường sanh diệt, nên cái biết cũng là niệm sanh diệt. Bên ngoài chạy theo cảnh sanh diệt, bên trong nhận tâm sanh diệt làm ḿnh, chạy theo hai tướng sanh diệt th́ nhất định chúng ta phải đi trong sanh tử luân hồi. Ai cũng như ai đều chấp nhận, đều sống như vậy, cho nên đức Phật bảo: Chúng sanh bị trầm luân trong sanh tử luân hồi.

Hiện nay muốn dứt ḍng sanh tử, đức Phật dạy chúng ta phải trở lại cái biết chân thật chưa bao giờ sanh diệt, cái biết đó mới là thật ḿnh, mới là hằng hữu. V́ nó không duyên theo bóng dáng của sáu trần, nên không phải tướng sanh diệt, không sanh diệt th́ làm ǵ có sanh tử luân hồi? Thế nên chúng ta sống trở về với cái biết chân thật là chúng ta biết tu, trở về cái không sanh diệt là chúng ta giải thoát. Thế th́ sanh tử hay giải thoát gốc ở nơi ḿnh. Nếu lầm nhận cái biết sanh diệt là ḿnh th́ lăn trong sanh tử, nhận cái biết không sanh diệt là ḿnh th́ giải thoát sanh tử.

Lâu nay sở dĩ chúng ta quanh quẩn không t́m ra lối đi, v́ bị sanh diệt chi phối. Nghiệm cho thật kỹ, mỗi khi chúng ta suy nghĩ, th́ cái suy nghĩ là cái biết sanh diệt. Cái suy nghĩ đó luôn luôn kèm theo những h́nh bóng của trần cảnh, hay ngôn ngữ, mà trần cảnh và ngôn ngữ đều là tướng sanh diệt, nên cái suy nghĩ về hai tướng đó cũng sanh diệt. Thế mà chúng ta cứ măi sống theo cái sanh diệt, chớ không bao giờ sống với cái thật của ḿnh. Nay muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải dừng cái sanh diệt để nhận ngay nơi ḿnh có cái biết không sanh diệt, đó là chúng ta hướng về con đường giải thoát, trong nhà Thiền gọi là trở về cố hương. C̣n đi theo sáu trần để chịu sanh tử, đó gọi là lang thang làm khách phong trần.

Hiễu rơ chỗ này rồi, chúng ta mới biết nhà Thiền nhắm thẳng vào cái ǵ. Nếu không hiểu, chúng ta thấy các Thiền sư nói những chuyện đâu đâu, rất là vô nghĩa vô lư. Thông thường chúng ta quen câu nói nào cũng phải có nghĩa có lư, tức là có suy gẫm, càng suy gẫm th́ càng lăn trong sanh diệt. Thế nên câu nói hay nhất của nhà Thiền là câu nói không suy nghĩ được. Câu nói không suy nghĩ được mà ḿnh nhận ra, th́ đó là những câu rất hay, trong nhà Thiền gọi là lời nói sống hay hoạt ngữ. C̣n câu nói mà suy nghĩ được nhà Thiền gọi là tử ngữ hay câu nói chết. Hiểu như vậy, khi đi sâu trong tinh thần Thiền tông, chúng ta mới thấm được cái hay. Nếu không, chúng ta nghe nói sao lạ lùng quá, không có một chút ư vị ǵ, nhưng không ư vị lại được các ngài khen, c̣n nói có suy gẫm thấy hay lại bị các ngài chê. Đó là chỗ thiết yếu trong sự tu. Nếu tu Thiền mà không nắm vững được lư này, th́ không hiểu được đạo Phật. Đạo Phật cốt dạy chúng ta giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ giải thoát là tự nơi ḿnh. Tâm tư lóng lặng, trí tuệ sáng suốt, thấy được lẽ thật th́ giác ngộ. Thấy được lẽ thật và sống được với lẽ thật đó, th́ chúng ta không bị sanh tử nữa, đó là giải thoát. Gốc của sự tu là ở ngay chỗ này.

