[Trang chu] [Kinh sach]

KHÓA HƯ LỤC

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]


RỘNG KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ-ĐỀ

 Dịch 

Ở đời cái quí tột chỉ là vàng ngọc mà thôi. Nhưng xét kỹ chỗ quí tiếc ấy, chẳng bằng thân mạng. Ví như có người giàu sang được phong làm đại tướng, dùng vàng ṛng làm giáp để che đỡ cho thân. Đến khi lâm chiến binh đao bị thua, hoặc cởi giáp ném gươm mà chạy, mong được thân mạng an toàn mà thôi, giáp vàng ṛng đâu rảnh nghĩ tiếc. Mới biết, cái quí vàng ṛng chẳng bằng cái quí thân mạng, đây là thật vậy.

Ngày nay th́ không thế, trái lại quí vật kia mà khinh thân này. Chẳng biết thân này khó được có ba. Thế nào là ba?

1. Trong lục đạo chỉ có người là quí, đến khi nhắm mắt đi rồi, mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến. Hoặc vào đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la chẳng được làm người. Đây là cái khó được thứ nhất.

2. Đă được làm người, lại sanh nơi mọi rợ, tắm th́ đồng sông, ngủ th́ chung giường, trật tự tôn ti không có, nam nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe chư Thánh giáo hóa. Đây là cái khó được thứ hai.

3. Đă được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân thể tật nguyền, mù, điếc, câm, ngọng, què, thọt, c̣ng, gù; miệng mũi hôi tanh, thân h́nh nhơ nhớp. Thầy chẳng được gần, chúng chẳng được thân. Tuy ở nơi phồn thịnh dường thể ở ngoài quê vắng. Đây là cái khó được thứ ba.

Nay đă làm người, được sanh nơi phồn thịnh lại đầy đủ sáu căn, đâu chẳng là quí sao? Người đời luôn luôn đuổi theo con đường danh lợi, luống nhọc xác tổn thần, đem thân mạng rất quí báu này làm tôi tớ cho tiền của đáng khinh. Sánh với người ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên môi nào có khác ǵ. Tuy thân mạng thật là quí trọng, vẫn chưa quí trọng bằng đạo tối cao. Cho nên Khổng Tử nói: “Sớm nghe đạo chiều chết cũng vui.” Lăo Tử nói: “Tôi sở dĩ có hoạn lớn, v́ tôi có thân.” Thế Tôn thuở xưa cầu đạo xả thân cứu cọp đói. Đâu chẳng phải ba bậc Thánh nhân đều khinh thân mà trọng Đạo đó sao? Than ôi! Thân mạng thật là quí trọng c̣n phải xả để cầu Vô thượng Bồ-đề, huống là vàng ngọc, tiền của đáng khinh mà lại tiếc sao? Ôi trong ấp mười nhà vẫn có người trung tín, huống là cả thế gian há không có người thông minh sáng suốt hay sao? Đă nghe lời này, cần phải gắng học, chớ nên nghi ngờ chậm trễ. Kinh nói: “một phen mất thân người, muôn kiếp chẳng được lại”, thật là thống thiết. Cho nên Khổng Tử nói: “Người không chịu làm, tôi chẳng làm ǵ, cam đành thôi vậy.”

Rơ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát-na, thân huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày ch́m đắm trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh mông vô tận. Chẳng biết một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục. Công danh cái thế cũng chỉ là một trường đại mộng, phú quí kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngă rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu kính chẳng thật.

            Gió lửa khi tan không già trẻ,

            Núi sông bại hoại mấy anh hùng.

Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đă sớm điểm sương; ngày vui vừa đến th́ ngày điếu cũng đi theo. Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân t́nh, bảy thước h́nh hài buông ḷng tham mê tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai.

            Sông yêu ch́m nổi lúc nào thôi,

            Nhà lửa đốt thiêu bao giờ tắt?

Chẳng nguyện vượt ra lối nghiệp, chỉ v́ chưa có công phu. Vua Diêm-la chợt truy t́m, Thôi tướng công há cho triển hạn. Ngoái đầu nh́n người thân chẳng thấy, đến đây rồi nghiệp báo tự mang. Quỉ vương ngục tốt mặc sức khảo tra, cây kiếm núi đao khôn chống đỡ. Hoặc nhốt dưới ngọn núi lửa, hoặc giam trong núi Thiết Vi. Vào vạc dầu sôi muôn kiếp ngàn đời, bị chặt chém một đao thành hai khúc. Đói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi. Suốt ngày luôn chịu khổ đau, năm trăm kiếp chẳng thấy h́nh bóng. Trả xong tội nghiệp, trở vào luân hồi. Bỗng mất thân người khi trước, trở lại mang lấy đăy da. Đội lông mang sừng, hàm sắt dây yên, lấy thịt nuôi người dùng mạng trả nợ. Sanh bị khổ dao bằm chày nện, sống bị nạn nước sôi lửa bỏng. Hằng chứa oán thù, thay nhau ăn nuốt. Khi đó mới hối hận, học đạo không nhân. Chi bằng ngày nay tu tập, chớ để đời này trôi qua.

Đức Phật Thích-ca trước bỏ hoàng cung đi thẳng vào núi Tuyết. Cư sĩ Bàng Long Uẩn đem gia tài đổ xuống biển sâu. Chân Vũ chẳng thiết ngôi vua chỉ cầu tu hành. Lữ Công đă làm thần tiên vẫn c̣n tham vấn. Tô Đông Pha thường gần Phật Ấn, Hàn Văn Công lại lễ Đại Điên, Bùi Công bị đoạt hốt nơi Thạch Sương, Pḥng Tướng hỏi pháp ở Quốc Nhất. Diệu Thiện không nhận pḥ mă, thành Phật chẳng ngờ. Lục Tổ mới gặp khách nghe kinh liền tỉnh ngộ. Đạo Thiền nếu không thú vị, Hiền Thánh sao chịu qui y. Hoa Lâm cảm hóa hai cọp theo luôn. Đầu Tử có ba con chim báo sáng. Lư trưởng giả giải kinh mà thiên trù dâng cơm. Tu-bồ-đề ngồi yên mà Đế Thích tán hoa. Đạt-ma một chiếc dép về tây. Phổ Hóa rung chuông bay đi. La-hán đến tham vấn với Ḥa thượng Ngưỡng Sơn. Nhạc Đế qui y với Thiền sư Tư Đại. Cảnh Sơn đến nay vẫn được Long vương thỉnh cúng. Tuyết Phong ngày xưa hay sai người gỗ phá non. Đây là những nguyên do để nghiệm biết, chớ tự khinh mà lui sụt.

Chồn hoang c̣n nghe Bá Trượng nói pháp. Loài ốc ṣ vẫn biết hộ kinh Kim Cang. Mười ngàn con cá nghe danh hiệu Phật được hóa làm con trời. Năm trăm con dơi nghe tiếng pháp thảy được làm Hiền Thánh. Măng xà nghe sám hối được sanh thiên. Rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Chúng là loài vật c̣n hay lănh ngộ, huống là người sao chẳng hồi tâm.

Hoặc có người vùi đầu trong ăn uống, qua mất một đời. Hoặc có người trên đường tu hành lầm lẫn, mà không thức tỉnh. Đâu biết tánh giác Bồ-đề mỗi mỗi viên thành, nào hay căn lành Bát-nhă người người đầy đủ. Chớ luận đại ẩn tiểu ẩn, thôi phân tại gia xuất gia. Chẳng cuộc người tăng kẻ tục, chỉ cốt nhận được bản tâm. Vốn không có nam nữ, đâu cần chấp tướng. Người chưa rơ dối chia tam giáo, liễu được rồi đồng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật.

            Huống là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nếu muốn vượt khỏi ṿng quanh lục đạo, chỉ có con đường tắt Nhất thừa. Cần t́m chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi mới là vào cửa, hành được mới hay thoát tục. Bước bước đạp đến đất thật; đầu đầu đều đội hư không. Khi dùng th́ muôn cảnh toàn bày, buông đi th́ mảy bụi chẳng lập. Vượt đến chỗ không c̣n tương quan sanh tử, cơ liễu ngộ quỉ thần nh́n chẳng ra.

Là phàm là thánh đồng vào đường này, hoặc oán hoặc thân cùng chung một lỗ mũi. Thật ngộ như thế, c̣n kẹt giữa đường. Thôi nói tam huyền hướng thượng, cốt rơ một câu rốt sau. Hăy nói hiện nay cái ǵ là “một câu rốt sau”?

            Non xanh chốn ấy nh́n trời rộng,

            Sen đỏ nở rồi nghe mùi thơm.

Giảng 

Trong bài này ngài Trần Thái Tông khuyên chúng ta phải phát tâm Bồ-đề, tức là phải phát tâm cầu giác ngộ.

“Ở đời cái quí tột chỉ là vàng ngọc mà thôi. Nhưng xét kỹ chỗ quí tiếc ấy chẳng bằng thân mạng. Ví như có người giàu sang được phong làm đại tướng, dùng vàng ṛng làm giáp để che đỡ cho thân. Đến khi lâm chiến binh đao bị thua, hoặc cởi giáp ném gươm mà chạy, mong được thân mạng an toàn mà thôi, giáp vàng ṛng đâu rảnh nghĩ tiếc. Mới biết, cái quí vàng ṛng chẳng bằng cái quí thân mạng, đây là thật vậy.”

Trước tiên Ngài nói cái quí của thân mạng con người. Người thế gian không ai không quí vàng bạc, vàng bạc tuy rất quí, nhưng khi tai nạn đến với thân, người ta không c̣n quí vàng bạc nữa, chỉ nghĩ đến thân mà thôi. Ví dụ như một viên tướng ra trận mang giáp bằng vàng, khi thất trận phải bỏ chạy, giáp vàng nặng quá, sợ bị giặc đuổi bắt chặt đầu, bấy giờ phải cởi giáp vàng ném đi, miễn chạy khỏi chết th́ thôi. Như vậy thân mạng quí trọng hơn vàng.       

“Ngày nay th́ không thế, trái lại quí vật kia mà khinh thân này.” Nhưng thời nay có nhiều người đem thân để cầu được vàng bạc, nghĩa là xem nhẹ thân mà quí trọng vàng. Thí dụ như những người ăn trộm ăn cướp, dám đem thân đến chỗ hiểm nguy, có khi bị đánh bị giết, mà không lo sợ, miễn được vàng bạc thôi. Họ quí vàng bạc hơn thân mạng, đó là sai lầm, v́ thân quí hơn vàng mà họ lại đem thân đổi lấy vàng!

“Chẳng biết thân này khó được có ba. Thế nào là ba?