Chúng tôi phác họa đại khái để khi nghe các Thiền sư nói chuyện, quí vị không có ngỡ ngàng, không thấy khó khăn. Nếu không th́ khi nghe những câu nói vừa vô nghĩa, vừa thô kệch, quí vị nghĩ rằng các Thiền sư nói năng không có ǵ hay cả, nhưng chính lời thô kệch vô nghĩa lại được khen, c̣n những lời văn hoa bóng bẩy lại bị chê. Hiểu được như vậy mới thấy chỗ đặc biệt của nhà Thiền.

11. Cử: Bá Trượng tái tham Mă Tổ, Mă Tổ hét một tiếng. Bá Trượng đại ngộ.

Niêm: Ngàn mũi nhọn, không bằng một nhát mai cùn.

Tụng: Ngày trước xe thơ chẳng cùng đồng,

            Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.

            Mă Tổ một phen vung kiếm bén,

            Từ đây đường nẻo tin tức thông.

Đây là câu chuyện ngài Bá Trượng tái tham Mă Tổ. Tái tham tức là trở lại tham vấn lần thứ hai. Sở dĩ trở lại tham vấn là lư do như sau: Một hôm Mă Tổ đi dạo, ngài Bá Trượng theo hầu. Thấy một bầy vịt trời bay qua, Mă Tổ hỏi: Đó là cái ǵ? Sư thưa: Con vịt trời. Mă Tổ hỏi: Bay đi đâu? Sư thưa: Bay qua (tức là bay qua mất). Mă Tổ bèn nắm lỗ mũi Sư kéo mạnh, đau quá Sư la thất thanh. Mă Tổ bảo: Lại nói bay qua đi. Ngay câu ấy Sư tỉnh ngộ.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thầy tṛ như nói đùa nhau. Đi dạo vườn, thấy bầy vịt trời bay ngang trên hư không. Thầy hỏi: Cái ǵ? Tṛ đáp: Bầy vịt trời. Lại hỏi: Đâu rồi? Tṛ phải đáp làm sao? Tất nhiên phải đáp: Bay qua mất. Thầy liền nắm lỗ mũi kéo mạnh một cái, tṛ đau la thất thanh. Thầy bảo: Lại nói bay qua đi. Như vậy câu nói đó có lư thú ǵ mà ngay đó ngài Bá Trượng liền tỉnh ngộ? Chúng ta thử lặng tâm xem có thấy được chỗ ngộ của Ngài không?

Trở lại việc trước, khi ngài Bá Trượng làm thị giả cho Mă Tổ, mỗi khi thí chủ đem trai phạn đến, Ngài giở lồng bàn ra, Mă Tổ liền cầm nửa cái bánh đưa lên giữa chúng hỏi: Đây là cái ǵ? Trải qua ba năm như vậy, thị giả chịu thua không trả lời được.

Nếu chúng ta thưa: Là cái bánh, có trúng chỗ Tổ muốn nói chưa? - Chưa trúng. Qua thời gian ba năm, ngài Bá Trượng đă nuôi dưỡng cái ǵ rồi. Cho đến hôm nay thầy tṛ đi dạo vườn, Tổ mới sử dụng thuật bầy vịt trời bay qua, xem như Mă Tổ đă chuẩn bị trước ba năm, đến lúc này Tổ mới sử dụng và ngài Bá Trượng liền được tỉnh ngộ.

Khi ngộ xong trở về pḥng thị giả, Sư khóc rất thống thiết. Những người cùng pḥng hỏi: Huynh nhớ cha mẹ phải không? Sư đáp: Không. Hỏi: Bị người ta mắng chửi chăng? Đáp: Không. Tại sao khóc? - Lỗ mũi tôi bị Ḥa thượng kéo đau thấu xương. Huynh đệ mới hỏi: Có nhân duyên ǵ không khế hội? Ngài trả lời: Huynh hỏi Ḥa thượng đi. Những vị ấy đến hỏi Mă Tổ: Thị giả Hải có nhân duyên ǵ chẳng khế hội ở trong pḥng khóc, xin Ḥa thượng v́ chúng con nói. Mă Tổ bảo: Y đă khế hội, các ngươi tự hỏi lấy y. Các vị về pḥng hỏi: Ḥa thượng nói huynh đă hội, bảo chúng tôi về hỏi huynh. Sư bèn cười hả hả. Các vị ấy bảo: Vừa rồi khóc, sao bây giờ cười? Sư đáp: Vừa rồi khóc bây giờ cười. Các vị ấy mờ mịt không hiểu.