1. Trong lục đạo chỉ có người là quí, đến khi nhắm mắt đi rồi, mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến. Hoặc vào đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la chẳng được làm người. Đây là cái khó được thứ nhất.” Trong lục đạo, được thân người là một cái khó. Nếu lấy tiêu chuẩn Phật dạy để đối chiếu, khi con người mất thân này có dễ được lại thân người nữa hay không? Đức Phật nói: “Ai giữ tṛn năm giới, bảo đảm được làm người.” Nếu năm giới khuyết đi, nghĩa là chỉ giữ hai hay ba giới th́ có thể mất thân người, nếu khuyết trọn vẹn th́ hoàn toàn không được làm người. Như vậy trong năm giới, chúng ta thử kiểm lại xem có ai giữ trọn được chưa? Khuyết chừng một phần tư, một phần tám c̣n khả dĩ, nếu khuyết trọn vẹn hoặc ba, bốn phần th́ thật khó trở lại làm người. V́ thế trong lục đạo, nhất là ba đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và đường thứ tư là a-tu-la, con người dễ rơi xuống, c̣n hai đường người và trời, ít được trồi lên. Trong sáu đường, mà bốn thua hai thắng, th́ dễ ǵ đi con đường thắng, nên đa số mất thân này khó t́m lại được. Vậy được thân người là cái khó thứ nhất.

“2. Đă được làm người, lại sanh nơi mọi rợ, tắm th́ đồng sông, ngủ th́ chung giường, trật tự tôn ti không có, nam nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe chư Thánh giáo hóa. Đây là cái khó được thứ hai.” Nếu được làm người mà sanh vào những nơi không đầy đủ văn hóa, phải sống trong hoàn cảnh hỗn mang, không tôn ti trật tự, không phong tục nhân thuần, đó là cái khó thứ hai.

“3. Đă được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân thể tật nguyền, mù, điếc, câm, ngọng, què, thọt, c̣ng, gù; miệng mũi hôi tanh, thân h́nh nhơ nhớp. Thầy chẳng được gần, chúng chẳng được thân. Tuy ở nơi phồn thịnh dường thể ở ngoài quê vắng. Đây là cái khó được thứ ba.” Được thân người mà bị tật nguyền sáu căn không đầy đủ, chẳng được gần thầy, chẳng gần chúng bạn, đây là cái khó được thứ ba.

Như vậy ba cái khó được là:

            1. Được thân người đối với lục đạo là khó.

            2. Được thân người mà ở nơi phồn thịnh là khó.

            3. Được thân người, ở nơi phồn thịnh mà không bị tật nguyền là khó. Hiện giờ tất cả chúng ta có qua được ba cái khó đó chưa? Tương đối cũng qua được rồi, như vậy hạnh phúc biết mấy mà không chịu hưởng, lại đi t́m hạnh phúc khác. Có khi v́ t́m hạnh phúc mà bị tật nguyền khổ ải.

“Nay đă làm người, được sanh nơi phồn thịnh lại đầy đủ sáu căn, đâu chẳng là quí sao?” Chúng ta được làm người một cách trọn vẹn vượt qua ba cái khó rồi, thật là đáng quí.

“Người đời luôn luôn đuổi theo con đường danh lợi, luống nhọc xác tổn thần, đem thân mạng rất quí báu này làm tôi tớ cho tiền của đáng khinh. Sánh với người ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên môi nào có khác ǵ.” Người đời chạy theo danh lợi nên khổ nhọc thân xác, hao tổn tinh thần, đem thân quí báu làm tôi tớ cho tiền của đáng khinh, đó là sai lầm lớn. Sánh với người ăn bánh quên vợ đâu có khác, tức là chỉ người thấy lợi nhỏ mà quên t́nh nghĩa thiết tha. Ngậm cơm quên môi là nhớ cơm quên môi, cơm là tạm thời, môi là lâu dài, tức là chỉ cái ngu muội của con người, nhớ việc nhỏ mà quên việc lớn.

“Tuy thân mạng thật là quí trọng, vẫn chưa quí trọng bằng đạo tối cao.” Đoạn trên ngài Trần Thái Tông kết tội những người quí tài vật mà quên thân mạng, đó là kẻ ngu. Đến đây Ngài nói thêm, thân mạng tuy quí, nhưng vẫn chưa bằng đạo tối cao. Thật vậy thân mạng rất quí nhưng đạo tối cao c̣n quí trọng hơn.

“Cho nên Khổng Tử nói: Sớm nghe đạo chiều chết cũng vui. Lăo Tử nói: Tôi sở dĩ có hoạn lớn, v́ tôi có thân. Thế Tôn thuở xưa cầu đạo xả thân cứu cọp đói. Đâu chẳng phải ba bậc Thánh nhân đều khinh thân mà trọng Đạo đó sao?”

“Khổng Tử nói: Sớm được nghe đạo chiều chết cũng vui”, tức là quí đạo hơn thân. C̣n Lăo Tử nói: Có thân này là có hoạn lớn, nếu không có thân th́ mới hết hoạn. Vậy hai vị Thánh nhân đều coi thường thân mạng.           

“Đức Thế Tôn thuở xưa cầu đạo, xả thân cứu cọp đói.” Đây là câu chuyện tiền thân của đức Phật. Thấy cọp đói, Ngài thương nên lăn ḿnh xuống hố cho cọp ăn, đó là xả thân cứu cọp đói. Người thế gian coi thân là quí, nhưng các bậc Thánh th́ khinh thân quí đạo, nên các Ngài xả thân để cầu đạo. Chúng ta chẳng nghe người xưa nói: Tu là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo đó sao! Nhưng ngày nay lại khác hơn, nhiều khi đi tu bỏ cái nghèo vào chùa để làm giàu, đó là xả bần cầu phú rồi. Xưa nói: xả thân cầu đạo, nay lại nói: xả đạo vị thân, nghĩa là coi thường đạo mà trọng thân hơn, đó là những điều lầm lẫn, thật trái với đạo nghĩa.

“Than ôi! Thân mạng thật là quí trọng c̣n phải xả để cầu Vô thượng Bồ-đề, huống là vàng ngọc, tiền của đáng khinh mà lại tiếc sao?” Đây là lời than, thân mạng thật là quí c̣n phải xả để cầu giác ngộ, sao lại c̣n tiếc vàng ngọc tiền của là cái đáng khinh. Cho nên người tu mà c̣n tiếc tiền của bạc vàng là không đúng.

“Ôi trong ấp mười nhà vẫn có người trung tín, huống là cả thế gian há không có người thông minh sáng suốt hay sao?” Người xưa nói: Trong ấp có mười nhà, vẫn có một người trung tín, huống nữa cả thế gian này không có người nào sáng suốt thấy được lẽ thật này hay sao? Lẽ thật này là lẽ khinh tiền của, khinh thân mạng mà quí trọng đạo vậy, đây là lẽ thật ít người thấy được.

“Đă nghe lời này, cần phải gắng học, chớ nên nghi ngờ chậm trễ. Kinh nói: ‘một phen mất thân người, muôn kiếp chẳng được lại’, thật là thống thiết. Cho nên Khổng Tử nói: ‘Người không chịu làm, tôi chẳng làm ǵ, cam đành thôi vậy.’ ” Ngài Trần Thái Tông khuyên mỗi người chúng ta phải ráng tu hành, cần mẫn học tập, chớ có nghi ngờ làm chậm trễ con đường tu của ḿnh. Trong kinh dạy: Một khi mất thân người, muôn kiếp không được trở lại. Thế mà chúng ta được thân người không cố gắng tu sao? Lời khuyên này thật là thống thiết. Khổng Tử dạy: Việc của mỗi người tự làm, nếu người không chịu làm, không chịu tu, dù cho bậc Thánh nhân muốn giúp cũng không giúp được, nên cam đành thôi vậy, không biết làm sao hơn!

“Rơ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát-na, thân huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày ch́m đắm trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh mông vô tận.” Thời gian tuổi thọ chúng ta tưởng là sống được trăm năm, nhưng cơ thể chuyển dời từng giây phút, từng sát-na, không phải đợi đến trăm năm mới thay đổi. Thân chuyển từng sát-na th́ thân là huyễn hóa, tứ đại này làm sao bền vững lâu dài được. Mỗi ngày chúng ta ch́m đắm trong bụi trần lăng xăng, tức là ch́m đắm trong sáu trần, th́ nghiệp thức càng mờ mịt, càng mênh mông vô tận, không biết đâu là manh mối. Cho nên chúng ta phải sớm lo tu hành để thoát khỏi trần lao nghiệp thức.

“Chẳng biết một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục.” Chúng ta không thức tỉnh, không biết rằng nơi mỗi người có một tánh tṛn sáng, trong kinh thường dụ như hạt minh châu, gọi là tánh viên minh. “Luống chạy theo sáu căn tham dục”, tức là sáu căn đuổi theo sáu trần nên chúng ta bị sáu trần lôi kéo dẫn dắt đi không làm chủ được.

“Công danh cái thế cũng chỉ là một trường đại mộng, phú quí kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ.” Dù được công danh tột thế gian cũng chỉ là một trường đại mộng, dù cho giàu sang tột đỉnh người nghe phải giật ḿnh, cũng khó thoát được hai chữ vô thường, tức là khó trốn được cái chết.

“Tranh nhân tranh ngă rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu kính chẳng thật.” Nếu chúng ta c̣n thấy nhân ngă là quí, là cao, th́ c̣n tranh hơn thua với nhau. Nhưng nhân ngă rốt cuộc cũng thành không, giỏi hay cứu kính đều không thật. Hai câu kệ sau đây cảnh tỉnh chúng ta:

            Gió lửa khi tan không già trẻ,

            Núi sông bại hoại mấy anh hùng.

Gió lửa tan rồi, tức là thân tứ đại ră tan, lúc đó không nói già nói trẻ nữa, già trẻ đều tan không có khác nhau. Khi cơn vô thường đến sông núi đều bại hoại, c̣n mấy kẻ anh hùng! Trong bài nói về Bốn núi, dù cho những đội quân hùng mạnh đến đâu cũng không chống đỡ được bốn núi sanh, già, bệnh, chết. Thế nên khi vô thường đến, anh hùng thế mấy cũng là vô nghĩa.    

“Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đă sớm điểm sương, ngày vui vừa đến th́ ngày điếu cũng đi theo.” Những câu này nghe xót xa làm sao! Xót xa cho thân phận của chính ḿnh. Đầu xanh chưa bao lâu th́ tóc đă điểm sương. Như hiện giờ, chư Tăng Ni tuy nói c̣n nhỏ nhưng đầu đă điểm sương, c̣n tôi tóc đă bạc như tuyết. Từ tóc xanh thành tóc bạc không có bao lâu.

“Ngày vui vừa đến th́ ngày điếu cũng đi theo.” Ngày vui là ngày sanh, nên nói mừng sinh nhật. Nhưng có sanh th́ có tử, nên vừa mừng ngày sanh, lại sửa soạn lo ngày điếu, chớ có lâu đâu. Thế mà người đời chẳng nhớ, đến bảy mươi tuổi cũng lo ăn mừng sinh nhật, không nghĩ tới ngày điếu của ḿnh.

“Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân t́nh, bảy thước h́nh hài buông ḷng tham mê tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai.” Trong kinh nói thân này là một đăy da máu mủ, nhưng chúng ta không nhớ, do bao máu mủ này mà phải nhiều năm khổ luyến ân t́nh v́ thương v́ ghét. “Bảy thước h́nh hài buông ḷng tham mê tài bảo”, mang thân bảy thước (thước ta ngày xưa) mà không nhớ, chỉ lo ham mê tài bảo. “Thở ra khó mong được hít vào”, một khi thở ra tưởng như hít vào là dễ, nhưng đến lúc nghẹt thở muốn hít vào rất khó, cho nên không ai bảo đảm cuộc sống ḿnh được lâu bền. “Ngày nay không bảo đảm ngày mai”, chúng ta cứ tính việc phải làm ở ngày mai, nhưng sự thật ngày mai chưa bảo đảm. Sống ngày nay biết ngày nay, c̣n ngày mai phải chờ xem, không biết có mặt ḿnh hay không. Nói nghe buồn nhưng đó là một lẽ thật.

            Đoạn này kết thúc bằng hai câu thơ:

            Sông yêu ch́m nổi lúc nào thôi,

            Nhà lửa đốt thiêu bao giờ tắt.

Sông yêu dịch từ chữ ái hà trong nhà Phật. Chúng ta ch́m đắm măi trong sông yêu biển ái biết đến chừng nào thôi dứt. Nhà lửa tam giới thiêu đốt chúng ta đến bao giờ mới tắt. Hai câu kết này là lời nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta phải mau mau thoát khỏi sông yêu đang nhận ch́m và nhà lửa tam giới đang thiêu đốt chúng ta.

“Chẳng nguyện vượt ra lối nghiệp, chỉ v́ chưa có công phu. Vua Diêm-la chợt truy t́m, Thôi tướng công há cho triển hạn.” Sở dĩ chúng ta không thoát được lối nghiệp lại bị nghiệp dẫn v́ công phu tu hành chưa có bao nhiêu. Nếu không thoát được nghiệp, một ngày kia vua Diêm-la cho lệnh truy t́m, Thôi tướng công cũng không cho triển hạn. Tướng công họ Thôi là chỉ quỉ vô thường trong nhà Phật. Trong sử các Thiền sư có câu chuyện quỉ vô thường t́m thầy Tri sự. Khi xưa ở một Thiền viện, công việc quá bề bộn, thầy Tri sự siêng năng làm công tác không có thời giờ tu. Một hôm quỉ vô thường tới mời đi. Thầy hoảng hốt nói: Tôi làm Tri sự mấy năm nay không rảnh để tu, xin ông về tâu lại với Diêm vương hoăn cho tôi một tuần lễ, để tôi có thời giờ tu hành. Quỉ vô thường nể t́nh về tâu lại, vua Diêm vương bằng ḷng. Ngang đó thầy Tri sự buông tất cả việc và tu gấp rút. Đến đúng kỳ hẹn, quỉ vô thường trở lại, t́m không ra thầy Tri sự nữa. Bấy giờ thầy Tri sự ở đâu? Chúng ta cũng ráng tập như vậy, khi làm việc th́ làm tận lực, lúc buông việc th́ tu gấp, như vậy mới giỏi mới hay, nếu không chịu tu, tướng công họ Thôi cũng không triển hạn được.

“Ngoái đầu nh́n người thân chẳng thấy, đến đây rồi nghiệp báo tự mang. Quỉ vương ngục tốt mặc sức khảo tra, cây kiếm núi đao khôn chống đỡ.” Khi bị quỉ vô thường dẫn đi, quay đầu nh́n lại t́m người thân chẳng thấy một ai. Một thân một ḿnh ra đi, c̣n ở nhân gian người thân đang khóc. Khi xuống đến Diêm đài, đă tạo nghiệp ǵ phải tự chịu nghiệp ấy, không có ai thay thế cho ḿnh. Bị quỉ vương ngục tốt khảo tra, chịu đủ cực h́nh đau đớn, trèo lên cây kiếm núi đao, không thể nào chống đỡ được.

“Hoặc nhốt dưới ngọn núi lửa, hoặc giam trong núi Thiết Vi. Vào vạc dầu sôi muôn kiếp ngàn đời, bị chặt chém một đao thành hai khúc. Đói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi. Suốt ngày luôn chịu khổ đau, năm trăm kiếp chẳng thấy h́nh bóng.” Hoặc bị nhốt thiêu trong núi lửa, hoặc bị giam ép trong núi Thiết Vi. Có khi bị quăng trong vạc dầu sôi không biết bao lâu, hoặc bị dao chặt chém thành hai khúc. Đói th́ nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi, trải qua năm trăm kiếp chịu khổ đau trong địa ngục.

“Trả xong tội nghiệp, trở vào luân hồi. Bỗng mất thân người khi trước, trở lại mang lấy đăy da. Đội lông mang sừng, hàm sắt dây yên, lấy thịt nuôi người dùng mạng trả nợ.” Trả xong tội nghiệp lại trở vào luân hồi bị các dư báo: Trước là người nhưng tạo tội bị xuống địa ngục, trả xong quả báo c̣n các dư báo, mất thân người khi trước lại mang thân các loài vật. Hoặc làm thân trâu ngựa, hoặc làm lợn chó vịt gà, dùng mạng trả đền nợ cũ.

“Sanh bị khổ dao bằm chày nện, sống bị nạn nước sôi lửa bỏng. Hằng chứa oán thù, thay nhau ăn nuốt.” Khi sanh làm loài vật, hoặc bị dao bằm chày nện, hoặc bị nước sôi lửa bỏng. Làm thân ḅ lợn bị dao bằm thịt, làm thân dê nai, bị chày nện cho mềm, làm gà vịt bị nhúng nước sôi... Khi xưa ḿnh giết họ, họ oán hận ḿnh, bây giờ họ giết ḿnh, ḿnh oán hận lại, cứ như thế mà chứa thù chất oán, ăn nuốt lẫn nhau măi măi không cùng.           

“Khi đó mới hối hận, học đạo không nhân. Chi bằng ngày nay tu tập, chớ để đời này trôi qua.” Đến khi này mới hối hận tại sao trước kia chúng ta không cố gắng học đạo đến nơi đến chốn, nay không có cơ hội học đạo phải chịu khổ đau, có ăn năn cũng không kịp nữa. Chi bằng ngay bây giờ phải ráng tu tập chớ để đời này trôi qua. Đây là lời khuyên nhắc chúng ta phải mau mau thức tỉnh gắng tu, nếu không tu phải theo nghiệp chịu khổ vô cùng, hết kiếp này sang kiếp khác làm thân súc vật để đền trả nợ trước.

Đến đây ngài Trần Thái Tông dẫn những sự tích để chỉ việc học đạo rất là quí trọng.

“Đức Phật Thích-ca trước bỏ hoàng cung đi thẳng vào núi Tuyết.” Khi xưa đức Phật do thức tỉnh, Ngài bỏ cung vàng, điện ngọc, ngôi vua, đi vào núi Tuyết tu khổ hạnh cho đến quên thân.

“Cư sĩ Bàng Long Uẩn đem gia tài đổ xuống biển sâu.” Ông Bàng Long Uẩn là một nhà Nho giàu có, khi hiểu đạo rồi, ông đem tiền của bạc vàng đổ xuống sông Tương, chỉ lo tu hành mà thôi.

“Chân Vũ chẳng thiết ngôi vua chỉ cầu tu hành.” Chân Vũ là một vị Thái tử nước Trịnh Lạc đời Hán, khi sanh ra có nhiều điềm lạ. Lớn lên có chí trừ khử tà ma, vượt biển đông gặp thiên thần trao cho cây bảo kiếm. Chân Vũ tu luyện ở núi Đông Hải bốn mươi hai năm thành công, ngay ban ngày bay lên không, vâng lệnh Thượng đế trấn thủ phương bắc. Vốn tên là Huyền Vũ, sau đổi là Chân Vũ. Đây là một vị Thái tử v́ ham tu mà bỏ cả ngôi vua.

“Lữ Công đă làm thần tiên, vẫn c̣n tham vấn.” Đây là câu chuyện tiên. Lữ Công tức là Lữ Đồng Tân, trong sách có một bài viết Lữ Đồng Tân đầu Phật. Lữ Đồng Tân quê ở Hà Dương, sanh khoảng Thiên Bảo nhà Đường, ḍng họ làm quan, ông mấy phen thi Tiến sĩ không đậu, chán nản dạo núi Hoa Sơn, gặp Hán Chung Ly là Lang tướng nhà Tấn trấn loạn nơi đây, ông xin ở lại và học pháp dưỡng sanh. Chung Ly muốn độ Lữ Đồng Tân, trước dùng tài thí, một hôm Đồng Tân đứng hầu, Chung Ly lượm một ḥn đá lấy thuốc bôi vào liền thành vàng ṛng tặng cho Tân nói để đi đường bán xài. Tân hỏi: Cái này có hoại chăng? Ly nói: Năm trăm năm mới hoại. Tân liền ném đi nói: Khi khác làm lầm người. Ly lại thử Tân bằng sắc đẹp, sai Tân vào núi hái thuốc, Ly hóa ra túp lều tranh có một cô gái đẹp, cô gái thấy Tân vui mừng đón tiếp nói: Chồng tôi mất đă lâu, nay gặp quân tử mong không bỏ tôi, bước lại gần muốn nắm tay. Tân lấy tay gạt ra nói: Chớ đem cái đăy nhớp đến gần ta. Người nữ ấy biến mất hiện Hán Chung Ly. Hán Chung Ly liền dạy cho Tân thuật kim đơn và phép Thiên tiên kiếm. Từ đây Tân được dạo đi tự tại, làm thi rằng:

            Triêu du Nam Việt, mộ Thương Ngô,

            Tụ lư thanh xà đảm khí thô,

            Tam nhật Nhạc Dương nhân bất thức,

            Lăng ngâm phi quá Động Đ́nh hồ.

Dịch:

            Sớm chơi Nam Việt, xế Thương Ngô,

            Trong áo thanh xà gan mật thô,

            Dương Nhạc ba ngày người chẳng biết,

            Ngâm to bay thẳng Động Đ́nh hồ.