Cách tu hành này thật lạ lùng, chúng ta thấy sự diễn tiến rất kỳ đặc. Tổ đưa nửa cái bánh lên hỏi: Đây là cái ǵ? Ai không biết là cái bánh, tại sao Tổ lại cầm cái bánh hỏi là cái ǵ, phải trả lời làm sao? Cho nên Ngài ôm ấp măi việc này trong ba năm. Đến cuối cùng, khi bị Tổ kéo lỗ mũi và bảo: Sao không nói bay qua mất đi? Ngay đó Ngài liền thấy, thấy lỗ mũi hay thấy bầy chim?

Nghe câu chuyện chúng ta cứ mắc kẹt về bầy chim bay hay lỗ mũi bị kéo mạnh. Nhưng chỗ Thiền sư muốn chỉ không phải là chỗ đó. Bầy chim là tướng sanh diệt bên ngoài, lỗ mũi là tướng sanh diệt bên trong. Chỉ có cái không sanh diệt biết được bầy chim mới là quan trọng, đó là chỗ Tổ muốn chỉ. Tuy nhận được nhưng ngài Bá Trượng chưa đủ ḷng tin rằng ḿnh ngộ thật, nên về pḥng Ngài khóc. Những người đồng pḥng mới hỏi lư do, Ngài trả lời: Lỗ mũi tôi bị Ḥa thượng kéo đau quá. Hỏi: Có nhân duyên ǵ không hội nên bị kéo lỗ mũi? Đáp: Huynh đến hỏi Ḥa thượng đi. Khi những vị đến hỏi, Mă Tổ bảo: Y đă ngộ rồi, tức là Tổ xác nhận Ngài đă ngộ. Khi ấy Ngài cười hả hả, nghĩa là không c̣n nghi ngờ nữa. Ngài không tự đến hỏi Tổ mà nhờ các thầy đồng pḥng đi hỏi giùm, đó là cái khéo của người xưa, khi được xác nhận Ngài cười to.

Đến hôm sau Mă Tổ vừa lên ṭa, chúng nhóm họp xong, Sư bước ra cuốn chiếu. Mă Tổ xuống ṭa, Sư theo sau đến phương trượng. Mă Tổ hỏi: Ta chưa nói câu nào, tại sao ngươi cuốn chiếu? Sư thưa: Hôm qua bị Ḥa thượng kéo chót mũi đau. Mă Tổ hỏi: Hôm qua ngươi để tâm chỗ nào? Sư trả lời: Chót mũi ngày nay lại chẳng đau. Mă Tổ nói: Ngươi hiểu sâu việc hôm qua. Đó là xác nhận một lần nữa. Sư làm lễ lui ra. Vậy là Ngài trực tiếp được Mă Tổ xác nhận, đó là truyền tâm ấn.

Kỳ sau tái tham, Sư đứng hầu Mă Tổ, thấy phất tử ở góc giường, Sư hỏi: Tức đây dùng, ĺa đây dùng? Mă Tổ bảo: Về sau ngươi mở miệng sẽ lấy cái ǵ v́ người? Sư cầm phất tử dựng đứng. Mă Tổ hỏi: Tức đây dùng, ĺa đây dùng? Sư để phất tử lại chỗ cũ. Mă Tổ nghiêm chỉnh hét một tiếng, đến ba ngày Sư c̣n điếc tai.

Đây là lần sau trở lại tham vấn, ngài Bá Trượng thấy cây phất tử, tức là cây chổi quét bụi, để trên bàn, Sư liền chỉ cây phất tử nói: Tức đây dùng hay ĺa đây dùng? Nghĩa là tức cây phất tử đó mà dùng hay ĺa cây phất tử dùng? Mă Tổ bảo: Về sau ngươi  mở miệng sẽ lấy cái ǵ v́ người? Tức là muốn dạy dỗ người th́ lấy cái ǵ để chỉ dạy? Sư cầm cây phất tử dựng đứng, đó là dạy người. Chúng ta mới thấy sở trường của ḿnh nơi vị thầy như thế nào, đến khi dạy người, ḿnh cũng sử dụng thuật đó triệt để. Dựng đứng cây phất tử là chỉ cái ǵ? Có phải chỉ bầy vịt trời không? Đến khi Mă Tổ hỏi: tức đây dùng hay ĺa đây dùng, Ngài liền để cây phất tử lại y chỗ cũ. Mă Tổ nghiêm chỉnh hét một tiếng, ba ngày c̣n điếc tai. Một tiếng hét đó, trong nhà Thiền gọi là thủ thuật đặc biệt, muôn đời không quên.