Sau Tân đến yết kiến Ḥa thượng Long Nha, hỏi: Thế nào là đại ư Phật pháp? Long Nha đáp bằng bài kệ:

            Hà sự triêu sầu dữ mộ sầu,

            Thiếu niên bất học lăo hoàn tu,

            Minh châu bất thị Ly long tích,

            Tự thị thời nhân bất giải cầu.

Dịch:

            Chi phải sớm buồn với chiều buồn,

            Thiếu thời không học, lăo hối suông,

            Minh châu nào phải Ly long tiếc,

            Chỉ tại người đời chẳng biết cầu.

Tân nhân dạo núi Hoàng Long ở Nhạc Châu, thấy mây đỏ ṿng quanh, nghi có dị nhân ở, liền vào chùa gặp Thiền sư Hối Cơ Siêu Huệ đang thượng đường. Cơ biết có dị nhân thầm ẩn dưới ṭa, liền to tiếng bảo: Trong chúng có người trộm pháp. Tân ngang nhiên ra hỏi: Trong một hạt lúa chứa thế giới, trong nồi nửa thăng nấu núi sông, hăy nói ư chỉ này thế nào? Cơ đáp: Quỉ giữ thây chết. Trong đăy Tân vẫn có thuốc trường sanh, Tân nói: Trong đăy vẫn có thuốc trường sanh bất tử th́ sao? Cơ đáp: Dù trải tám muôn kiếp trọn là rơi trong không vong. Tân bất b́nh ra đi, đến nửa đêm phi kiếm hại Cơ. Cơ đă biết trước, lấy pháp y trùm đầu ngồi tại phương trượng, kiếm đến bay quanh mấy ṿng, Cơ lấy tay chỉ, kiếm liền rơi xuống đất. Tân đến tạ lỗi, Cơ nhân đó hỏi: Trong nồi nửa thăng th́ chẳng hỏi, thế nào là trong một hạt lúa chứa thế giới? Tân ngay lời hỏi này có tỉnh, bèn thuật kệ:

            Hạo khước biều nhi toái khước cầm,

            Như kim bất luyến thủy trung câm,

            Tự tùng nhất kiến Hoàng Long hậu, 

            Thủy giác tùng tiền thố dụng tâm.

Dịch:

            Bẻ găy chiếc bầu, đập nát đàn,

            Hiện nay chẳng thích nước trữ vàng,

            Sau khi gặp được Hoàng Long đấy,

            Mới biết từ xưa quấy dụng tâm.

Đây là câu chuyện thần tiên đi học Phật. Lữ Đồng Tân là thần tiên, c̣n đi tham vấn với Thiền sư Hối Cơ ở Hoàng Long.

“Tô Đông Pha thường gần Phật Ấn.” Trong sử có ghi: Một hôm Sư (Phật Ấn) và đồ chúng vào thất, cư sĩ Tô Đông Pha đến thẳng thất, Sư nói: Trong này không có ghế ngồi, cư sĩ đến đây làm ǵ? Đông Pha đáp: Tạm mượn thân tứ đại của Phật Ấn làm ghế ngồi. Phật Ấn nói: Sơn tăng có một câu hỏi, nếu cư sĩ nói được th́ mời ngồi, bằng nói chẳng được th́ cởi ngọc đái để lại. Đông Pha vui vẻ chấp nhận. Phật Ấn hỏi: Vừa rồi cư sĩ nói “tạm mượn thân tứ đại Sơn tăng làm ghế ngồi”, chỉ như Sơn tăng tứ đại vốn không, năm ấm chẳng có, cư sĩ đến chỗ nào ngồi? Tô Đông Pha không đáp được, phải cởi dây ngọc đái để lại, Sư tặng cho lá y Vân Sơn, Đông Pha làm bài kệ:

            Bách thiên đăng tác nhất đăng quang,

            Tận thị hằng sa diệu pháp vương,

            Thị cố Đông Pha bất cảm tích,

            Tá quân tứ đại tác thiền sàng.

            Bệnh cốt nan kham ngọc đới vi,

            Độn căn nhưng lạc tiễn phong ky,

            Hội đương khất thực ca cơ viện,

            Đoạt đắc Vân Sơn cựu nạp y.

Dịch:

            Đèn trăm ngàn ngọn ánh sáng đồng,

            Cả thảy hằng sa diệu pháp vương,    

            Bởi thế Đông Pha đâu dám tiếc,

            Mượn anh tứ đại làm giường thiền.

            Bệnh xương khó chịu ngọc đái ràng,

            Căn độn nên rơi máy nhọn tên,

            Hiểu nên khất thực xa ca kỹ,

            Nhận lănh Vân Sơn chiếc y xưa.

Câu chuyện này cho thấy Tô Đông Pha là một nhà văn nổi tiếng, c̣n phải đến học với ngài Phật Ấn.

“Hàn Văn Công lại lễ Đại Điên.” Hàn Văn Công tức Hàn Dũ, là một nhà Nho nổi tiếng, người Xương Lê đời Đường, đậu Tiến sĩ. V́ dâng biểu can vua Hiến Tông rước xá-lợi Phật vào cung, nên bị đày đi Triều Châu. Ở đây, Hàn Dũ có viết thơ mời Thiền sư Đại Điên ở chùa Linh Sơn phía tây Triều Châu đến tranh luận về đạo, cùng nhau đi lại nhiều lần, sau qui y Đại Điên. Vậy là một nhà Nho nổi tiếng cũng qui y với nhà Thiền.

“Bùi Công bị đoạt hốt nơi Thạch Sương.” Bùi Công tức là Tướng quốc Bùi Hưu đời Đường. Một hôm Ngài tới chỗ Thiền sư Thạch Sương, ngài Thạch Sương thấy Bùi Công cầm cây hốt trong tay, Ngài mới mượn cây hốt, cầm đưa lên hỏi: Cây hốt này ở trong tay vua gọi là khuê, ở trong tay quan nhân gọi là hốt, bây giờ ở trong tay Sơn tăng gọi là ǵ? Nếu nói được th́ trả, nói không được th́ giữ lại. Ngài Bùi Hưu nói không được, ngài Thạch Sương giữ cây hốt lại. Nên nói: “Bùi Công bị đoạt hốt nơi Thạch Sương.”

“Pḥng tướng hỏi pháp ở Quốc Nhất.” Pḥng tướng tức là Tướng quốc Pḥng Huyền Linh, giúp vua Đường Thái Tông dấy nghiệp, làm đến chức Tể tướng. Quốc Nhất tức là Thiền sư Đạo Khâm, người huyện Côn Sơn thuộc Tô Châu. Vua Đường Thái Tông mời Ngài vào cung hỏi đạo, ban cho hiệu là Quốc Nhất Thiền sư. Pḥng tướng quốc vẫn tới hỏi đạo với Thiền sư Quốc Nhất.

“Diệu Thiện không nhận pḥ mă, thành Phật chẳng ngờ.” Đây là câu chuyện Công chúa Diệu Thiện không lập pḥ mă, chỉ chuyên lo tu hành và thành Phật Quan Âm.

“Lục Tổ mới gặp khách nghe kinh liền tỉnh ngộ.” Lục Tổ nghe khách tụng kinh Kim Cang liền tỉnh ngộ...

“Đạo Thiền nếu không thú vị, Hiền Thánh sao chịu qui y.” Nếu đạo Thiền không có giá trị cao siêu, tại sao nhiều vị có tài, có địa vị cao ở thế gian đều phải theo học?

“Hóa Lâm cảm hóa hai cọp theo luôn.” Theo sử, ngài Hoa Lâm ở dưới hội của Tổ Bá Trượng, là sư huynh của ngài Qui Sơn Linh Hựu. Khi đó Ngài làm thủ tọa và sau vào núi tu, có hai con cọp theo hầu, cọp lớn tên Đại Không, cọp nhỏ tên Tiểu Không. Mỗi khi khách đến, hai con cọp chạy ra mừng, nhưng khách thấy cọp hoảng sợ, Ngài bảo: Đại Không, Tiểu Không có khách đến, ra sau đi. Hai con cọp rón rén bước ra sau.

“Đầu Tử có ba con chim báo sáng.” Ở núi Đầu Tử có hai Thiền sư nổi tiếng, vị đầu tiên là ngài Đại Đồng Đầu Tử, vị sau là ngài Nghĩa Thanh Đầu Tử, thuộc tông Tào Động. “Đầu Tử có ba chim báo sáng” không biết là chỉ vị nào, trong đây không nói rơ.

“Lư trưởng giả giải kinh mà thiên trù dâng cơm.” Lư trưởng giả tức là Lư Thông Huyền đời Đường niên hiệu Khai Nguyên thứ bảy (719), Ngài trước tác bộ Tân Hoa Nghiêm Kinh Luận bốn mươi quyển, do miệt mài viết kinh cho nên quên cơm, chư Thiên đem cơm dâng cho Ngài.

“Tu-bồ-đề ngồi yên mà Đế Thích tán hoa.” Câu chuyện này được nhắc lại nhiều lần. Ngài Tu-bồ-đề là một trong mười vị đại đệ tử của đức Phật,  Ngài là Giải Không đệ nhất. Một hôm Ngài tọa thiền dưới chân núi, ngồi yên lặng, hoa trời rơi xuống rất nhiều. Ngài hỏi: Ai tán hoa đó? Trời Đế Thích thưa: Tôi là trời Đế Thích. Hỏi: Tại sao ông tán hoa? Đáp: Thấy Ḥa thượng thuyết pháp hay quá nên tôi tán hoa. Hỏi: Ta chưa từng nói mà sao nói thuyết pháp hay? Trời Đế Thích thưa: Ngài không nói, tôi không nghe, đó là thuyết pháp.

“Đạt-ma một chiếc dép về Tây.” Đây nói về Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa giáo hóa. Sau thời gian chín năm Ngài an nhiên thị tịch, nhục thân nhập tháp tại núi Hùng Nhĩ. Tống Vân (sứ giả Trung Hoa) đi sứ Ấn Độ trở về gặp Ngài tại núi Thông Lănh tay xách một chiếc dép đi nhanh như bay trở về Ấn Độ (Tây Thiên). Vua nghe việc ấy ra lệnh mở cửa tháp mở quan tài ra, quả nhiên quan tài trống không, chỉ c̣n một chiếc dép. Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu Lâm... (Theo Sử 33 vị Tổ Thiền tông Ấn Hoa.) .               

“Phổ Hóa rung chuông bay đi.” Trong sử của ngài Lâm Tế, có ngài Phổ Hóa dường như là người điên nhưng thật không phải, cả ngày ra chợ ăn xin lang thang, nhưng Ngài nói nhiều câu rất kỳ đặc. Khi sắp tịch, Ngài nói với người ngoài chợ: Xin quí vị cho tôi vải để may chiếc áo dài. Ngài Lâm Tế nghe nói sai đồ đệ sắm cho Ngài chiếc quan tài. Ngài vác quan tài ra chợ nói: Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, mai tôi tịch ở cửa đông. Ngày mai dân chúng chạy lại cửa đông xem, Ngài nói: Nay tôi chưa tịch, ngày mai tôi tịch ở cửa tây. Như thế hẹn đến ba ngày, mọi người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư, không ai theo xem nữa, Ngài tự chun vào quan tài, mượn người đi đường đậy nắp lại. Khi hay tin, mọi người trong chợ chạy đến xem, giở quan tài ra không thấy thi hài Ngài, chỉ nghe tiếng chuông rung xa dần trên hư không. Cho nên ở đây nói “Phổ Hóa rung chuông bay đi”.

“La-hán đến tham vấn với Ḥa thượng Ngưỡng Sơn.” Trong sử ghi rơ có vị Tăng người Ấn từ hư không đến. Ngưỡng Sơn hỏi: Vừa rồi ở đâu đến? Tăng thưa: Ở Tây Thiên. Sư hỏi: Rời Tây Thiên lúc nào? Tăng thưa: Sớm mai. Sư bảo: Sao mà chậm lắm vậy. Tăng thưa: V́ c̣n dạo núi xem nước. Sư bảo: Thần thông du hí th́ chẳng không, Phật pháp của Xà-lê cần trao lại cho Lăo tăng mới được. Tăng thưa: Định sang Đông độ lễ Văn-thù, lại gặp Tiểu Thích-ca. Bèn đem sách chữ Phạn bằng lá bối trao cho Sư, làm lễ rồi nương hư không mà đi.

“Nhạc Đế qui y với Thiền sư Tư Đại.” Thiền sư Tư Đại thường ngồi thiền trên núi Nam Nhạc, tức là ngọn núi ở phía nam. Ngài là Huệ Tư, c̣n gọi là Tư Đại. Một hôm Ngài đang ngồi thiền, có một đoàn người đi ngang, đi đầu là một người rất oai vệ, ăn mặc như một vị quan lớn. Khi đi ngang Ngài, họ tính la to cho Ngài sợ, Ngài sẽ đứng dậy tránh đi, nhưng Ngài vẫn ngồi thiền tự nhiên. Nhạc Đế là vị đi đầu tới bên Ngài qú xuống thưa: Bạch Ḥa thượng, nay tôi muốn qui y với Phật. Ngài Tư Đại mới xả thiền làm lễ qui y. Buổi lễ xong, Nhạc Đế thưa: Bạch Ḥa thượng, tôi muốn tặng Ngài một vật để làm kỷ niệm, v́ tôi là Nhạc Đế, là thần lớn nhất ở núi này. Vị thần năn nỉ măi, ngài Huệ Tư không chấp nhận. Sau cùng thần nói: Ở xóm dưới chân núi có nhiều người chưa biết đạo, để tôi ám trợ họ lên qui y với Ḥa thượng, Ngài có bằng ḷng không? Ngài Huệ Tư bảo: Không được. Hỏi: Tại sao? Đáp: V́ qui y là tự người thức tỉnh phát tâm, nếu do sức ám trợ là không đúng pháp Phật. Thần hỏi: Vậy có cái ǵ để con đền ơn Ngài? Ngài bảo: Ở trước chùa ta cây cối xơ xác, cạnh núi bên kia tùng bá sum sê, nếu được, ông dời những cây bên đó qua dùm ta. Nhạc Đế nhận lời và dặn: Tối nay nếu nghe tiếng sấm sét, Ḥa thượng bảo người trong chùa đừng kinh sợ, con sẽ dời cây cối. Đúng tối hôm đó sấm sét ầm ầm nổ vang, sáng ra cây cối xơ rơ biến mất, chỉ có tùng bá sum sê. Đó là câu chuyện “Nhạc Đế qui y với Thiền sư Tư Đại”.

“Cảnh Sơn đến nay vẫn được Long vương thỉnh cúng.” Có nhiều vị trụ tŕ ở Cảnh Sơn, nhưng đây là chỉ Thiền sư Vô Chuẩn, tức là ngài Phật Giám ở đời Tống. Ngài trụ tŕ ở Cảnh Sơn, thường được Long cung mời cúng dường.

“Tuyết Phong ngày xưa hay sai người gỗ phá non.” Tuyết Phong Nghĩa Tồn nói: Có những lúc tự có những người bằng gỗ lên núi phá rừng để xây cất chùa.

“Đây là những nguyên do để nghiệm biết, chớ tự khinh mà lui sụt.” Những sự tích được dẫn chứng cốt làm cho chúng ta sáng tỏ rằng những người có địa vị ở thế gian như những nhà Nho làm quan, hoặc những vị tu tiên, những vị thần đều hướng về Phật pháp, hướng về thiền, huống là những người thường. Như vậy chúng ta thấy giá trị của người tu thiền hết sức cao quí chớ không phải tầm thường.

“Chồn hoang c̣n nghe Bá Trượng nói pháp. Loài ốc ṣ vẫn biết hộ kinh Kim Cang. Mười ngàn con cá nghe danh hiệu Phật được hóa làm con trời. Năm trăm con dơi nghe tiếng pháp thảy được làm Hiền Thánh. Măng xà nghe sám hối được sanh thiên. Rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Chúng là loài vật c̣n hay lănh ngộ, huống là người sao chẳng hồi tâm.”

Đoạn này ngài Trần Thái Tông muốn nói loài thú c̣n có thể nghe kinh tu tiến được, huống nữa là người sao chẳng lo tu.

“Chồn hoang c̣n nghe Bá Trượng nói pháp.”(Thiền sư Trung Hoa tập I.) Một hôm Tổ Bá Trượng thuyết pháp dạy chúng. Sau thời pháp tất cả mọi người đều lui, chỉ c̣n một ông già ngồi măi không đi. Tổ Bá Trượng thấy mới hỏi: Ông người ở đâu, v́ sao măn giờ mà không về? Ông già thưa: Con không phải là người. Tổ hỏi: Vậy ông là ǵ? Thưa rằng: Con là chồn ở

sau núi này. Khi xưa, một thời con đă làm Tỳ-kheo tăng, nhân có người học đạo đến hỏi: Bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Con đáp: Không rơi vào nhân quả. V́ trả lời sai lầm, con phải đọa làm thân chồn năm trăm kiếp. Giờ đây con đến nghe pháp, cầu xin Ḥa thượng nói cho con một chuyển ngữ để con thoát kiếp chồn. Tổ Bá Trượng bảo: Ông hỏi lại ta đi. Ông già đứng lên hỏi Tổ: Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Tổ đáp: Không lầm nhân quả. Ngay đó ông tỉnh ngộ và thưa với Tổ: Ngày mai Ḥa thượng đến phía sau núi, bên mé hang có xác con chồn, xin Ḥa thượng cho làm lễ táng như một Tỳ-kheo tăng để giúp con. Hôm sau Tổ Bá Trượng dẫn chúng tăng ra sau núi chỗ mé hang gặp xác con chồn vừa chết bèn làm lễ thiêu như một Tỳ-kheo.

Câu chuyện này quan trọng nơi câu trả lời. Người học Phật pháp nông cạn, nghe chư Tổ nói hoặc đọc trong kinh rồi hiểu lầm, khi có người đến hỏi đạo, ḿnh nói sai nên phải đọa. Thế nên tu mà không hiểu thâm sâu lư đạo, rồi nói sai, đó là một họa lớn. Như nói: Người đại tu hành tức là người tu hành đă ngộ đạo, c̣n rơi vào nhân quả không? Đa số nghĩ ḿnh tu hành ngộ đạo rồi, đâu c̣n rơi vào nhân quả nữa, cho nên trả lời: Không rơi vào nhân quả. Một câu nói sai lầm phải đọa làm thân chồn năm trăm kiếp. Tại sao? Bởi v́ trong giáo lư đạo Phật, nhân quả là nền tảng của pháp hữu vi, tức là của phần tu cơ bản c̣n trong đối đăi. Vậy trong đối đăi nhân quả là chân lư, cho nên đức Phật luôn luôn dạy mọi người phải hiểu thấu ư nghĩa nhân quả để ứng dụng trong đời tu và trong cuộc sống, thế mới tiến bộ và mới là chánh tín. Nếu nói người đại tu hành không rơi vào nhân quả, đó là phủ nhận lư nhân quả, nên thành tội phải đọa làm chồn năm trăm kiếp. Đến khi ông già hỏi lại câu đó, Tổ trả lời: Không lầm nhân quả. Không lầm là thấy rơ, biết rơ nhân quả, thế là thoát khỏi kiếp chồn. Đối với nhân quả Phật dạy, người ngộ đạo thấy càng rơ, chớ đâu thể nói không rơi không mắc. Vậy một câu nói đúng chân lư cứu người thoát khỏi kiếp trầm luân, c̣n câu nói sai làm cho ḿnh phải đọa.

“Loài ốc ṣ vẫn biết hộ kinh Kim Cang.” Tục truyền, thuở xưa có một người đi biển là một Phật tử chân thành,  nên đem kinh Kim Cang theo đọc tụng dưới thuyền. Thuyền ch́m, ai nấy bị trôi giạt, bộ kinh cũng bị trôi. Nhưng sau này có người chài lưới vớt được quyển kinh, th́ thấy ṣ ốc bu quanh che kín nên quyển kinh không bị hư hoại. Như vậy loài ngu như ṣ ốc c̣n biết quí trọng và bảo vệ kinh.

“Mười ngàn con cá nghe danh hiệu Phật được hóa làm con trời.” Theo điển tích mười ngàn con cá do nghe danh hiệu Phật mà được hóa làm người.

“Năm trăm con dơi nghe tiếng pháp thảy được làm Hiền Thánh.” Trong Tây Vức Kư quyển hai có chép: Bờ biển nam có một cây khô có cái bộng lớn, trong bộng có năm trăm con dơi ở ẩn. Một nhóm thương lữ dừng dưới gốc cây, gặp lúc gió lạnh, nhóm lửa để hơ. Lúc đó có một khách buôn đọc tụng tạng A-t́-đạt-ma, dơi mê nghe kinh nên khi lửa cháy táp tới vẫn cố chịu đựng không bay đi nên phải bị chết thiêu, sau hóa kiếp làm người, được xuất gia học đạo, đồng chứng Thánh quả. Nên nói dơi được làm Hiền Thánh.