Như vậy chúng ta khi tu có tỉnh có thấy, nhưng tỉnh một lúc rồi quên. Muốn nhớ đời đời phải nhờ những thủ thuật hoặc đánh hoặc hét. Mă Tổ hét một tiếng điếc tai ba ngày, làm sao quên được. Nhớ tiếng hét là nhớ cái ǵ ḿnh thấy, nhớ măi không bao giờ quên. Thường giảng tới chỗ này, chúng tôi nói đông nói tây quanh co, chớ không có cách nào khác hơn.

Ngài Trần Thái Tông niêm: “ngàn mũi nhọn không bằng một nhát mai cùn”, tức là dù khéo dùng ngàn lời ngàn câu bén nhạy để giải thích cũng không bằng một tiếng hét, cũng như một nhát mai cùn có giá trị hơn cả ngàn mũi nhọn. Qua câu niêm này chúng ta đă thấy được toàn ư của bài.

Tụng:

            Ngày trước xe, thơ chẳng cùng đồng,

            Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.

            Mă Tổ một phen vung kiếm bén,

            Từ đây đường nẻo tin tức thông.

“Ngày trước xe, thơ chẳng cùng đồng.” Xe và thơ là h́nh tướng của chiếc xe cụ thể và h́nh vẽ trên giấy, tức h́nh tướng thật và nét vẽ không giống nhau. Thế nên:

“Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.” Khi chưa thấy, chưa sống được lẽ thật, lúc đó tâm chúng ta rối bời lăng xăng như đàn ong vỡ tổ.

“Mă Tổ một phen vung kiếm bén”, kiếm bén của Mă Tổ là tiếng hét.

 “Từ đây đường nẻo tin tức thông.” Từ đó đường đi nẻo về và tin tức đều thông suốt.

Bài tụng của ngài Trần Thái Tông tán thán tiếng hét của Mă Tổ đă giúp cho ngài Bá Trượng thông suốt không c̣n bị chướng ngại nữa.

12. Cử: Quốc sư một ngày gọi thị giả ba lần. Thị giả ba lần dạ! Quốc sư nói: Ngỡ là ta phụ ngươi, ngược lại ngươi phụ ta.

Niêm: Như người uống nước, lạnh nóng tự biết.

Tụng:   Dưới trên xướng họa xứng cùng hai,

            Ư ấy so đâu biết ngắn dài.

            Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch,

            Trong đây chỉ hứa tự ḿnh hay.

Một hôm Quốc sư Huệ Trung gọi thị giả, thị giả dạ. Ngài gọi như vậy mà không nói thêm câu nào, ba lần gọi, thị giả đều ứng tiếng dạ ba lần. Cuối cùng Ngài nói: Tưởng là ta phụ ngươi, không ngờ ngươi phụ ta. Thị giả dạ ba lần mà phụ thầy ở chỗ nào?

Bài trước Mă Tổ chỉ cho ngài Bá Trượng tâm không sanh diệt qua con mắt. Chúng ta lâu nay thường lầm tưởng ḿnh suy nghĩ mới biết, đâu ngờ thấy đă biết. Nếu thấy mà không biết th́ làm sao nói người này trắng người kia đen, người này mặc áo vàng người kia mặc áo xanh. Biết trắng đen, biết xanh vàng mà nói không biết sao được. Nhưng cái biết đó không có suy nghĩ, không một chút máy động, đó mới thật là cái biết của ḿnh. V́ vậy cái khéo của Thiền sư là không nói thẳng, không chỉ thẳng, mà nói từ cái này để chúng ta hiểu qua cái kia. Nhờ vậy chúng ta nhớ măi.

Ngài Quốc sư Huệ Trung là đệ tử của Lục tổ Huệ Năng, mỗi lần Ngài gọi, thị giả dạ, coi như thầy tṛ tương ưng, thế mà cuối cùng Ngài nói: Tưởng là ta phụ ngươi, không ngờ ngươi phụ ta. Phụ ở chỗ nào? Không phải thầy gọi tṛ dạ là đủ, mà Ngài muốn chỉ cái ǵ khác nữa.

Niêm: “Như người uống nước, lạnh nóng tự biết.” Chỗ ḿnh nhận ra, thấy được, giống như người uống nước lạnh nóng tự biết, khó nói được.

Tụng:

            Dưới trên xướng họa, xứng cùng hai,

            Ư ấy so đâu biết ngắn dài.

            Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch,

            Trong đây chỉ hứa tự ḿnh hay.

“Dưới trên xướng họa, xứng cùng hai.” Dưới là chú thị giả, trên là ngài Quốc sư Huệ Trung, hai thầy tṛ xướng họa là thầy gọi tṛ dạ.

“Ư ấy so đâu biết ngắn dài.” Lấy cái ǵ so sánh mà biết đây ngắn kia dài, v́ nó không phải là cái so sánh.

“Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch.” Thầy đă đem hết gan ruột phơi bày cho đệ tử, nếu đệ tử nhận biết th́ biết, không th́ thôi, chớ không làm sao nói được. Cho nên:

“Trong đây chỉ hứa tự ḿnh hay.” Tự ḿnh biết thôi, chớ cái đó giải bày không được. Chỗ chân thật đó, thầy chỉ một cách hết sức rơ ràng, cũng như đem hết cả gan ruột bày ra, thấy hay không là tự ḿnh chớ không c̣n cách ǵ nữa.

Như vậy ngài Huệ Trung muốn trao cho chú thị giả cái ǵ? Trao cái sẵn có nơi ḿnh, cái biết dạ đó! Gọi biết dạ ở miệng hay ở đâu? Không phải ở miệng. 

13. Cử: Đại Qui nói: Câu có câu không như dây leo cây. Sơ Sơn hỏi: Cây ngă dây khô câu về chỗ nào? Đại Qui cười to ha hả!

Niêm: Nước chảy ắt về biển, trăng lặn chẳng rời trời.

Tụng:   Sóng lặng yên rồi, trận gió thâu,

            Uổng công hướng ngoại khổ t́m cầu.

            Khối nghi cười nát thành trăm mảnh,

            Từ đó mới phân đá với châu.

Đại Qui tức là ngài Đại An ở Qui Sơn. Ở Qui Sơn có hai vị Tổ nổi tiếng. Vị Tổ trước là ngài Linh Hựu, vị sau là ngài Đại An. Ngài Đại An là vị Tổ nói: Ta ở non Qui ba mươi năm chăn một con trâu.

Ngài Đại Qui nói: Câu có câu không như dây leo cây. Ngài Sơ Sơn hỏi: Khi cây ngă dây khô, câu về chỗ nào? Ngài Đại Qui cười to ha hả. Cười đó là đă trả lời chưa? Chúng ta luôn luôn có bệnh khi mở miệng nói đều kẹt ở hai bên, hoặc có không, hoặc phải quấy, hoặc tốt xấu. Nói có nói không là để chỉ chung cho tất cả những đối đăi.

Ngài Đại Qui muốn nói: Nếu mở miệng nói thuộc về có, không, chẳng khác nào dây b́m b́m leo trên cây, nghĩa là nương cây mà có dây leo, ngài Sơ Sơn bước ra hỏi: Cây ngă dây khô th́ câu có câu không về chỗ nào? Tức là hết chỗ nương tựa, hết có hết không th́ về đâu? Ngài Đại Qui cười ha hả, không nói thêm lời nào.

Niêm: “Nước chảy ắt về biển, trăng lặn chẳng rời trời.” Niêm thật là khéo. Dù cho tất cả nước trên nguồn đổ ầm ầm, nhưng rốt cuộc đều dồn về biển. Dù trăng có mọc có lặn, nhưng không rời bầu hư không. Như vậy khi đối đăi bặt rồi, nghĩa là nói có nói không đều dứt, th́ giống như nước chảy về biển, như trăng lặn vẫn ở trong bầu trời, không về đâu.