“Măng xà nghe sám hối được sanh thiên.” Măng xà là con rắn lớn. Chuyện xưa nói vua Lương Vơ Đế có một bà phi, ông rất thương quí, nhưng bà có nhiều tật xấu ác đố kỵ, nên khi chết hóa thành con rắn lớn về báo mộng cho nhà vua. Nghe như thế, nhà vua mới mời các Cao tăng đến, xin các Ngài soạn ra bài sám hối gọi là Lương Hoàng Sám, và đọc cho bà phi nghe. Nhờ nghe sám hối, măng xà hết tội, được sanh lên cơi trời.

“Rồng nghe kinh mà ngộ đạo.” Trong kinh Pháp Hoa nói: Bồ-tát Văn-thù xuống Long cung thuyết pháp, có bà Long nữ tám tuổi nhân nghe pháp mà ngộ đạo. Khi đức Phật nói kinh Pháp Hoa, bà hiện thần thông cho mọi người thấy. Rồng là loài vật nghe kinh c̣n ngộ đạo thay!     

“Chúng là loài vật c̣n hay lănh ngộ, huống là người sao chẳng hồi tâm.” Đây là câu ngài Trần Thái Tông nhắc nhở chúng ta phải cố gắng tu học, tất cả loài chim chồn, ṣ ốc hay rắn rồng c̣n biết quí kinh, tu hành đạt đạo, huống nữa chúng ta là người mà không tu được hay sao? Thế mà có nhiều người nghĩ ḿnh nghiệp nặng nên có mặc cảm tự ti, tự khi ḿnh không thể tu nổi. Thật ra, trong tất cả chúng sanh, loài người là trên hết, các chúng sanh kia c̣n có thể nghe kinh ngộ đạo, loài người nghe kinh há không ngộ đạo được sao?

“Hoặc có người vùi đầu trong ăn uống, qua mất một đời. Hoặc có người trên đường tu hành lầm lẫn, mà không thức tỉnh. Đâu biết tánh giác Bồ-đề mỗi mỗi viên thành, nào hay căn lành Bát-nhă người người đầy đủ. Chớ luận đại ẩn tiểu ẩn, thôi phân tại gia xuất gia. Chẳng cuộc người Tăng kẻ tục, chỉ cốt nhận được bản tâm. Vốn không có nam nữ, đâu cần chấp tướng. Người chưa rơ dối chia tam giáo, liễu được rồi đồng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật.”

Đầu tiên Ngài quở “hoặc có người vùi đầu trong ăn uống, qua mất một đời”, nay đ̣i ăn món này, mai đ̣i món khác. Nhưng phải làm mới có ăn, nên lo làm lo ăn măi, hết tháng hết năm, đến tuổi già chết không biết đi về đâu. Suốt đời chỉ lo ăn uống, không làm được điều ǵ cao thượng hơn. Thí dụ như người đạp xích lô suốt buổi sáng mệt nhoài, tới trưa chiều kiếm được số tiền về nhậu một bữa cho ngon, sáng lại đi đạp xích lô nữa, cứ như thế qua hết một đời!

“Hoặc có người trên đường tu hành lầm lẫn, mà không thức tỉnh.” Có nhiều người h́nh thức người tu, xem như xuất gia học đạo, mà đi lầm đường lạc lối, không cố gắng tu hành để được giác ngộ, lại làm những điều mê tín dị đoan gây cho bao nhiêu người khác lầm theo, đó là đi đường mê mà không thức tỉnh.

“Đâu biết tánh giác Bồ-đề mỗi mỗi viên thành, nào hay căn lành Bát-nhă người người đầy đủ.” Tánh giác Bồ-đề ai ai cũng tṛn sẵn, không có người nào thiếu. Căn lành Bát-nhă người người đều có đủ, không phải người có người không. Vậy mỗi người chúng ta ai cũng sẵn tánh giác, ai cũng đầy đủ trí Bát-nhă, đâu có ai thua ai, tại sao nói người tu được, ḿnh tu không được, người giác ḿnh mê? Điều này chúng ta phải nghĩ xét lại, đừng mặc cảm người là bậc thượng c̣n chúng ta là bậc hạ, chẳng qua là tỉnh sớm th́ giác sớm, tỉnh muộn th́ giác muộn mà thôi. Không ai trọn quyền hưởng tánh giác, cũng không ai vô phần. Hiểu rơ như vậy để chúng ta đừng mặc cảm người có tánh giác mà ta không.

“Chớ luận đại ẩn tiểu ẩn, thôi phân tại gia xuất gia.” Theo bên Nho, đại ẩn là những người trí sĩ tại thành thị mà không ham danh lợi, ở yên tu hành. Tiểu ẩn là những người cũng trí sĩ nhưng ẩn nơi rừng hoang núi vắng, yên giữ ư chí của ḿnh. Về mặt Nho giáo, đại ẩn hay tiểu ẩn đều có thể tu. Về mặt Phật giáo, xuất gia hay tại gia cũng đều tu được. Không phải dành riêng phần tu cho người xuất gia, c̣n cư sĩ là vô phần, hiểu như vậy là lầm. Tất cả chúng ta đều có tánh giác như nhau, ai cũng có quyền tu, cũng có quyền ngộ, chúng ta chớ có nghi ngờ. Đa số Phật tử hiện nay hay nghĩ: Muốn tu được giải thoát, được giác ngộ là phải xuất gia, c̣n tại gia không thể nào tu nổi, nghĩ như vậy là sai. Thật ra nếu xuất gia mà tâm phiền năo không sạch, niệm thế gian chưa hết th́ làm sao giải thoát, làm sao giác ngộ. Nếu là h́nh thức tại gia mà dứt hết phiền năo, buông sạch những niệm thế tục tham sân si th́ cũng được giải thoát giác ngộ vậy.  H́nh thức chỉ là phần phụ, cốt yếu là dứt phiền năo, sạch tham sân si, là chúng ta được giải thoát không nghi.

“Chẳng cuộc người tăng kẻ tục, chỉ cốt nhận được bản tâm.” Không hạn cuộc đây là tăng kia là tục, chỉ cốt tu và nhận được nơi ḿnh bản tâm thanh tịnh chưa từng sanh diệt. Nhận được bản tâm rồi, tăng tục đều tu được đến chỗ an ổn giải thoát. Trái lại nếu không nhận được dù tăng hay tục cũng trầm luân đau khổ.

“Vốn không có nam nữ, đâu cần chấp tướng.” Nh́n theo mắt phàm tục th́ có kẻ nam người nữ rơ ràng, nhưng bản tánh thanh tịnh chẳng sanh chẳng diệt, không có nam, không có nữ. Nam nữ là giả tướng do nghiệp tạo thành. Thế nên trong kinh Pháp Hoa có đoạn ngài Văn-thù đưa bà Long nữ đến gặp Phật. Ngài Xá-lợi-phất nghi hỏi: Người nữ có năm chướng, tu không được thành Phật, vậy Long nữ là người nữ, lại là loài rồng, làm sao thành Phật? Khi ấy Long nữ đem hạt châu dâng lên Phật, Phật liền nhận lấy. Long nữ hỏi: Tôi dâng hạt châu Phật nhận, việc đó chậm hay mau? Ngài đáp: Rất mau. Long nữ nói: Tôi thành Phật cũng mau như vậy. Ngay đó Long nữ biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-tát liền thành Phật.

Như vậy Phật là chỉ cho tánh giác, tánh giác không có nam nữ, nam nữ chỉ là giả tướng thôi. Nếu chúng ta chấp tướng rồi sanh niệm phân biệt khen chê khinh trọng, là v́ chúng ta không hiểu rơ. Thế nên đừng nói người nam tu được, c̣n người nữ nguyện tu cho đời sau chuyển nữ thành nam rồi tu tiếp. C̣n chấp tướng là chưa nhận được tánh giác của ḿnh. Nam nữ đều có quyền tu, có quyền giác ngộ. Như thời đức Phật tại thế, Tăng chứng A-la-hán, Ni cũng chứng A-la-hán. Câu chuyện khi xưa kể khi nghe Phật sắp Niết-bàn, năm trăm vị Tỳ-kheo-ni xin Phật được Niết-bàn trước v́ không thể nh́n đức Phật nhập Niết-bàn. Vị lănh đạo Ni chúng khi đó là bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề, tức là Kiều-đàm-di Mẫu. Phật cho phép, năm trăm vị về ngồi kiết già nhập Niết-bàn. Nếu các vị không chứng A-la-hán th́ làm sao sanh tử tự tại như vậy. Thế là Tăng chứng A-la-hán, Ni cũng chứng được. Trong nhà Thiền, Tăng ngộ đạo, Ni cũng ngộ được. Ở Trung Hoa có các Thiền sư ni như bà Thiết Ma, bà Liễu Nhiên và cô cư sĩ Linh Chiếu. Ở Việt Nam có Ni sư Diệu Nhân. V́ ai cũng có tánh giác nên Tăng Ni ai cũng có quyền ngộ đạo, nếu hẹn đến đời sau làm thân nam mới tu e muộn quá. Vậy chúng ta nguyện tu giác ngộ ngay đời này không chờ đến kiếp sau.

“Người chưa rơ dối chia tam giáo, liễu được rồi đồng ngộ nhất tâm.” Phần trên ngài Trần Thái Tông phá chấp tăng tục, nam nữ, đến đây Ngài phá chấp tam giáo Phật, Khổng, Lăo. Dù người tu theo giáo nào cũng đều có tánh giác, nếu hướng về tánh giác tu được nhất tâm là đạt đạo. Đừng phân chia đạo này đạo khác rồi chống đối lẫn nhau, gây ra bao nhiêu phiền năo. Nếu biết tu th́ đều giác ngộ.

“Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật.” Phản chiếu hồi quang là bốn chữ rất hệ trọng đối với người tu thiền. Hồi quang là xoay ánh sáng trở về, phản chiếu là quay lại chiếu soi nơi ḿnh. Trong kinh Phật cũng như trong sử các Thiền sư có dạy: Sở dĩ chúng ta muôn kiếp mê lầm là v́ buông sáu căn rong ruổi theo sáu trần, đó gọi là phóng ra. Hiện giờ kiểm lại có ai không phóng ra chăng? Mắt thấy sắc khen đẹp chê xấu, tai nghe tiếng phân biệt dở hay, dù ai nói lén nói thầm cũng ráng lắng nghe cho kỹ, không chịu bỏ qua. C̣n mũi ngửi mùi lạ liền t́m hiểu cho ra mùi ǵ. V́ thế cả ngày sáu căn rong ruổi theo sáu trần, đó gọi là buông cho chúng chạy ra. Trái lại, nếu chúng ta xoay sáu căn trở về, tức là xoay cái chiếu trở về soi lại thân và tâm ḿnh để t́m ra cái chân thật, đó gọi là hồi quang phản chiếu. Biết thật rơ, hiểu thật kỹ con người ḿnh là cái ǵ, thân này là ḿnh chăng, tâm suy nghĩ vọng tưởng là ḿnh chăng, rồi tự ḿnh giác ngộ. Thế nên chúng tôi thường nhắc nhở Tăng Ni, người biết phản chiếu hồi quang đâu có rảnh nói chuyện thiên hạ, lúc nào cũng lo nh́n lại ḿnh, nh́n những vọng tưởng của ḿnh. Ai nói ǵ làm ǵ đâu có phân biệt để khen chê. Người hay khen chê, hay nói chuyện thiên hạ chắc rằng người đó không có phản chiếu hồi quang, v́ người tu nhiều th́ đâu có rảnh. Như Thiền sư Lại Toản, Lại là lười biếng, tức là Thiền sư Toản lười biếng. Ngài vào rừng núi cất am để tu, mỗi ngày chỉ bươi củ nần hoặc củ khoai mài đem về nướng hoặc luộc ăn. Vua Đường nghe hạnh của Ngài, biết là người quyết chí tu nên sai sứ đến thỉnh Ngài về triều. Sứ đến, đang nằm trên giường Ngài ngồi dậy, không nói ǵ đến sứ, lại bên đống lửa bươi kiếm củ khoai mài lột ăn, khoai đang nóng nên nước mũi chảy ṛng. Sứ giả thưa: Thỉnh Sư v́ con chùi mũi. Ngài nói: Ta đâu có rảnh v́ ông mà chùi mũi. Thế th́ Ngài không nhớ để ăn, không rảnh để lau mũi, vậy Ngài đang làm ǵ, v́ sao gọi Ngài là lười biếng? Nằm cả ngày lo phản chiếu hồi quang, có rảnh đâu để nhớ chuyện đói, chuyện ăn. Đến khi bị gọi dậy giựt ḿnh, nghe đói bụng Ngài kiếm khoai ăn, sứ th́ mặc sứ. C̣n chúng ta nghe sứ nhà vua đến th́ khúm núm đứng dậy chào hỏi. Như vậy chúng ta thấy người dồn hết tâm lực để phản chiếu hồi quang không rảnh nhớ chuyện bên ngoài. Chúng ta tu là phải quan sát lại xem tâm niệm ḿnh trong sạch hay không, cái ǵ chân, cái ǵ ngụy, luôn luôn thấy rơ ḿnh mà không màng chuyện bên ngoài. Người nào thường phản chiếu hồi quang như vậy sẽ kiến tánh thành Phật không nghi. Tóm lại, ngài Trần Thái Tông muốn nói rằng tất cả mọi người ai cũng có thể tu được, nhưng phải luôn luôn phản chiếu hồi quang th́ sẽ thấy tánh thành Phật.         

“Huống là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nếu muốn vượt khỏi ṿng quanh lục đạo, chỉ có con đường tắt Nhất thừa. Cần t́m chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi mới là vào cửa, hành được mới hay thoát tục. Bước bước đạp đến đất thật, đầu đầu đều đội hư không. Khi dùng th́ muôn cảnh toàn bày, buông đi th́ mảy bụi chẳng lập. Vượt đến chỗ không c̣n tương quan sanh tử, cơ liễu ngộ quỉ thần nh́n chẳng ra.” Đây là Ngài nói đến chỗ cao siêu của đạo.

“Huống là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nếu muốn vượt khỏi ṿng quanh lục đạo, chỉ có con đường tắt Nhất thừa.” Thân người khó được, mà chúng ta ngày nay đă được thân người, đó là điều hết sức quí. Phật pháp khó nghe, mà nay chúng ta được nghe pháp Phật, đó là điều quí thứ hai. Vậy chúng ta phải làm ǵ? Nếu muốn ra khỏi ṿng quanh của lục đạo luân hồi, chỉ có con đường tắt Nhất thừa. Trong kinh Pháp Hoa dạy Nhất thừa tức là Phật thừa. Nhất thừa là chỉ Tri kiến Phật, mỗi chúng sanh sẵn có, vậy ai cũng có Tri kiến Phật, hay nói theo nhà Thiền là có tánh giác, hay là Bản lai diện mục, nếu xoay lại liền thấy liền được, nên gọi là con đường tắt. Không phải tu để đời này có phước sanh lên cơi trời, rồi tu nữa cho đến trăm ngàn muôn kiếp sau mới thành Phật, đó là con đường quanh. Vậy phải trở lại ḿnh t́m cho ra tánh giác hay Tri kiến Phật của ḿnh, đó là con đường tắt nhất.

“Cần t́m chánh kiến, chớ tin tà sư.” Ngài khuyên người Phật tử cũng như Tăng Ni, khi tu cần phải t́m những bậc thầy có chánh kiến, chớ tin những thầy tà. Thầy chánh kiến có hai: Chánh kiến đối với Phật pháp và chánh kiến đối với Thiền tông. Có chánh kiến đối với Phật pháp tức là người thâm hiểu Phật pháp đúng như thật, không dạy thiên lệch một bên. Tỉ dụ như không dạy chúng ta chấp về h́nh thức sự tướng, cũng không dạy chấp về lư tánh, không nghiêng bên nào gọi là chánh kiến. Đạo Phật là đạo dạy chúng ta đi đúng trung đạo, nghĩa là không mắc kẹt bên này bên kia. Nếu kẹt một bên là thiên kiến, không phải chánh kiến. C̣n chánh kiến nhà Thiền là chỉ những người đă giải ngộ hoặc đại ngộ, thấy được nơi ḿnh có tánh Phật, hoặc nhận được bản lai diện mục của ḿnh không c̣n nghi ngờ. Được những bậc ngộ đạo chỉ dạy, ḿnh mới tiến đến giác ngộ, đó là chánh kiến. Tà sư là những người dạy lệch, không đúng chánh pháp, như trong kinh Phật dạy thế này, người ở chùa lại dạy thế khác. Thí dụ trong chánh pháp, những bộ kinh dạy người sơ cơ như kinh Tứ Thập Nhị Chương, kinh Di Giáo, Phật cấm Tăng không được coi tướng bói số v.v... Nhưng hiện nay khi có Phật tử vào chùa, thầy lại xem tướng bói số cho, đó là tà, trái lời Phật dạy. Thế nên chúng ta tu phải biết chọn lựa, nếu không rất dễ lạc đường tà, lạc đường rồi chúng ta nói tu mà rốt cuộc lại đi trong chỗ mờ mịt tối tăm.

“Ngộ rồi mới là vào cửa, hành được mới hay thoát tục.” Đây nói cao siêu hơn. Người tu Thiền ngộ đạo rồi gọi là vào cửa. Như Lục Tổ nhân nghe  một câu trong kinh Kim Cang, liền ngộ đạo. Ngộ rồi Ngài đến chỗ Ngũ Tổ tŕnh kệ, Tổ cho vào cửa. Từ đó về sau Ngài cố gắng tu hành và ngộ một lần nữa mới là người thoát tục. V́ thế nếu có duyên tốt, chúng ta ngộ được tâm thể trong sáng hằng hữu nơi ḿnh là được vào cửa của người tu Thiền. Nhưng phải “hành được mới hay thoát tục”, tức là từ đó về sau chúng ta không c̣n bị những tướng giả dối bên ngoài chi phối, lại hằng sống với cái chân thật, đó là hành được, ngay đó là thoát tục. Hành được như thế th́:

“Bước bước đạp đến đất thật, đầu đầu đều đội hư không.” Người sống được với thể chân thật th́ mỗi bước đi không rời bản tâm thanh tịnh, đến nơi nào đầu không bao giờ rời hư không, nghĩa là chân và đầu không rời thể chân thật. Nói cách khác đến đâu lúc nào cũng không rời thể thật, mới gọi là thoát tục. Người được như vậy th́ có diệu dụng:

“Khi dùng th́ muôn cảnh toàn bày, buông đi th́ mảy bụi chẳng lập.” Nghĩa là khi ứng dụng th́ muôn cảnh toàn bày, bỏ đi th́ không dính một mảy bụi. Khi xưa các Ngài ngộ đạo rồi, sống được với thể chân thật th́ trí tuệ rất nhạy bén, cần dùng phương tiện ǵ để tiếp độ chúng sanh, các Ngài dùng không thiếu, nên nói: Khi dùng th́ muôn cảnh toàn bày. Khi không cần th́ buông đi, không dính một mảy bụi, trong ḷng hoàn toàn thanh tịnh. Đó là diệu dụng của người đă sống được với đạo.

“Vượt đến chỗ không c̣n tương quan sanh tử, cơ liễu ngộ quỉ thần nh́n chẳng ra.” Người ngộ đạo như vậy mới vươn lên, vượt ra đến chỗ không c̣n vướng mắc sanh tử. Thật ra sanh tử là một lẽ đương nhiên, như chúng ta có thân chắc chắn phải có tử. Nếu ngộ đạo rồi không c̣n tương quan sanh tử, nghĩa là sao? V́ người ngộ đạo thấy rơ sanh tử do đâu mà có, nên nhân tạo sanh tử không c̣n chi phối được nữa, đó gọi là không tương quan sanh tử. (Không phải ngộ đạo rồi thành tiên sống hoài như thế gian tưởng). Tuy có tử nhưng không bị nhân lôi kéo phải sanh trở lại, nên ngang đó làm chủ được sanh tử. Sống được như vậy th́ quỉ thần cũng không thấy được tâm. Cho nên nói:

“Cơ liễu ngộ quỉ thần nh́n chẳng ra.” Tại sao? Quỉ thần thấy tâm ḿnh là khi chúng ta có vọng tưởng. Tôi nói để quí vị kinh nghiệm, khi đi tới nơi nào gọi là linh thiêng, quí vị tưởng cái ǵ th́ nó biết, c̣n hết tưởng th́ nó không biết. Thí dụ như chuyện cầu cơ, chúng ta khởi nghĩ cầu một người mất trở về, tưởng đến người nào th́ quỉ thần thấy tâm ḿnh nên nó gạt. Thật ra người mất đă đi thọ sanh nơi khác rồi, đâu c̣n lẩn quẩn ở đây để chúng ta cầu về. Như vậy quỉ thần thấy được tâm là khi chúng ta khởi tưởng, vọng tưởng là mầm dẫn chúng ta đi trong sanh tử đời sau. Trong kinh thường dạy khi gần nhắm mắt chúng ta phải nhiếp tâm niệm Phật, hoặc nhất tâm hướng về kinh điển, hoặc làm chủ được ḿnh như tu Thiền, không khởi niệm. Thế là thoát được sanh tử hay là tự do đi trong sanh tử. Niệm là nhân đưa ḿnh đến sanh tử, vậy niệm là tướng quỉ thần nh́n thấy được.