Tụng:

            Sóng lặng yên rồi trận gió thâu,

            Uổng công hướng ngoại, khổ t́m cầu.

            Khối nghi cười nát thành trăm mảnh,

            Từ đó mới phân đá với châu.

“Sóng lặng yên rồi trận gió thâu”, khi nh́n xuống biển thấy sóng yên lặng th́ lúc đó gió đă dừng. Sóng lặng gió dừng là để nói cái thấy hai bên đă hết, giống như cây ngă dây khô lúc ấy câu về chỗ nào?

“Uổng công hướng ngoại, khổ t́m cầu”, đến chỗ đó th́ đừng t́m kiếm đâu nữa, tại sao? V́ giống như nước chảy về biển, như trăng chẳng rời trời, tuy thấy khuất nhưng đâu có mất, đừng t́m hỏi về đâu chi cho nhọc.

“Khối nghi cười nát thành trăm mảnh”, khi đang nghi ngờ nó đi về chỗ nào, th́ cái cười ha hả của ngài Đại Qui làm cho tan nát khối nghi.

“Từ đó mới phân đá với châu”, tức là từ đó mới phân rành rẽ cái nào thuộc về châu ngọc, cái nào thuộc về đá sỏi, không c̣n lẫn lộn hỗn tạp nữa.

Tóm lại trong bài tụng này, ngài Trần Thái Tông đă giải thích rơ ràng vấn đề nói có nói không, hay nói phải nói quấy. Sở dĩ tâm chúng ta bất an là v́ chạy theo phân biệt đối đăi có không, phải quấy. Khi tất cả những đối đăi dứt bặt th́ c̣n cái ǵ? Nên nói: “Cây ngă b́m khô, câu về chỗ nào?” Ngài Đại Qui cười to, thấy dường như Ngài không trả lời, nhưng đă có trả lời rồi. Nếu hỏi về chỗ nào mà trả lời là không đúng, nên ngay đó là hét. Thay v́ hét, ngài Đại Qui cười to là đủ, đó là đă trả lời mà không mắc kẹt hai bên.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy điểm đặc biệt trong nhà Thiền. Ngài Sơ Sơn tức là ngài Bố Đan, đệ tử của ngài Động Sơn Lương Giới. Khi hỏi: câu về chỗ nào, Ngài Đại Qui cười, ngài Sơ Sơn trách: Con đi đường xa cả ngàn dặm đến đây hỏi Ḥa thượng, mà Ḥa thượng không trả lời. Ngài Đại Qui liền lấy tiền ra: Thôi cho ông tiền về xe. Ngài Sơ Sơn không ngờ chính cái cười là đă trả lời, c̣n đ̣i hỏi chi nữa? Thế nên khi chúng ta đọc sách Thiền đừng suy gẫm, cứ lắng tâm rồi sẽ thấy cái hay thấm thía vô cùng.

14. Cử: Bá Trượng bảo: Thế nào là pháp không v́ người nói? Nam Tuyền đáp: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.

Niêm: Ngàn Thánh t́m dấu y chẳng được,

            Toàn thân ẩn tại đại hư không.

Tụng:   Trước đây công án không lệch nghiêng,

            Đối diện xem xem hội chăng liền.

            Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,

            Đêm về như trước ngủ bờ lau.

Ngài Bá Trượng hỏi: “Thế nào là pháp không v́ người nói?” Nghĩa là pháp không v́ người nói là pháp ǵ?

Ngài Nam Tuyền đáp: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.” Đó là pháp không v́ người nói.

Niêm: “Ngàn Thánh t́m dấu y chẳng được, toàn thân ẩn tại đại hư không.”

Pháp không v́ người nói, dù cho mắt của ngàn vị Thánh t́m dấu vết y cũng không được, tại sao? V́ y không có tướng mạo, biết đâu mà t́m. Toàn thân của pháp đó đang ẩn trong đại hư không, không thiếu vắng.

Tụng:

            Trước đây công án không lệch nghiêng,

            Đối diện xem xem hội chăng liền.