“Là phàm là thánh đồng vào đường này, hoặc oán hoặc thân cùng chung một lỗ mũi. Thật ngộ như thế, c̣n kẹt giữa đường. Thôi nói tam huyền hướng thượng, cốt rơ một câu rốt sau. Hăy nói hiện nay cái ǵ là ‘một câu rốt sau’?”

            Non xanh chốn ấy nh́n trời rộng,

            Sen đỏ nở rồi nghe mùi thơm.

Đến đây ngài Trần Thái Tông nhắc lại chúng ta, người ngộ rồi luôn luôn sống với đạo, tâm không bị ngoại cảnh chi phối, đối với người ấy là phàm là thánh cũng đồng một đường, đường này không phải đường tử mà là đường không sanh tử. Nghĩa là thánh cũng tâm thể đó, phàm cũng tâm thể đó. Nhận ra tâm thể gọi là thánh, chưa nhận ra gọi là phàm. Thánh hay phàm đều có tâm thể, cho nên đồng một đường.

“Hoặc oán hoặc thân cùng chung một lỗ mũi.” Mỗi người có lỗ mũi riêng, tại sao nói: oán thân cùng một lỗ mũi? V́ nhà Thiền thường dùng lỗ mũi để biểu trưng cho cái chân thật hiện hữu tối quan trọng của con người, ở ngay trước mắt mà không thấy. Chúng ta thấy mặt, thấy mũi của người khác mà không thấy rơ mặt mũi ḿnh, nh́n kỹ chỉ thấy một chút ở đầu mũi thôi, nếu nh́n vào gương th́ thấy bóng chớ đâu thấy lỗ mũi thật. Thế nên mũi ở trên mặt mà chúng ta không thấy, nó luôn luôn hiện hữu nhưng dường như ít khi thấy nó. Đối với thân này, mũi là mạch sống tối thượng, miệng ngừng ăn ngừng uống được đôi ngày, nhưng mũi ngừng thở được bao lâu? Ngừng thở là tắt thở chết ngay. Cũng như vậy, tâm thể là cái chân thật hiện hữu, là thể tối thượng của con người, song chúng ta chưa bao giờ thấy biết. Đừng nghĩ rằng cái không thấy không biết là không có, nó luôn luôn hiện hữu, nhưng v́ chúng ta không chịu hồi quang phản chiếu th́ làm sao thấy được! Thế nên người tu muốn thấy cái chân thật của ḿnh, tất phải hồi quang phản chiếu. Cái chân thật được tượng trưng như lỗ mũi, phải chịu khó nh́n xuống mới thấy, nếu ngó ra ngoài chẳng thấy nó đâu. Chúng ta phải hiểu cho thật kỹ những lời nhắc nhở này, bất cứ hạng người nào, dù kẻ thân hay người oán cũng đều có lỗ mũi, cũng đều có mạng sống chân thật như nhau, không phải người này có người kia không. Cho nên nói “cùng chung một lỗ mũi”, tức là ai cũng có mạng sống như nhau, mạng sống đó là tâm thể thanh tịnh hay tánh giác của ḿnh.

“Thật ngộ như thế, c̣n kẹt giữa đường.” Ngộ đúng như vậy vẫn c̣n kẹt giữa đường, v́ sao? V́ người ngộ đạo giống như người đứng xa nh́n thấy một ngọn núi, thấy thật rơ, biết ngọn núi cao thấp, có những tảng đá lớn nhỏ v.v... Thấy ngọn núi nhưng chưa phải là người đến núi. Người ngộ chưa phải là người đến nơi, nên nói “c̣n kẹt giữa đường”, thấy được mà chưa đến được. Ngài Trần Thái Tông nói những câu không phải con người thường nói được!

“Thôi nói tam huyền hướng thượng, cốt rơ một câu rốt sau.” Tam huyền tam yếu là chủ đích của Tông Lâm Tế, những điều này rất cao siêu. Giờ đây cốt rơ “một câu rốt sau”.

“Hăy nói hiện nay cái ǵ là ‘một câu rốt sau’?” Ngài liền làm hai câu thơ rất tài t́nh:

            Thanh sơn đê xứ kiến thiên hoạt,

            Hồng ngẫu khai thời văn thủy hương.

Dịch:

            Non xanh chốn ấy nh́n trời rộng,

            Sen đỏ nở rồi nghe mùi thơm.

Nếu người đứng dưới giếng nh́n lên, trời chỉ lớn bằng miệng giếng, đứng trên đất bằng nh́n, trời rộng hơn, nhưng khi lên đến ngọn núi, tức là vượt hết mọi ngăn che th́ chúng ta nh́n trời càng rộng hơn nữa, nên nói: “Non xanh chốn ấy nh́n trời rộng.”

“Sen đỏ nở rồi nghe mùi thơm”: Khi hoa sen chưa nở, tuy nh́n thấy hoa, nhưng chưa có mùi thơm. Khi hoa nở tṛn đầy, hương mới cùng khắp.

Cũng như vậy, câu rốt sau là câu vượt lên trên tất cả những chướng ngại, như ngọn núi xanh cao ngất. Khi ấy chúng ta mới thấy tâm thể thênh thang rộng lớn. Thấy như vậy chỉ là mới ngộ thôi, nhưng chưa thưởng thức được cái cao siêu quí báu của nó. Giống như hoa sen từ dưới bùn trồi lên khỏi mặt nước, có h́nh dáng nụ hoa, nhưng chưa có mùi thơm. Phải đợi hoa nở mới có mùi hương thơm ngát. Người tu cũng vậy, dù có tỉnh ngộ vượt ra khỏi ṿng tầm thường, tưởng như ḿnh đă tỉnh giác, nhưng c̣n phải tu hành một thời gian cho công phu viên măn mới được quả xuất thế. Đừng nghĩ ḿnh ngộ là được quả ngay, đó là không đúng. Vậy câu rốt sau có nghĩa là đạt đến chỗ cứu kính viên măn. Nếu mới ngộ đạo là c̣n kẹt giữa đường, chỉ nên mừng phân nửa thôi. Bao giờ đi đến tận nơi cuối cùng, mới mừng trọn vẹn, hiểu như vậy mới khỏi lầm lẫn. Nhưng hiện nay có một số người hiểu lầm, khi có tỉnh ngộ th́ nói hay quá, cái thấy của ḿnh so lại với kinh điển đều trúng hết không sai chút nào, tưởng như ḿnh là thánh cứ lo nói hoài, rốt cuộc thành thánh nói chớ không phải thánh thật, đó là bệnh mà những người tu sau này hay mắc phải. Thế nên khi tu thấy đạo rồi, chúng ta cần phải hành cho đến chỗ cứu kính viên măn.

Qua bài “Rộng khuyên phát tâm Bồ-đề”, chúng ta thấy ngài Trần Thái Tông quả là một ông vua kỳ đặc, đang ngồi trên ngai vàng trị v́ muôn dân mà tu được, ngộ được và cố gắng tu để giải thoát, thật quá hy hữu. Nhớ lại chúng ta là một thầy tu, một cô ni, có bận rộn chăng là chút việc làm vườn làm rẫy, có thấm vào đâu, chỉ lo chuyên tu mà thôi. Thế mà chúng ta tu không ra ǵ, nghĩ có hổ thẹn với nhà vua này không? Các cư sĩ Phật tử cũng vậy, nếu có bận rộn lo cho gia đ́nh một vợ vài ba con, so với nhà vua lo cho muôn dân, người cư sĩ tại gia bận rộn bao nhiêu mà nói tu không được. Lỗi tại ḿnh không quyết tu, nếu chúng ta quyết chí tu hành th́ chắc chắn sẽ tu được.

Nói tóm lại trong bài “Rộng khuyên phát tâm Bồ-đề”, ngài Trần Thái Tông muốn khuyên mọi người phát tâm cầu giác ngộ, nên tuần tự giải bày hướng dẫn chúng ta:

1. Trước tiên Ngài so sánh vàng bạc của báu với thân mạng con người, chính thân người mới thật là quí. Nhưng thế gian có nhiều người mê muội, quên thân để t́m vàng bạc. Thật ra vàng bạc chỉ là vật bên ngoài, chính thân này mới là gốc của sự sống, cho nên thân quí hơn vàng bạc.

2. Kế đến, thân mạng tuy quí song so với đạo th́ đạo c̣n quí hơn. V́ thân này có rồi phải hoại, đạo là bất hoại nên cao cả hơn. Như đức Phật Thích-ca khi xưa quên thân để cầu đạo. Bên Nho giáo có ngài Nhan Hồi, bên Lăo giáo có ông Tử Cơ, cũng v́ cầu đạo mà quên thân. Người xưa coi nhẹ thân mà quí trọng đạo.

3. Sau đó Ngài dẫn chứng làm sao biết đạo là quí? Như những người làm vua, làm quan, làm tướng vẫn đi hỏi đạo với các Thiền sư. Như vậy nếu đạo không quí làm sao người đi cầu học.

4. Cho đến các loài vật nghe đạo c̣n ngộ c̣n tu, huống nữa là con người không ham tu, không mộ đạo sao? Đây là Ngài nhắc nhở đánh thức chúng ta, đă được làm người lại được học đạo, phải nỗ lực cố gắng tu hành, chớ để thiệt tḥi.

5. Cuối cùng Ngài chỉ cho người tu muốn đạt được kết quả viên măn, là phải đi con đường tắt nhất, tức là phải hồi quang phản chiếu, chính ḿnh là gốc để t́m ra đạo, không chạy ra bên ngoài. Biết hồi quang phản chiếu th́ ai cũng có tánh giác như nhau, ai cũng có thể tu được, v́ đạo là b́nh đẳng không có riêng tư. Nếu tu được, có ngộ chút ít cũng đừng tự măn, v́ đó mới là nửa đường, c̣n phải ráng đi cho đến chỗ cuối cùng. Như hoa sen từ dưới bùn ngoi lên khỏi bùn, trồi lên khỏi nước, có nụ hoa và phải nở tṛn tỏa mùi thơm ngát mới đầy đủ giá trị. Chúng ta cũng phải tu tiến như vậy cho đến chỗ cứu kính viên măn.

Tóm lại bài này nhắc nhở chúng ta, cả tăng và tục, ai cũng có thể tu được và ai cũng phải cố gắng hành được cho đến ngày đạo quả viên thành.

]

 

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13d1][p13-d2-c1][p13-d2-c2][p13-d2-c3][p14][p15][p16][p17][p18-d1][p18-d2-c1][p18-d2-c2][p18-d2-c3][p19]

[Trang chu] [Kinh sach]