“Pháp không v́ người nói” là một công án rất chu đáo, rất vẹn toàn. Hội hay không hội là ngay nơi đó, đừng suy nghĩ, đừng t́m kiếm nữa.

            Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,

            Đêm về như trước ngủ bờ lau.

Nguyên văn chữ Hán là:

            Phật pháp vị trung lưu bất trụ,

            Dạ lai y cựu túc lô hoa.

Hai câu này thật là đẹp làm sao, đây là hai câu tôi đắc ư nhất.

Khi ngài Bá Trượng hỏi: pháp không v́ người nói là pháp ǵ, Ngài Nam Tuyền đáp: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.” Tâm, Phật, vật đều không phải, vậy là cái ǵ? Hai câu này diễn tả chỗ đó.

“Lưu bất trụ” là giữ lại, mời lại mà không ở, v́ nếu ở th́ hoặc là tâm, hoặc là Phật, nhưng chẳng phải tâm, chẳng phải Phật th́ đâu c̣n ở trong ngôi Phật pháp. Cũng như thuở trước, đêm về đến bờ lau ngủ ngon lành, không cần phải có ngôi vị. Đây là diễn tả “ngộ liễu đồng vị ngộ”, nghĩa là ngộ rồi cũng đồng với khi chưa ngộ.

V́ chúng ta đang ở trong cảnh mê, nên Phật mới nói Ngài là giác, mê và giác đối nhau chỉ là phương tiện để chúng ta so sánh mà vươn lên. C̣n cái chân thật là tâm không sanh diệt, tâm đó không phải là cái ǵ hết. Cho nên ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng nói: “Nói một vật tức không trúng.” Nó không phải tâm, không phải Phật, cũng không phải vật, nó không phải là cái ǵ, nhưng không phải là không có. Nó không ở vị là tâm, là Phật, là pháp, là trí, là đạo, nó không bị lệ thuộc vào những từ ngữ, nhưng trước sau vẫn không thay đổi. Ngày xưa mệt mỏi đến ngủ bờ lau, nay mệt mỏi cũng đến bờ lau ngủ, nghĩa là thuở xưa chưa ngộ, ngày nay ngộ rồi cũng như nhau không khác. Không phải khi xưa mê làm chúng sanh th́ mất cái chân thật, ngày nay ngộ làm Phật, làm Bồ-tát mới có cái chân thật. Tỉ dụ khi mê chạy theo ngoại cảnh, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, nhưng mắt thấy mà không nhớ cái thấy, chỉ nhớ cảnh nhớ người, tai nghe mà không nhớ cái nghe, chỉ nhớ tiếng hay tiếng dở. Nay ngộ rồi, mắt thấy cảnh không dính với cảnh, tai nghe tiếng không kẹt với tiếng, tức là chúng ta đang sống với cái chân thật. Cái chân thật lúc mê vẫn y nhiên, lúc ngộ cũng vẫn y nhiên, không có thiếu vắng bao giờ, chỉ v́ quên hay nhớ nó mà thành mê hay ngộ.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật chỉ rất thấu đáo, đức Phật đưa tay lên hỏi ngài A-nan: Ông thấy không? Ngài A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, thấy. Đức Phật để tay xuống, lại hỏi: Ông thấy không? Ngài A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, không. Ngài bị Phật quở: Tay là thuộc về cảnh, cảnh bên ngoài khi có khi không, cái thấy của ông có lúc nào vắng đâu! Như vậy đức Phật đă chỉ quá rơ ràng, c̣n Thiền sư chỉ nói gọn thôi.

Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la đánh chuông và hỏi ngài A-nan: Ông nghe không? Ngài thưa: Bạch Thế Tôn, nghe. Khi tiếng chuông lặng rồi, Phật hỏi: Ông nghe không? Ngài thưa: Bạch Thế Tôn, không nghe. Phật quở thêm một lần nữa: Tiếng chuông khi có khi không, c̣n cái nghe của ông có lúc nào không đâu. Nếu ông không nghe th́ làm sao biết được không có tiếng chuông. Có tiếng chuông th́ nghe có, không tiếng chuông th́ nghe không, tại sao nói không nghe?

Phật kết luận đó là do mê lầm, chúng sanh quên ḿnh theo vật. Theo vật là quên cái thấy mà theo tay, quên cái nghe mà theo tiếng. Hiện giờ tất cả chúng ta đang quên ḿnh theo vật nên gọi là mê, c̣n nhớ ḿnh quên vật gọi là giác, thật đơn giản làm sao! Cái chân thật không bao giờ thay đổi, cái nghe cái thấy trước sau như một, nhưng khác nhau chỉ có mê và giác thôi. Mê là theo vật th́ bị vật chuyển dẫn đi trong luân hồi, giác là nhớ ḿnh th́ được tự do tự tại tức là giải thoát.

Lâu nay chúng ta chỉ biết cái bên ngoài, cho nên bao nhiêu người tu cứ nghĩ muốn thành Phật là phải có thần thông, phải phát hào quang..., như vậy ngồi thiền mới có giá trị, mới có kết quả. C̣n ngồi im lặng đếm hơi thở, thấy vọng không theo, sao tầm thường quá, vậy nói tu là tu cái ǵ? Nhưng không ngờ trọng tâm của việc tu là không đuổi theo sáu trần th́ sáu trần không lôi ḿnh trầm luân trong sanh tử, không đuổi theo sáu trần th́ được tự do giải thoát. Muốn đừng dính mắc sáu trần th́ phải xoay lại nh́n ḿnh, tức là ngồi ngó xuống, nh́n hơi thở, coi niệm dấy khởi thế nào. Biết quay lại ḿnh th́ không bị ngoại cảnh chi phối.

Thật ra việc tu hết sức đơn giản, nhưng v́ chúng ta không biết nên trở thành phức tạp. Ngồi tu th́ muốn có thần thông biết được tâm người để nói cho họ phục, muốn có thần thông mầu nhiệm để thiên hạ quí kính cúng dường, nên trở thành tham danh tham lợi, rồi cũng bị trầm luân. Cái chân thật th́ khô khan lạnh nhạt, chân lư lúc nào cũng đơn giản. C̣n những chuyện huyền hoặc nhiệm mầu không phải là chân lư, chỉ là những giả tưởng mà thiên hạ lại ham thích, cho nên suốt đời con người bị cuồng loạn trong mê hoặc. Thí dụ chúng ta nh́n cảnh vật ở đây, nh́n quen cũng thấy vui nhè nhẹ. C̣n nếu có ai tới tổ chức đóng tuồng hay đóng kịch, cũng cảnh này nhưng đem ra chiếu người ta lại say mê. V́ những cảnh đóng kịch có vui buồn hấp dẫn hơn, c̣n cảnh thật dù quí đẹp, người ta vẫn xem thường. Cái giả dối lúc nào cũng hấp dẫn, từ lời nói đến h́nh dáng tô điểm bịp lừa, nên ở đời những ǵ hoa ḥe lừa bịp người ta lại thích. Nh́n kỹ lại cuộc sống ở thế gian đều là tṛ lừa dối nhau như vậy. Con người đang chạy theo những ảo ảnh giả dối mà không biết lại cho là vui, c̣n cái chân thật khô nhạt quá nên không có ǵ hấp dẫn.

            Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,

            Đêm về như trước ngủ bờ lau.                     

Hai câu này dễ thương mà đơn giản làm sao, để nói ngộ rồi đồng với chưa ngộ. Hiểu như vậy mới thấy cái hay của đạo, nếu không, sao thấy nó tầm thường quá.

Hiện nay người tu thường mơ ước thành Phật, thành Tổ ngồi ṭa sen báu có phóng hào quang. Nếu thấy tượng Phật không sơn vẽ khéo th́ không thích, nên gần đây các Phật tử tô điểm tượng Phật thành môi son má phấn, mày tằm mắt phượng, biến h́nh tượng Phật thành sở thích của ḿnh, đó là chuyện của người thế gian. C̣n chúng ta tu tức là sống trở lại với tâm chưa bao giờ sanh diệt, tâm đó là tâm chân thật của ḿnh. Sống với nó chúng ta mới được giải thoát sanh tử, đó là Phật chớ không có ǵ lạ.

?

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]

[Trang chu] [Kinh sach]